Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Kinh Nhập Lăng Già - Quyển 9

Đăng lúc: Thứ ba - 10/01/2012 10:41 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Kinh Nhập Lăng Già - Quyển 9

Kinh Nhập Lăng Già - Quyển 9

Hán Dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Ðề Lưu Chi - Ðời Nguyên Ngụy - Việt Dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh

Quyển thứ chín

PHẨM THỨ MƯỜI TÁM: TỔNG

 I- Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn trùng tuyên thâm nghĩa kinh này mà nói kệ rằng:
 Như mùa hạ cầm thú
 Lòng mê thấy sóng tràn
 Các cầm thú thích nước
 Nước đó không thật chân.
 Như vậy chủng tử thức
 Thấy cảnh giới động lên
 Các chúng sinh ngu dại 
 Thấy vật mắt có màn (che).
 Suy nghĩ, được suy nghĩ  
    Hay suy nghĩ (năng tư duy) lìa luôn
 Thấy Thật đế phân biệt
 Biết được giải thoát liền.
 Các pháp chẳng bền vững
 Hư vọng phân biệt sinh
 Hư vọng phân biết trống (không) 
Phân biết đó theo nương.
 Năm ấm, thức các pháp...
 Như bóng cây nước lồng
 Như thấy huyễn hóa, mộng...
 Trong thức chớ biệt phân.
 Huyễn khởi bày máy móc
 Mộng, chớp, mây thường luôn
 Dứt ba pháp tương tục 
 Giải thoát được chúng sinh.
 Nương các pháp tà niệm  
 Vậy nên có thức sinh
 Tám chín đủ thứ thức   
 Như sóng trong nước tràn.
 Nương pháp huân (tập) chủng tử
Thường buộc thân chắc bền
 Lòng lưu chuyển cảnh giới
 (Như) Sắt theo từ thạch nương.
 Y chỉ các sinh chúng
 Lìa các giác, tính chân
 Xa lìa các việc làm   
 Lìa tri, khả tri pháp.
 Như huyễn tam muội hành
 Sinh ra hạnh Thập địa.
 Ông quán pháp tâm vương
 Lìa tướng tâm, cảnh, thức
 Thì biết lòng chuyển luôn
 Liền trụ hằng bất biến.
 Trụ cung điện hoa sen  
 Như tướng cảnh giới huyễn
 Trụ thắng xứ đó xong   
 Ðược các hạnh tự tại.
 Như Ma ni hiện lên  
 Tác độ chúng sinh nghiệp
 Hữu vi, vô vi không (có)  
 (Diệt) Trừ những tâm phân biệt.
 Ngu si vô trí dùng 
 Như thạch nữ mơ trẻ (con)
 Tịch tịnh và vô sinh  
 Người năm ấm tương tục.
 Các cảnh giới nhân duyên
 Không hữu và phi hữu
 Phương tiện ta nói lên   
 Không thật tướng như vậy.
 Ngu si cho thật chân
 Không năng tướng, khả tướng
 Tất cả pháp ta thông
 Mà tất cả chẳng thông.
 Ta có Nhất Thiết Trí
 Mà không Nhất Thiết Trí
 Phàm phu ngu biệt phân
 Tự nói trí thế gian.
 Ta chưa từng giác biết 
 Cũng chẳng giác chúng sinh.
 Tất cả pháp duy tâm
 Như mao luân, các ấm
 Luân tướng rốt ráo không
 Chỗ nào có phân biệt?
 Vốn vô thỉ sinh vật   
 Trong các duyên cũng không
 Con thạch nữ, hoa không
 Hữu vi nếu hay thấy.
 Bấy giờ có thể thấy  
 Thấy pháp mê, trụ liền
 Ta chẳng vào Niết Bàn
 Chẳng diệt các nghiệp tướng.
 Phân biệt thức diệt tan 
 Ðây là Phật Niết Bàn
 Pháp tướng chẳng phải diệt
 Ngu si vọng phân biệt.
 Như nước dữ khô khan
 Bấy giờ chẳng sinh sóng
 Ðủ thứ thức diệt tan 
 Diệt mà chẳng sinh nữa.
 Vô thức tướng và không  
 Vốn chẳng sinh như huyễn
 Có không lìa có không
 Các pháp này như mộng.
 Ta nói một pháp chân (thật)
 Lìa khỏi các giác quán
 Cảnh giới diệu Thánh nhân
 Lìa thể tướng hai pháp.
 Như thấy tướng lửa huỳnh(đom đóm)   
Ðủ thứ mà không thật
 Thấy bốn đại thế gian   
 Ðủ thứ cũng như vậy.
 Như nương đá, cỏ, cây
 Thị hiện các tướng huyễn
 Tướng huyễn kia là không
 Các pháp thể như vậy.
 Thủ trước khả thủ không
 Không giải thoát, không buộc
 Như huyễn như lửa hừng 
 Như mộng, màn trong mắt.
 Nếu như vậy thấy thật  
 Lìa phân biệt cấu xong
 Liền trụ định như thật   
 Thấy ta không ngờ vực.
 Trong này không tâm thức
 Như ngọn lửa, hư không
 Như vậy biết các pháp 
 Mà chẳng biết một pháp.
 Lìa có, không các duyên  
 Nên chẳng sinh các pháp
 Ba cõi mê hoặc lòng
 Vậy nên đủ thứ thấy.
 Mộng và pháp thế gian
 Hai pháp này bình đẳng
 Khả kiến cùng tư sinh  
 Các xúc và cả lượng
 Thế gian thân vô thường
 Ðủ thứ sắc cũng vậy.
 Tôn giả nói thế gian  
 Việc sở tác như vậy
 Chủng tử ba cõi lòng
 Mê hoặc chưa thấy hiện.
 Biết phân biệt thế gian  
 Không thật pháp như vậy.
 Thấy như vậy thế gian  
 Hay lìa khỏi sinh tử
 Sinh và cùng chẳng sinh
 Người tu trí tuệ thấy
 Diệu cảnh A - ca - ni   
 Lìa chỗ các hạnh ác.
 Thường hành không phân biệt
 Lìa các số pháp tâm
 Ðược lực thông tự tại   
 Ðến chỗ những tam muội.
 Chỗ đó Chính giác thành
 Trong này thành hóa Phật
 Các pháp chẳng diệt, sinh
 Thể các pháp như vậy
 Ứng hóa ức không lường 
 Ra đời trong thể đó.
 Người ngu nghe Phật lý
 Như vang chẳng nghĩ bàn
 Xa lìa đầu, giữa, cuối   
 Và lìa pháp có không.
 Khắp chẳng động, thanh tịnh
 Không các tướng hiện tướng
 Thức tính che pháp thân
 Tất cả có trong thân
 Mê hoặc là huyễn có
Huyễn chẳng phải mê nhân(nhân của mê hoặc)
 Mê hoặc pháp tâm không (có)
 Chẳng phải chẳng ít có.
 Hai pháp buộc tâm nương
 A lê gia thức khởi
 Thấy như vậy chỉ tâm   
 Pháp ta như nước bạo.
 Như vậy quán thế gian 
 Bấy giờ các tâm chuyển
 Mới là con ta chân
Thành tựu hạnh thật pháp.
 Nóng, ướt và đồng, bền (chắc)
 Ngu phân biệt các pháp
 Phi thật (mà) nghĩ có luôn
 Không năng tướng, khả tướng.
 Tám thứ vật một thân (?)
 Hình tướng và các căn
 Ngu phân biệt có sắc   
 Mê hoặc lưới bao thân.
 Các nhân duyên hòa hợp
 Ngu si phân biệt sinh
 Chẳng biết pháp như vậy
 Trong ba cõi chuyển vần.
 Các pháp và ngôn ngữ 
 Là phân biệt (của) chúng sinh
 Mà các pháp là không
 Như huyễn hóa, như mộng...
 Các pháp như vậy xem
 Chẳng trụ thế Niết Bàn
 Tâm đủ thứ chủng tử
 Hiện thấy cảnh giới tâm.
 Khả kiến phân biệt sinh
 Ngu si ưa hai pháp
 Không trí, ái và nghiệp 
 Là tâm, tâm pháp nhân.
 Pháp sinh nương tha lực
 Nên nói, pháp tha lực
 Nương pháp việc biệt phân
 Lòng mê hoặc cảnh giới
 Nên phân biệt chẳng thành
 Mê hoặc tà phân biệt.
 Tâm nương nhân duyên buộc
 Vậy nên sinh các thân
 Nếu lìa các nhân duyên 
 Ta nói, chẳng thấy pháp.
 Lìa các pháp nhân duyên
 Lìa khỏi các tướng pháp
 Các pháp, chẳng trụ trong
 Ta nói, chẳng thấy cảnh
 Như trưởng giả, quốc vương...
 Ðem đủ loại cầm thú
 Tập họp trong đầm hoang
Ðể bày cho các con.
 Ta như vậy các tướng  
 Ðủ pháp tượng trong gương
 Nội thân trí là con 
Nói lên pháp thật tế.
 Như sóng dậy biển cả  
 Từ nhân duyên gió sinh
 Hay khởi dậy hiện tiền  
 Mà không có đoạn tuyệt.
 A - lê - gia thức thường
 Nương gió cảnh giới khởi
 Sóng nước thức đủ loại
 Hưng khởi sinh chẳng dừng.
 Tướng năng thủ, khả thủ
Chúng sinh thấy như thế
 Các tướng khả kiến không (có)
Mao đạo thấy như vậy
 A lê gia thức cùng 
 Ý và cả ý thức
 Năng, khả thủ lìa xong 
 Ta nói tướng như vậy.
 Trong năm ấm, ngã không
 Không người, không sinh chúng
 Sinh là các thức sinh
 Diệt là các thức diệt.
 Như trong họa (vẽ) thấp cao
 Khả kiến không như thế
 Như vậy các vật thể 
 Tướng như vậy thấy không(có).
 Như Càn thát bà thành 
 Cầm thú khát thích nước
 Thấy “Khả kiến” như trên
 Trí quán không như vậy.
 Lìa tưởng và khả lường (lượng)
 Phi quả cũng phi nhân
 Lìa năng giác, sở giác   
 Lìa năng kiến, khả kiến
 Giác nương ấm nhân duyên
 Không người thấy “Khả kiến”
 Nếu chẳng thấy khả kiến  
Làm sao tu pháp kia?
 Nhân duyên, nhân, thí dụ
 Lập ý và nhân duyên
 Mộng, Càn thát bà, luân
 Ngọn lửa và nhật, nguyệt
 Ánh sáng, huyễn vân... vân...
 Ta ngăn các pháp sinh.
 Như mộng huyễn mê hoặc
 (Trống) “Không” phân biệt chúng sinh
 Chẳng nương vào ba cõi   
Trong, ngoài cũng đều không.
 Thấy các hữu chẳng sinh  
Mới được Vô sinh nhẫn
 Ðược tam muội Như Huyễn
 Và cả Như Ý thân,
 Các (thần) thông và tự tại
 Lực, đủ thứ pháp tâm.
 Các pháp vốn chẳng sinh 
“Không”, không thể tướng pháp.
 Người mê chẳng hiểu thông
 Tùy nhân duyên sinh diệt.
 Như ngu si phân biệt
 Tâm thấy được tự tâm
 Thấy đủ thứ ngoại tướng  
Thật Không pháp khả kiến.
 Thấy Phật tượng, tướng xương.
Và các Ðại lìa tan
 Giỏi hiểu tâm hay biết   
 Trụ trì tướng thế gian.
 Thân trụ trì tư sinh (của cải để sinh sống).
Chọn lấy ba cảnh giới
 Thức chọn thức cảnh giới
 Ý, thức, phân biệt ba.
 Phân biệt, khả phân biệt
Cảnh giới có chữ thôi
 Chẳng thể thấy pháp thật
 Mê chẳng thấy giác kia.
 Các pháp không tự thể
 Kẻ trí thì giác ngộ
 Người tu vậy mới ngưng
 Trụ ở chỗ vô tướng.
 Như bức vẽ về gà 
 Ngu quyết gà của ta
 Nhu phàm phu dại lấy  
 Ba thừa là một vậy.
 Không những người Thanh Văn
Cũng không Bích Chi Phật
 Hình sắc thấy Thanh Văn
 Và thấy các đức Phật
 Các Ðại từ Bồ tát 
 Thị hiện là Hóa thân.
 Ba cõi chỉ là tâm   
 Lìa hai thứ thể tướng.
 Các tướng đó chuyển biến
 Thì tức là Chân Như.
 Pháp và hành tướng người
 Nhật nguyệt quang, lửa rực
 Những báu lớn ma ni
 Làm việc không phân biệt.
 Như vậy pháp Thế Tôn 
 Như mù thủ mao luân
 Như vậy phân biệt pháp
 Ngu si hư vọng thân.
 Lìa khỏi sinh, trụ, diệt   
 Và lìa thường, vô thường
 “Khả kiến” nhiễm, tịnh bỏ
 Như vừng lông trong không.
 Như người trúng Lang tảng (một loại cỏ làm thuốc) 
 Thấy trên đất, hình tượng
 Tất cả sắc như vàng 
 Mà đó chẳng có vàng.
 Như vậy người ngu dại 
 Vô thỉ, pháp nhiễm tâm
 Huyễn, ngọn lửa sinh có
 Người ngu cho là chân (thật).
 Một con (tử) và không con
 Biển cả là nhất tử (một con(?))
 Cũng là vô lượng tử 
 Ông quán chủng tử lòng.
 Nhất tử như sạch trong
 Chuyển thành không chủng tử
 Bình đẳng không biệt phân
 Khởi tức là sinh tử.
 Hay sinh đủ thứ con 
 Vậy chủng tử gọi tên.
 Nhân duyên chẳng sinh pháp
 Nhân duyên chẳng diệt pháp,
 Sinh pháp chỉ nhân duyên 
Tâm phân biệt như vậy.
 Ba cõi chỉ giả tên  
 Thật sự không pháp thể
 Quán các pháp thật thể
 Mê hoặc ta chẳng ngăn.
 Thật thể chẳng sinh pháp
 Quán vậy giải thoát liền
 Ta chẳng thấy huyễn không
 Nói các pháp là có
 Ðiên đảo như chớp nhanh
 Vậy nên nói như huyễn.
 Phi bản sinh, như sinh   
 Các nhân duyên vô thể (không hình thể)
 Không có xứ và thể 
 Chỉ có lời ngữ ngôn.
 Chẳng ngăn duyên sinh diệt
 Chẳng ngăn hòa hợp duyên
 Ngăn những ngu si kiến 
Phân biệt nhân duyên sinh.
 Thật không thức thể pháp
 Sự việc, bản thức không
 Ngu si sinh phân biệt
 Như ác giác thây chết.
 Ba cõi chỉ là tâm   
 Các Phật tử hay thấy (năng kiến)
 Liền được chủng loại thân
 Lìa làm hữu vi pháp.
 Ðược Lực tự tại, thông
 Và pháp cộng tương ưng
 Hiện tất cả các sắc   
 Tâm pháp như vậy sinh
 Mà không tâm và sắc   
 Tâm vô thỉ mê hoặc
 Bấy giờ người tu hành  
 Ðược thấy đến vô tướng.
 Trong trí tuệ xét xem
 Chẳng thấy các sinh chúng
 Tướng và việc giả danh
 Ý thủ các động pháp.
 Các con ta quá hơn  
 Tu hành không phân biệt  
 Huyễn, Càn thát bà thành
 Vừng lông và ngọn lửa.
 Không thật mà thấy chân
 Thể các pháp như vậy.
 Thấy các pháp như tâm
 Không thể tướng như vậy.
 Tất cả pháp chẳng sinh 
 Chỉ thấy pháp mê hoặc
 Mao đạo mê phân biệt 
 Do trụ pháp nhị biên.
 Sơ thức sinh phân biệt  
 Ðủ thứ chủng tử huân (tập)
 Thức như nước bạo khởi 
 Cắt đứt thì chẳng sinh.
 Ðủ thứ niệm quán pháp
 Nếu chỉ sinh trong lòng
 Như trong vách hư không
 Vì sao chẳng sinh được?
 Nếu có ít tương quan   
 Thì tâm từ duyên có
 Nếu sinh từ nhân duyên 
Duy tâm, chẳng được nói.
 Tâm thủ ở tự tâm  
 Không pháp không nhân sinh
 Pháp thể tâm thanh tịnh
Không huân (tập) trong hư không.
 Thủ tự tâm hư vọng 
 Vậy nên tâm chẳng sinh
 Ngoại pháp không thể thấy
 Vậy nên nói duy tâm.
 Bản thức chỉ là tâm  
 Ý hay niệm cảnh giới
 Hay thủ các cảnh giới   
 Nên ta nói duy tâm.
 Tâm thường vô ký pháp
 Chọn tướng, ý nhị biên
 Chọn hiện pháp là thức
 Ðó là lành, chẳng lành (bất thiện).
 Lìa hai thứ tướng thức  
 Là Ðệ Nhất Nghĩa môn
 Nói ba thừa sai biệt 
 Tướng Tịch tịnh là không.
 Nếu tâm trụ tịch tịnh 
 Ở Phật địa tu hành
 Là lời Phật quá khứ 
 Hiện, vị lai cũng thế.
 Sơ - thất địa là tâm  
 Tịch tịnh Ðệ Bát địa
 Nhị địa là chỗ hành (hành xứ)   
Pháp ta là địa khác (dư địa)
 Tự nội thân sạch trong 
 Tự tại địa ta đó
 Chỗ tự tại rốt cùng   
 Hiện A Ca Ni Sấc.
 Như ngọn lửa vân... vân...
 Mà phát ra ánh sáng
 Ðủ thứ khả lạc tâm  
 Hóa làm ở ba cõi.
 Hoặc Hữu trước hóa thành
 Mà hóa làm ba hữu
 Chỗ đó pháp tuyên dương
 Tự Tại địa ta đó.
 Các địa không thời gian
 Ðất nước chuyển cũng vậy
 Qua nhưng pháp địa tâm
 Là trụ quả Tịch tịnh,
 Thật không(có) gọi thật chân
 Mà thấy được đủ thứ
 Người ngu thủ đảo điên
 Là đủ thứ điên đảo.
 Như trí không biệt phân
 Có việc chẳng tương ứng
 Chẳng phải sắc do tâm 
 Vậy nên không phân biệt.
 Các thiền và không lường
 Và tam muội vô sắc
 Các tướng rốt cùng diệt
 Vậy nên trong tâm không.
 Tu đà hoàn quả pháp   
 Vãng lai và Bất Hoàn
 Và các quả la hán 
 Tất cả mê hoặc lòng.
 Sát na, Không, Vô thường
 Hữu vi, ngu phân biệt
 Thí dụ, chủng tử, sông  
 Nghĩa sát na phân biệt
 Sát na không phân biệt 
 Lìa những pháp đã làm
 Tất cả pháp chẳng sinh 
 Ta nói sát na nghĩa.
 Có, không nói đến sinh
 Tăng - Khư... vọng tuyên nói
 Tất cả pháp không nói 
 Cũng người đó nói lên.
 Có bốn thứ nói pháp:   
 Vãng đáp, phản vấn đáp
 Phân biệt sai biệt đáp   
 Mặc đáp, ngăn ngoại đạo.
 Thế đế tất cả có 
 Ðệ Nhất Nghĩa đế không
 Mà tướng thật thể không
 Là Ðệ Nhất Nghĩa đế.
 Thấy pháp hư vọng xong  
 Vậy nên nói thế đế
 Nhân ở ngôn ngữ sinh  
 Không thật thể như vậy.
 Không việc có ngữ ngôn  
 Trong thế đế thật không
 Tức là việc điên đảo
 Khả kiến cũng là không.
 Nếu việc điên đảo có   
 Tịch tịnh rốt cùng không
 Nương vào việc điên đảo 
 Và thấy các pháp sinh.
 Rốt ráo định là không   
 Tức là không thể tướng
 Những đủ thứ sở kiến  
 Huân tập não phiền sinh.
 Tâm thấy ngoài mê hoặc
Hiện thủ cảnh hiện tiền
 Phân biệt không phân biệt
 Là pháp tướng thật, không (trống).
 Các tướng như huyễn tượng
 Như cây lá màu vàng
 Là người thấy khả kiến 
 Huân tập tâm vô minh.
 Thánh nhân chẳng mê thấy
 Chẳng thấy thật trung gian
 Mê hoặc tức là thật  
 Do thật tức trung gian
 Xa lìa các mê hoặc  
 Các tướng nếu hay sinh
 Tức là kia mê hoặc  
 Như màn (che) mắt chẳng trong (sạch)
 Như mờ thấy vừng lông(mao luân)
Nương mê thủ các pháp.
 Ở trong các cảnh giới   
 Ngu si thủ là pháp.
 Các pháp như vừng lông  
 Ngọn lửa, nước mê hoặc
 Ba cõi như huyễn mộng
 Tu hành được giải thoát.
 Phân biệt, khả phân biệt
Hay sinh ra phân biệt
 Phược (buộc), khả phược và nhân.
Sáu thứ nhân giải thoát.
 Không (có) Ðịa và các Ðế
 Không đất nước và hóa
 Phật Bích Chi, Thanh Văn
 Chỉ là tâm phân biệt.
 Thể người (nhân thể) và năm ấm.
 Các duyên và vi trần
 Thắng nhân (người thắng) tự tại làm.
 Chỉ là tâm phân biệt
 Mọi chỗ tâm khắp cùng
 Mọi chỗ đều là tâm
 Do tâm chẳng giỏi quán
 Các tướng tâm tính không (có).
 Trong năm ấm không ngã
 Trong ngã, năm ấm không (có)
 Phân biệt không là pháp
Mà pháp chẳng phải không.
 Như ngu si phân biệt
 Có tất cả các pháp
 Như vậy thấy có thật   
 Tất có nên thấy thật.
 Tất cả pháp nếu không
 Không nhiễm, tịnh cũng không
 Ngu si thấy như vậy 
 Pháp đó chẳng như vậy.
 Tướng mê hoặc biệt phân
 Là tha lực phân biệt
 Tướng đó sẵn có tên
 Tên là tướng phân biệt.
 Tên tướng là phân biệt
 Hòa hợp việc nhân duyên
 Nếu chẳng sinh tâm đó 
 Là tướng Ðệ nhất nghĩa.
 Báo tướng Phật thể chân(thật)
Và tướng Phật biến hóa
 Bồ tát và chúng sinh 
 Cùng đất nước mười phương.
 Pháp tập khí hóa Phật  
 Và tạo tác hóa Phật
 Tất cả đều từ nước   
A Di Ðà mà ra
 Ứng, hóa Phật nói pháp
 Và Báo Phật nói pháp
 Kinh điển rộng tuyên dương
 Ông nên biết mật ý.
 Phật tử sẵn có nói 
 Và với các Thế Tôn
 Là đều hóa Phật nói 
 Chẳng phải người thuần(thục) nói.
 Là các pháp chẳng sinh
 (Mà) Pháp đó chẳng phải không
 Huyễn, Càn thát bà thành
 Như mộng hóa tương tợ.
 Ðủ thứ chuyển theo lòng  
 Chỉ tâm, phi pháp khác
 Tâm sinh, đủ thứ sinh   
 Tâm diệt, đủ thứ diệt.
 Chúng sinh vọng phân biệt
 Không vật mà thấy vật
 Không nghĩa chỉ là tâm 
 Không phân biệt được thoát.
 Ðời vô thỉ luận suông(hí luận)
 Y chỉ ở phiền não
 Các phân biệt huân tu  
 Vậy nên sinh tà kiến.
 Thứ không phân biệt nghĩa
 Chân như là trí cảnh
 Chuyển đó là tịch tịnh   
 Là cảnh giới Thánh nhân.
 Quan sát nghĩa, suy nghĩ
Là phàm phu suy nghĩ.
 Niệm Chân như suy nghĩ.
 Là chư Phật suy nghĩ.
 Phân biệt các pháp thể 
 Tất cả pháp chẳng sinh
 Nương tha lực nhân duyên
 Chúng sinh mê phân biệt.
 Tha lực nếu sạch trong (thanh tịnh)
 Lìa phân biệt tương ứng
 Chuyển đó tức Chân như 
 Lìa phân biệt là hạnh.
 Chớ phân biệt biệt phân
 Phân biệt là không thật
 Phân biệt pháp mê hoặc
 Thủ, khả thủ chẳng cùng (tận).
 Thấy ngoại cảnh phân biệt
 Phân biệt là thể thật
 Tâm phân biệt biệt phân
Pháp đó nhân duyên sinh.
 Nghĩa ngoại đạo tà kiến
 Vô nghĩa chỉ là tâm
 Quan sát lượng tương ưng
 Hay diệt thủ khả thủ(lấy).
 Cảnh giới bên ngoài không(có) 
Ngu si vọng phân biệt
 Huân tập thêm lớn lòng
 Tượng tợ sinh các pháp.
 Hai phân biệt diệt tan
Cảnh giới Chân như trí
 Vô pháp tướng phát sinh  
Chẳng nghĩ bàn Thánh cảnh.
 Phân biệt và tướng danh
Thật thể hai thứ tướng
 Chánh trí và Chân như 
 Là thành tựu thật thể.
 Cha mẹ hòa hợp nương(theo)
 A lê gia thức hợp
 Như chuột, váng sữa, bình...(?)
 Chung trắng, đỏ tăng trưởng.
 Mụt nhọt dày, thây cong   
Chẳng sạch nương họa tiết
 Gió nghiệp bốn đại tăng (trưởng) 
Như những trái thành thục (chín mùi)
 Năm và ở năm năm (ngũ cập ư ngũ ngũ(?))
Và có chín thứ lỗ
 Những lông che khắp cùng
 Tăng trưởng sinh như vậy.
 Sinh như trùng trong phân
 Như người thức trong ngủ
 Mắt thấy sắc, niệm khởi
 Sinh phân biệt lớn thêm.
 Phân biệt và chuyên niệm
 Rồi hòa hợp môi răng
 Miệng bắt đầu nói năng
 Như Anh vũ đùa tiếng (lộng thanh).
 Các ngoại đạo nói định
 Ðại thừa chẳng quyết định
 Nương tâm chúng sinh định
 Tà kiến chẳng thể gần.
 Thừa ta, trí nội chứng   
 Vọng giác chẳng phải cảnh(giới)
 Sau khi Phật Niết Bàn(Diệt độ)
 Vị lai sẽ có kẻ
 Này Ðại Tuệ! Lắng nghe!
 Có kẻ trì pháp ta
 Ở trong nước nam lớn (?) 
Có Ðại đức Tỳkheo
 Tên Long Thọ Bồ tát   
 Giỏi phá thấy có không (hữu vô kiến)
 Pháp ta vì người nói 
 Pháp Ðại thừa không trên (Vô thượng).
 Chứng được Hoan Hỷ địa
Vãng sinh nước Lạc An.
 Trí tuệ quan sát pháp   
 Chẳng thấy pháp thể chân(thật)
 Vậy nên chẳng thể nói  
 Và nói thể cũng không.
 Nếu nhân duyên sanh pháp
 Chẳng được nói có, không
 Trong nhân duyên có vật  
Ngu phân biệt có, không.
 Tà kiến, hai tà pháp 
 Tà biết lìa pháp ta
 Tất cả danh tự pháp 
 Thường học vô lượng kiếp.
 Ðã học lại học thêm 
 Cùng chung nhau phân biệt
 Nếu chẳng nói các tên  
 Thì thế gian mê hoặc.
 Vậy nên tạo tự danh
 Vì trừ nghiệp mê hoặc
 Ba thứ phân biệt nương
 Ngu si phân biệt pháp.
 Mê phân biệt nương danh(tên)
 Và nhân duyên hay sinh
 Pháp chẳng sinh, chẳng diệt
 Tự tính như hư không.
 Pháp vô thể là thể
 Tướng phân biệt tức thể
 Huyễn hóa và bóng hình
 Ngọn lửa, mộng, tiếng vang
 Càn thát bà, vừng lửa...
 Các pháp như vậy sinh
 Chẳng hai, Chân như, không(trống không)
 Thật tế và pháp thể.
 Ta nói, phân biệt không (có)
 Thành tựu pháp tướng đó
 Cảnh giới rỗng miệng, lòng
 Thật mới lập hư vọng (?)
 Tâm rơi vào hai biên
 Vậy nên lập phân biệt.
 Có, không rơi hai biên  
 Do tại cảnh giới tâm
 Xa lìa các cảnh giới  
 Bấy giờ chính diệt tâm.
 Do lìa cảnh giới thủ  
 Ðó diệt, chẳng có, không
 Như cảnh giới Thánh nhân
 Người ngu chẳng thể biết.
 Trụ Chân như có diệt   
 Kẻ trí có thể nhìn
 Như các pháp đó trụ   
 Người trí có thể nhìn
 Pháp thể chẳng như vậy 
Do tướng các pháp không
 Kẻ ngu si thấy sắt 
Phân biệt cho là vàng.
 Chẳng phải vàng (mà) thấy vàng  
Ngoại đạo thủ pháp vậy.
 Vốn không nói trước sinh(thỉ sinh).
Trước sinh sau hoàn(trở lại) diệt.
 Từ nhân duyên có, không
 Lời này ta chẳng dạy
 Pháp vô thỉ vô chung
 Không tướng trụ như vậy.
 Do trụ tướng thế gian   
 Người tà giác chẳng biết
 Pháp quá khứ chẳng không
 Pháp vị lai là có
 Pháp hiện tại cũng có   
 Chẳng nên nói pháp sinh.
 Khi chuyển và hành tướng
Các đại và các căn
 Hư vọng thủ “trung ấm”(phần còn lại sau khi chết)  
 Nếu thủ (lấy) phi giác thì
 Tất cả Phật Thế Tôn
 Chẳng nói nhân duyên sinh.
 Nhân duyên tức cõi thế 
Như Càn thát bà thành
 Chỉ pháp duyên hòa hợp  
 Nương pháp này sinh pháp.
 Lìa các pháp hòa hợp  
 Chẳng diệt cũng chẳng sinh
 Gương và ở trong nước
 Mắt và khí (đồ) ma ni
 Mà thấy các cảnh tượng (hình dáng trong gương). 
Các ảnh tượng là không
 Như thú thích “không thủy”
 Thấy đủ thứ sắc hình
 Ðủ thứ tựa như có
 Như mộng, con thạch mỡ.
 Thừa ta phi Ðại thừa
 Phi thanh cũng phi tự (chữ)
 Phi giải thoát, phi đế 
 Phi cảnh giới tịch tịnh
 Mà thừa ta, Ðại thừa   
 Các tam muội tự tại.
 Thân như ý đủ thứ
Hoa tự tại trang nghiêm
 Nhất thể và biệt thể  
 Không pháp trong nhân duyên.
 Lược nói các pháp sinh
 Rộng nói các pháp diệt.
 Chẳng sinh, không là một
 Mà sinh, không là hai.
 Chẳng sinh, không là thắng   
Sinh, diệt tức là không.
 Chân như, không, thật tế
 Pháp giới cùng Niết Bàn
 Thân và ý đủ thứ   
 Ta nói pháp khác tên (dị danh).
 Kinh, Tỳ Ni, Tỳ Ðàm   
 Phân biệt ngã thanh tịnh
 Chẳng y nghĩa, y danh  
 Ðó chẳng biết vô ngã.
 Phi Phật, phi ngoại đạo 
 Phi ngã cũng chẳng (phải) còn (phi dư)
 Từ duyên thành có pháp  
 Thì sao các pháp không? (có)
 Người nào thành tựu có
 Từ nhân duyên nói không?
 Nói pháp sinh tà kiến   
 Vọng phân biệt có, không.
 Nếu người thấy chẳng sinh
 Cũng thấy pháp chẳng diệt
 Người đó lìa có, không 
 Thấy thế gian tịch tịnh.
 Chúng sinh thấy biệt phân
 Khả kiến như sừng thỏ
 Phân biệt là hoặc mê
 Như chim yêu ánh lửa.
 Hư vọng phân biệt pháp
 Nương thấy phân biệt kia
 Không nhân duyên phân biệt
 Không nhân chẳng nên chia.
 Như nước mà lấy nước 
Như thủ vọng sinh yêu.
 Ngu si thấy như vậy 
 Thánh nhân không như vậy.
 Thánh nhân thấy sạch trong
 Do sinh ba giải thoát
 Lìa các pháp tử sinh 
 Tu hành chỗ tịch tịnh.
 Rất khoái diệu phương tiện
 Biết việc diệu nước non
 Ta vì các con nói  
 Chẳng vì những thừa nhỏ (tiểu thừa).
 Ba cõi là vô thường  
 Không, vô ngã, lìa ngã
 Tướng riêng (biệt tướng) và tướng đồng.
Ta nói vì Thanh Văn.
 Mọi pháp chẳng chấp trước
 Ðộc hành lìa thế gian
 Ta nói quả Duyên Giác 
 Phi cảnh giới tư lương.
 Phân biệt ngoài thật thể
 Từ tha lực nên sinh
 Thấy tự thân mê hoặc  
 Bấy giờ chuyển các tâm.
 Thập địa tức Sơ địa 
 Sơ địa tức Bát địa
 Cữu địa tức Thất địa
 Thất địa tức Bát địa
 Nhị địa tức Tam địa 
 Tứ địa tức Ngũ địa
 Tam địa tức Lục địa 
 Tịch tịnh không thứ lớp
 Các pháp tịch tịnh luôn 
 Người tu hành không pháp
 Bình đẳng pháp có không
 Bấy giờ Thánh được quả.
 Thể tướng các pháp không
 Làm sao ở không (có) pháp
 Mà tạo tác ngang bằng (bình đẳng)
 Tịch diệt không phân biệt.
 Nếu chẳng thấy các tâm
 Pháp trong và ngoài động
 Bấy giờ diệt pháp xong
 Thì thấy tâm bình đẳng.
 Ngu vô thỉ lưu chuyển  
 Thủ pháp như ôm mang
 Lừa (dối) phàm phu mà chuyển.
Như nhân quế, quế sinh.
 Nương nhân đó mà quán  
 Ý thủ cảnh giới chung
 Nương vào chủng tử thức
Có thể tạo tâm nhân.
 Tu được và trụ giữ
Tùy chủng loại được thân
 Và sở đắc trong mộng  
 Thông này có bốn giống (thứ).
 Trong mộng sở đắc thông
 Và với ân chư Phật
 Thủ chủng loại thân được
 Thông đó chẳng thật thông.
 Huân tập tâm, chủng tử
 Tựa có pháp chuyển sinh
 Người ngu chẳng hay biết
 Vì họ, nói pháp sinh.
 Phân biệt ở ngoại vật
 Các pháp tướng được thành.
 Bấy giờ lòng buồn bực 
 Chẳng thấy tự mê hoặc.
 Vì sao nói có sinh?   
 Vì sao nói không thấy?
 Chẳng thể thấy mà thấy ?
 Nguyện xin nói vì con!
 Vì đối với những ai? 
 Nói những pháp nào có?
 Vì đối với những ai? 
 Nói những pháp nào không?
 Tâm thể tự thanh tịnh   
 Ý khởi vẩn đục chung
 Ý và tất cả thức 
 Hay huân tập chủng tử
 A lê gia xuất thân  
 Ý xuất cầu các pháp
 Ý thức chọn cảnh giới  
 Mê hoặc kiến tham lấy.
 Pháp sở kiến tự tâm 
 Ngoại pháp, không ngoại pháp
 Quán như vậy mê lầm  
 Chân như luôn nhớ nghĩ
 Cảnh giới người tu thiền
 Nghiệp đại sự chư Phật
 Ba (thứ) này chẳng nghĩ bàn 
Là cảnh giới kẻ trí.
 Quá khứ, hiện, vị lai 
 Niết Bàn và hư không
 Ta nương thế đế nói 
 Chân đế không tự danh.
 Nhị thừa và ngoại đạo  
 Ðều chấp trước tà kiến
 Mê mất ở trong tâm 
 Phân biệt ở ngoại pháp.
 Bích Chi Phật, Bồ tát   
 La hán thấy chư Phật
 Chủng tử Bồ Ðề bền
 Và trong mộng thành tựu.
 Ở đâu? Vì những gì?
 Tại sao? Vì nhân gì?
 Việc làm vì nghĩa gì?
 Nguyện xin nói vì con!
 Tâm huyễn khử tịch tịnh
Bè đảng nói có, không
 Trong lòng mê bền chắc
 Nói huyễn có, huyễn không.
 Tướng sinh diệt tương ứng   
Tướng, khả tưởng có không,
 Phân biệt chỉ là ý   
 Năm thứ thức cùng chung.
 Bóng gương cùng sóng nước...
 Từ tâm chủng tử sinh
 Nếu tâm và cả ý
Mà các thức chẳng sinh
 Thì được Như ý thân
Cho đến ngôi Phật địa.
 Ấm, giới và các duyên  
 Là pháp tự thể tướng
 Giả danh và nhân tâm   
 Như mộng như  mao luân.
 Thế gian như huyễn, mộng
 Thấy y chỉ thật chân
 Các tướng thật tương ứng   
 Lìa các nhân đo lường.
 Nội cảnh các Thánh nhân
 Thường quán các diệu hạnh
 Mê che nhân đo lường 
 Khiến thế gian thật giải.
 Lìa mọi luận bàn suông (hí luận)
Trí chẳng trụ mê hoặc
 Thể tướng các pháp không (có).
 Không và thường, vô thường.
 Lòng trụ ở ngu dại
 Mê hoặc nên biệt phân
 Nói về những pháp đó
 Chẳng phải nói vô sinh.
 Một, hai và cả hai(?)
 Bỗng nhiên tự tại có
 Nương thời(gian) thắng vi trần.
Duyên phân biệt thế gian.
 Hạt giống đời là thức
 Y chỉ nhân đó sinh   
 Như nương vách vẽ tượng(hình dáng)   
 Biết thật là diệt tan.
 Như người thấy ở huyễn
 Cũng vậy, thấy tử sinh
 Người ngu nương bóng tối
 Trói buộc, giải thoát sinh.
 Những đủ thứ nội ngoại
 Các pháp và nhân duyên
 Tu hành quán như vậy  
 Chỗ tịch tịnh trụ yên.
 Vô tâm trong huân tập 
 Lòng chẳng huân tập chung
 Lòng không tướng sai biệt
 Huân tập trói buộc lòng.
 Như cấu(cấu bẩn) thấy huân tập.
Ý từ ở thức sinh
 Như lụa, tâm cũng thế  
 Nương huân tập chẳng rõ (rệt).
 Như vật phi vô vật   
 Ta nói hư không vậy.
 Trong A lê gia thân  
 Lìa khỏi vật có không
 Ý thức chuyển diệt xong  
 Lòng lìa khỏi pháp bẩn.
 Tất cả pháp biết thông 
 Nên ta nói tâm Phật.
 Ỏ ba cõi đoạn tuyệt 
 Lìa khỏi pháp có không.
 Thế gian bốn tương ứng
Các hữu đều như huyễn
 Là hai pháp thể tướng  
 Thất địa từ tâm sinh.
 Ðịa khác cũng viên thành  
Nhị địa và Phật địa
 Sắc giới, Vô sắc giới
 Dục giới và Niết Bàn.
 Tất cả tâm cảnh giới 
 Chẳng lìa khỏi trong thân
 Nếu thấy các pháp sinh
 Là sinh pháp mê hoặc.
 Hiểu tự tâm mê hoặc
 Là chẳng sinh các pháp,
 Không sinh thể tướng pháp
 Sinh tức chấp thế gian.
 Thấy các tướng như huyễn
 Như vậy pháp thể tướng
 Thủ hư vọng tư tâm 
 Chớ phân biệt các pháp.
 Vì si không trí nói  
 Ba thừa cùng một thừa
 Và nói đến vô thừa  
 Các thánh nhân tịch tịnh.
 Pháp ta có hai thứ 
Tướng pháp và chứng nữa
 Bốn thứ tướng châm lường
 Lập lượng, pháp tương ứng.
 Hình và tướng thắng chủng
 Thấy mê hoặc biệt phân
 Danh tự và hành xứ  
Hạnh Thánh thật sạch trong (thanh tịnh).
 Nương phân biệt (mà) phân biệt
Nên có tướng phân biệt
 Lìa phân biệt (mà) biệt phân 
Cảnh giới Thánh thật thể.
 Chẳng biến (đổi) thật thường hằng 
Tính sự và thật thể
 Chân như lìa pháp tâm 
 Xa lìa khỏi phân biệt.
 Nếu có pháp sạch trong (thanh tịnh)
 Cũng không có nhiễm pháp
 Do có thanh tịnh tâm
 Mà thấy có nhiễm pháp.
 Cảnh giới Thánh sạch trong  
Vậy nên không thật sự
 Là tướng các pháp thể 
 Cảnh giới của Thánh nhân.
 Từ nhân sinh thế gian   
 Lìa khỏi các phân biệt
 Như huyễn, mộng vân...vân..
 Thấy pháp được giải thoát.
 Huân tập nhiều não phiền (đủ thứ)
 Chung tâm tương ứng sinh
 Chúng sinh thấy ngoại pháp  
Chẳng phải pháp thể tâm.
 Tâm pháp thường thanh tịnh
 Chẳng phải mê hoặc sinh
 Mê từ phiền não khởi
Vậy nên tâm chẳng thấy.
 Mê hoặc tức thật chân  
Chỗ khác chẳng thể được
 Chẳng ấm, chẳng chỗ khác
 Quán ấm, hành thật chân.
 Lìa thấy, giỏi thấy tướng
Nếu thấy pháp hữu vi
 Thấy tự tâm thế gian
 Người đó giỏi lìa tướng
 Chớ thấy pháp duy tâm
 Chớ phân biệt ngoại nghĩa
 Trụ Chân như xét xem 
 Qua khỏi tâm cảnh giới
 Qua cảnh giới tâm xong
 Xa lìa các tịch tịnh
 Tu hành trụ tịch tịnh  
 Hành giả trụ lặng yên (tịch tịnh).
 Chẳng thấy Ma ha diễn (Ðại thừa)
 Tịch tịnh là tự nhiên
 Nương các nguyện tịch tịnh
 Trí vô ngã tịch tịnh.
 Nên quán cảnh giới tâm
 Cũng quán cảnh giới trí
 Trí tuệ quán cảnh giới   
 Ở trong tướng chẳng mê.
 Cảnh giới tâm: Khổ đế 
 Tập là cảnh giới trí
 Nhị đế và Phật địa   
 Là cảnh giới Bát nhã.
 Ðắc quả và Niết Bàn   
 Và cả tám thánh đạo
 Tất cả pháp, biết thông
 Ðược Phật trí thanh tịnh.
 Nhãn sắc và cả minh (ánh sáng)
Hư không cùng tâm ý
 Như vậy hòa hợp lại
 Thức từ Lê gia sinh
 Năng thủ, khả thủ thọ (nhận)
Vô sự cũng vô danh.
 Không có nhân phân biệt 
Nếu thủ lấy ở giác
 Thì trong nghĩa không danh
 Trong danh, nghĩa cũng vậy.
 Nhân không nhân mà sinh
 Chớ phân biệt (mà) phân biệt   
 Tất cả pháp không thật
 Cũng vậy lời ngữ ngôn.
 Nghĩa vậy không, chẳng không.
Ngu si thấy pháp đúng
 Vọng lấy mà trụ chân (thật)  
Tà kiến nói giả danh.
 Một pháp thành năm thứ (?)
 Như thật giỏi lìa xa
 Năm thứ là pháp ma
 Có, không vượt qua khỏi.
 Chẳng phải tu cảnh giới
 Là pháp ngoại đạo mà!
 Chẳng cầu có pháp tà  
 Cũng không tương kiến ngã.
 Do là pháp mình thường
 Chỉ từ ngôn ngữ sinh 
 Thật đế chẳng thể nói   
 Tịch diệt thấy pháp liền.
 A lê gia y chỉ 
 Ý thức hay chuyển sinh
 Nương hư, hư vọng thành
 Chân như là tâm pháp
 Như vậy người tu hành 
 Hay biết tâm tính thể
 Phân biệt thường, vô thường
 Ý tướng và sự việc
 Sinh và cùng chẳng sinh 
Hành giả chẳng nên thủ (lấy)
 Hai pháp chớ biệt phân 
Thức từ Lê gia sinh
 Một nghĩa hai tâm pháp
 Chẳng biết như vậy sinh.
 Thủ (lấy) một pháp, hai pháp
 Là cảnh giới người phàm
 Không người nói và nói 
Chẳng không do thấy tâm.
 Chẳng thấy ở tự tâm 
Nên sinh màn lưới thấy
 Các nhân duyên chẳng sinh
 Các căn cũng như vậy.
 Giới và năm ấm không
 Không hữu vi, không tham
 Vốn không có tác nghiệp 
 Phi hữu vi, chẳng làm.
 Không trừ, cũng không buộc
 Không buộc, không giải thoát
 Không vô ký, vô vật
 Không pháp, không phi pháp
 Không thời không Niết Bàn
 Pháp thể cũng là không
 Không Phật, không thật đế
 Không nhân cũng không quả
 Không diệt, không đảo điên 
Không diệt cũng không sinh
 Mười hai chi cũng không
 Biên, vô biên cũng vậy
 Các tà kiến lìa khỏi  
 Vậy nên nói duy tâm.
 Phiền não, nghiệp và thân
 Tác giả cùng quả báo
 Như mộng và ngọn lửa
 Như Càn thát bà thành...
 Trụ ở trong tâm pháp   
 Các pháp tướng mà sinh
 Trụ ở trong tâm pháp   
 Mà thấy pháp đoạn, thường.
 Trong Niết Bàn không ấm
 Tưởng vô ngã cũng không
 Hay vào chỉ là tâm   
 Giải thoát chẳng chọn tướng.
 Thấy lỗi gì tha nhân  
 Bên ngoài chúng sinh thấy
 Tâm chẳng phải có, không
 Do huân tập chẳng hiển (rõ rệt).
 Trong bẩn chẳng thấy trắng
 Trong trắng chẳng thấy bẩn
 Như mây che hư không 
Vậy nên tâm chẳng thấy.
 Tâm hay tạo tác nghiệp
 Trí ở trong phân biệt
 Tuệ hay quán lặng yên (tịch tịnh).
Ðược pháp thể đại diệu.
 Cảnh giới buộc, tâm nương
 Trí nưong giác quán sinh
 Cảnh giới thắng tịch tịnh
 Tuệ hay hành ở trong.
 Tâm ý và ý thức 
 Ở trong tướng biệt phân
 Ðược thể không phân biệt
 Nhị thừa chẳng (phải) các con.
 Tướng thắng nhân tịch tịnh
 Chư Phật trí tuệ tịnh
 Với thắng nghĩa hay sinh
 Ðã lìa các tướng hành
 Phân biệt pháp thể có  
 Tha lực pháp là không
 Mê hoặc thủ phân biệt
 Chẳng phân biệt tha lực.
 Phi các đại có sắc 
 Có sắc phi các đại
 Mộng, huyễn, càn thát bà
 Thú khát yêu không nước.
 Ta có ba thứ tuệ   
 Ðược y chỉ Thánh danh
 Tâm trong không pháp sinh
 Vậy nên tâm chẳng thấy.
 Trụ giữ thân tư sinh (của sinh sống của thân)  
 Chúng sinh nương huân (tập) kiến
 Nương tướng phân biệt kia
 Mà nói đến các pháp.
 Lìa tương ứng nhị thừa 
 Tuệ lìa hiện pháp tướng
 Hư vọng thủ (lấy) pháp nên
 Thanh Văn nhìn thấy pháp.
 Hay vào chỉ là Tâm  
 Trí Như Lai vô cấu
 Hoặc thật và chẳng chân (thật).
Từ nhân duyên sinh pháp.
 Một hai là thấy tà  
 Rốt ráo hay thủ trước
 Ðủ thứ các nhân duyên 
 Như huyễn không thật có.
 Tướng như vậy đủ thứ 
 Phân biệt chẳng thể thành
 Nương vào tướng phiền não
 Trói buộc từ tâm sinh.
 Chẳng biết pháp phân biệt
 Tha lực là phân biệt
 Thể phân biệt có thành 
 Tức là pháp tha lực.
 Ðủ thứ thấy phân biệt   
 Ở phân biệt tha lực
 Nghĩa thế đế đệ nhất
 Ðệ tam không nhân sinh (?)
 Phân biệt nói tương tục
 Ðoạn là cảnh thánh nhân
 Người tu hành một việc
 Thấy đủ thứ chỉ tâm.
 Chỗ đó không thể tâm 
 Tướng phân biệt như vậy
 Người trong mắt bị màn
 Ngăn phi sắc phi sắc
 Như ngu thấy tha lực.  
 Như vàng lìa bụi trần
 Như nước lìa bùn đục  
 Như hư không lìa vân (mây)
 Phân biệt tịnh như vậy. 
 Có ba thứ Thanh Văn
 Ứng, hóa và nguyện sinh  
Lìa các tham si bẩn
 Tướng các Như Lai không(có).
 Trong lòng chúng sinh tâm
 Thấy tượng Như Lai Phật
 Phân biệt không như vậy
 Pháp thể tha lực có. 
 Thấy có, không hai biên
 Thấy nên thấy phân biệt
Nếu không pháp phân biệt
 Tha lực làm sao có? 
 Xa lìa có pháp thể
 Thật có pháp thể sinh   
 Y chỉ ở phân biệt
 Mà thấy ở tha lực.   
 Nương hòa hợp tướng, danh
 Mà sinh ra phân biệt
 Việc thành tựu thường không
 Tha lực phân biệt sinh. 
 Bấy giờ biết thật thể
 Ðệ Nhất Nghĩa sạch trong (thanh tịnh).
Phân biệt có mười thứ
 Tha lực có sáu thứ
 Chân như là nội thân
 Vậy nên không tướng khác.
 Năm pháp là pháp chân (thật)
 Và ba thứ thật tướng 
Như vậy người tu hành
 Chẳng hoại Chân như pháp
 Tinh tú, mây, dáng hình
 Tợ như thể nhật, nguyệt
 Các chúng sinh thấy tâm
 Khả kiến huân tập sinh.
 Các Ðại không tự thể
 Phi năng kiến, khả kiến
 Nếu sắc từ Ðại sinh
 (Thì) Các Ðại sinh các Ðại.
 Như vậy Ðại chẳng sinh
 Trong Ðại không bốn Ðại
 Nếu quả là bốn Ðại
 Thì đất, nước... là nhân
 Thật và giả Danh sắc
 Cũng vậy mà huyễn sinh.
 Càn thát bà và mộng
 Thú thích nước thứ năm
 Nhất xiển đề năm thứ
 Các tính cũng như thế. 
 Năm thừa và phi thừa
 Niết Bàn có sáu thứ 
 Ấm có hai mươi tư
 Sắc lại có tám thứ.   
 Phật có hai mươi tư
 Phật tử có hai thứ 
 Cửa độ có trăm thứ
 Thanh Văn có ba thứ.
 Nước chư Phật chỉ một
 Mà Phật cũng có một   
 Giải thoát có ba thứ
 Lòng nghĩ có bốn thứ   
 Ngã, vô ngã sáu thứ
 Cảnh khả tri bốn thứ.   
 Lìa khỏi các nhân duyên
 Cũng lìa lỗi tà kiến   
 Biết ly cấu nội thân
 Pháp Ðại Thừa Vô thượng.
 Sinh và cả chẳng sinh
 Có tám thứ, chín thứ
 Thứ lớp nhất thời thành (chứng)
 Lập pháp chỉ là một.
 Vô sắc có tám thứ
 Thiền sai biệt sáu thứ   
 Duyên Giác và Phật tử
 Năng thủ có bảy thứ.   
 Không có pháp ba đời
 Thường, vô thường cũng vậy,
 Nghiệp quả và việc làm
 Như làm việc trong mộng.
 Phật tùng lai (từ xưa đến nay) chẳng sinh
 Phật tử và Thanh Văn  
 Lòng lìa khỏi khả kiến
 Cũng thường như pháp huyễn:  
Thai sinh, chuyển pháp luân
 Xuất gia và Ðâu suất
 Trụ trong những đất nước
 Khả kiến và chẳng sinh
 Khứ, hành và chúng sinh
 Nói pháp và Niết Bàn. 
 Hiểu thật đế đất nước
 Pháp sinh từ nhân duyên
 Các rừng cây thế gian
 Vô ngã ngoại đạo hạnh.
 Thiền thừa A lê gia
 Chứng quả chẳng nghĩ bàn
 Tính trăng và tinh tú
 Các vua A tu la 
 Dạ xoa, Càn thát bà
 Nhân nghiệp mà phát sinh
 Chẳng thể nghĩ bàn biến(biến đổi).
 Lùi nương huân tập duyên
 Ðoạn tuyệt các biến dịch
 Thì tội phiền não diệt.   
 Tất cả các Bồ tát
 Mà như thật tu hành 
 Chẳng chứa các của báu
 Voi ngựa và bạc vàng  
 Trâu dê cùng nô bộc...
 Lúa gạo với ruộng vườn...
 Chẳng nằm “xuyên khổng sàn” (giường xuyên lỗ (?))
 Chẳng được “nên đồ địa”(bùn trét đất (?))
Ðồng đỏ trắng, bạc, vàng
 Ðồ dùng và chén, bát...
 Người tu hành tịnh hạnh
 Tất cả chẳng được chứa. 
 Quần áo Kiều-xa-gia
 Tất cả chẳng được mặc.
 Cà sa Khâm-bà-la
 Phân trâu, cỏ, trái, lá
 Nước bùn đất xanh, đỏ
 Nhuộm hoại màu trắng đi.
 Bát bằng đá, gốm, sắt
 Ngọc kha và lưu ly...   
 Bát như vậy cho giữ
 Ðủ đầy lượng Ma đà.   
 Vì cắt may quần áo
 Cho giữ tứ thốn đao(dao bốn tấc)
 Lưỡi cong như bán nguyệt
 Chẳng được học kỹ thuật.
 Người như thật tu hành
 Chẳng ra chợ buôn bán
 Chạy theo người thế gian
 Và những ưu-bà-tắc
 Thường hộ giữ các căn
 Biết được nghĩa như thật  
Kinh điển đọc tụng luôn
 Những Tỳ ni học tập
 Chẳng xen lẫn thế gian
 Người tu hành như vậy.
 Chỗ trống cùng nghĩa trang
 Dưới cây rừng, trong hang
 Rừng Thi đà trong cỏ
 Cho đến đất ngoài đồng
 Người tu hành như thật
 Trụ những chỗ như trên.
 Ba y thường tùy thân
 Chẳng chứa của tiền khác
 Vì thân cần áo quần
 Người khác cho, được nhận.
 Ra đi vì xin ăn
 Cũng chẳng nhìn phải, trái
 Sáu thước trước được nhìn
 An tường mà thẳng tiến.
 Như ong hút mật bông(hoa)
 Xin ăn cũng như vậy.   
 Tỳkheo, Tỳkheo ni
 Trong chúng xen lẫn chúng
 Ta vì Phật tử xướng:
 Ðây là “ác mạng họat” (cách kiếm sống xấu, ác) 
 Người như thật tu hành.
 Chẳng được ăn chỗ ấy.
 Vương tử, tiểu vương, vương
 Ðại thần và trưởng giả  
 Vì cầu xin uống ăn
 Tất cả chẳng được đến.
 Nhà chết và nhà sinh
 Nhà yêu thích, nhà thân (quen).
Chúng Tỳkheo tạp nhạp...
 Người tu hành chẳng ăn.  
Chùa, nhà khói chẳng dứt
 Thường là đủ thứ ăn 
 Nên vì người tạo tác
 Hành giả chẳng nên ăn.
 Lìa bè đảng có, không
 Năng kiến, khả kiến buộc
 Hành giả xem thế gian
 Lìa khỏi pháp sinh diệt.
 Sức tam muội tương ưng
 Và các thông tự tại  
 Phân biệt nếu chẳng sinh
 Chẳng lâu được Như pháp.
 Từ người thắng, vi trần...
 Trong duyên chớ phân biệt
 Hòa hợp các nhân duyên
 Hành giả chẳng phân biệt.
 Phân biệt các thế gian
 Từ huân (tập) sinh đủ thứ
 Hành giả như thật xem
 Ba hữu như huyễn, mộng.
 Ba hữu chớ biệt phân
 Của nuôi thân trụ giữ
 Lìa bài báng có, không
 Cũng lìa thấy có, không.
 Ăn uống như uống thuốc
 Thân tâm thường chánh trực
 Chuyên cung kính một lòng
 Phật và các Bồ tát   
 Người như thật tu hành
 Nên biết những tướng luật
 Và cả những điển Kinh
 Giản trạch (chọn lựa) các pháp tướng.
Năm pháp thể và lòng
 Tu hành không ngũ tướng
 Thanh tịnh nội pháp thân
 Các Ðịa và Phật địa 
 Người như vậy tu hành
 Trụ ở hoa sen lớn  
 Chư Phật đại từ bi
 Tay Như ý xoa đầu. 
 Ở sáu đường đến, đi
 Các hữu sinh lòng chán
 Phát khởi hạnh thật chân
 Ðến trong Thi Ðà lâm.  
 Tướng hình thể nhật nguyệt
 Và với tướng biển hoa  
 Lửa hư không đủ thứ
 Người tu hành thấy pháp.
 Thấy các tướng như trên
 Chọn lấy pháp ngoại đạo 
Cũng theo đạo Thanh Văn
 Và cảnh giới Duyên Giác.
 Lìa như vậy vân... vân...
 Trụ ở chỗ tịch tịnh
 Thì Phật diệu quang minh
 Ði đến các đất nước,   
 Xoa đỉnh đầu Bồ tát
 Tướng diệu xoa đỉnh này  
Thuận theo Chân như pháp
 Bấy giờ được diệu thân.
 Có không nhân pháp thể
 Lìa khỏi pháp đoạn thường
 Bài báng pháp có không
 Là phân biệt trung đạo.
 Phân biệt không các nhân
 Không nhân là đoạn kiến
 Thấy đủ thứ ngoại pháp
 Là người diệt trung đạo.
 Chẳng xả các tướng pháp
 Sợ có tướng đoạn tuyệt
 Có, không là báng pháp
 Như vậy nói trung đạo.
 Giác chỉ là nội tâm
 Ở ngoại pháp chẳng diệt  
Chuyển hư phân biệt
 Tức là pháp trung đạo. 
 Duy tâm không thể thấy
 Lìa khỏi tâm chẳng sinh
 Tức là pháp trung đạo
 Ta và chư Phật nói,  
 Sinh và với chẳng sinh
 Hữu vật, vô vật không 
 Các pháp không tự thể
 Chớ phân biệt hai pháp.
 Phân biệt là có pháp
 Ngu phân biệt giải thoát
 Chẳng giác tâm phân biệt
 Lìa khỏi hai tướng thủ. 
 Giác biết tự tâm kiến
 Thì lìa khỏi hai kiến  
 Như thật biết xa lìa
 Chẳng diệt phân biệt tướng.
 Thật biết tâm khả kiến
 Thì biết phân biệt sinh  
 Chẳng sinh các phân biệt
 Là Chân như lìa tâm 
 Lìa các lỗi ngoại đạo
 Các pháp nếu thấy sinh
 Kẻ trí kia nên lấy
 Mà chẳng diệt Niết Bàn
 Biết pháp này là Phật
 Ta nói và Phật khác 
 Nếu thấy khác các pháp
 Là nói việc ngoại đạo.  
 Chẳng sinh hiện ra sinh
 Chẳng thoái hiện ra thoái
 Như trăng nước đồng thời
 Vạn ức nước nhìn thấy.
 Một thân và không lường
 Rót mưa và đốt lửa  
 Tâm, tâm thể chẳng khác
 Nên nói chỉ là tâm.   
 Trong tâm chỉ là tâm
 Tâm không tâm mà sinh
Ðủ thứ tướng sắc hình
 Cái thấy chỉ là tâm.  
 Thân Phật và Thanh Văn
 Cùng thân Bích Chi Phật...
 Lại đủ thứ sắc thân
 Chỉ nói là nội tâm  
 Cõi Vô sắc không sắc
 Cõi Sắc và địa ngục 
 Sắc hiện làm chúng sinh
 Chỉ là nhân duyên tâm. 
 Pháp Như huyễn tam muội
 Mà thân như ý sinh  
 Tâm Thập địa tự tại
 Bồ tát chuyển được đó.
 Tự tâm phân biệt danh
 Hí luận mà lay động 
 Nương thấy nghe, biết sinh
 Ngu si nương tướng biết.  
 Tướng là thể Tha lực
 Nó nương danh phân biệt
 Phân biệt là các tướng
 Nương tha lực pháp sinh.
 Trí tuệ quán các pháp
 Không tha lực, tướng không
 Rốt ráo không thành tựu
 Trí nương đâu biệt phân? 
Nếu có pháp thành tựu
 Lìa khỏi pháp có, không
 Lìa khỏi thể có, không
 Hai thể làm sao có? 
 Phân biệt hai thứ thể
 Hai thứ thể nên có   
 Phân biệt thấy đủ thứ.
 Cảnh giới Thánh sạch trong.
 Phân biệt là đủ thứ
 Phân biệt là tha lực  
 Nếu phân biệt khác thì
 Rơi vào ngoại đạo thuyết.
 Phân biệt là phân biệt
 Thấy là thể tướng (của) nhân
 Phân biệt nói phân biệt
 Thấy là nhân tướng sinh.
 Lìa khỏi hai phân biệt
 Tức là pháp viên thành 
 Ðất nước hóa thân Phật
 Một thừa và ba thừa.   
 Không Niết Bàn tất cả
 “Không” lìa tất cả sinh  
 Phật ba mươi sai biệt
 Riêng lại có mười thứ.  
 Khí dụng của mọi nước
 Nương vào lòng chúng sinh
 Như phân biệt tướng pháp
 Hiện thấy đủ thứ pháp. 
 Pháp đó không đủ thứ
 Pháp Phật (pháp thân Phật) ở thế gian.
Pháp Phật là chân Phật
 Còn thì nương đó sinh (hóa sinh ra)
 Chúng sinh tự chủng tử
 Thấy tướng Phật tất cả 
 Nương mê hoặc chuyển lòng
 Có thể sinh phân biệt.  
 Phân biệt chẳng lìa chân
 Và chẳng lìa khỏi tướng
 Thọ lạc và thể chân (thật)
 Hóa lại làm các hóa (biến hóa).
Phật chúng ba mươi sáu (?)
 Là thể Phật thật chân   
 Như xanh, đỏ và muối
 Sữa trắng và mật đường
 Lá, quả, hoa vân... vân...
 Như những ánh sáng trăng
 Phi nhất cũng phi dị
 Như sóng trong nước dậy.
 Như vậy bảy thức cùng
 Chung hòa hợp với lòng
 Như biển cả chuyển biến
 Vậy nên sóng dậy lên.  
 A lê gia cũng vậy
 Danh thức cũng như vậy  
 Tâm ý và ý thức
 Nghĩa ngoại tướng phân biệt.
 Tám tướng không sai biệt
 Chẳng phải năng, khả kiến
 Như sóng nước biển lớn
 Không có tướng sai biệt.  
 Các thức ở trong tâm
 Chuyển biến chẳng thể được
 Tâm hay tạo các nghiệp
 Ý là hay phân biệt 
Ý thức hay biết pháp
 Năm thức hư vọng thấy
 Ðủ thứ trắng, đỏ, xanh
 Thức chúng sinh hiện thấy
 Ðối pháp tướng sóng nước
 Là ta nói tịch mặc (Mâu Ni).
 Ðủ thứ trắng, đỏ, xanh
 Trong sóng nước không vậy
 Các tướng, ngu si thấy
 Nói chuyển ở trong lòng 
Trong tâm không là thể
 Lìa tâm không thấy ngoài
 Nếu có được khả thủ
 Nên có được năng thủ.
 Trụ giữ thân tư sinh(của cải thân sinh sống)
 Nói sóng nước tương tợ
 Hiện thấy thức chúng sinh
 Sóng nước chung tương tợ.
 Sóng biển cả khởi lên
 Hiện thấy như múa chuyển
 Bản thức như vậy chuyển
 Biết chẳng thủ vì sao?  
 Ngu si không trí tuệ
 Bản thức như sóng bể (biển)
 Sóng nước đối tướng chuyển
 Vậy nên nói thí dụ:   
 Mặt trời mọc thế gian
 Bình đẳng soi sinh chúng
  Như vậy đèn Thế Tôn
 Chẳngvì ngu (mà) nói pháp.
 Trụ ở Chân như pháp
 Chẳng nói thật vì sao?  
 Nếu nói ra pháp thật
 Trong lòng không pháp thật
 Như trong mộng và gương
 Như sóng nước trong bể  
 Như cảnh giới tự tâm
 Ðều thấy không sau, trước
 Cảnh giới nhất thời không
 Vậy nên sinh thứ lớp.
Thức hay biết các pháp
 Ý lại hay biệt phân   
 Năm thức hiện thấy pháp
 Tịch tịnh không thứ lớp.
 Như thầy vẽ thế gian
 Và đệ tử thầy vẽ   
 Ở diệu pháp ta trụ
 Nói vì thật tu hành.   
 Lìa phân biệt phân biệt
 Là thật trí nội thân
 Ta nói vì Phật tử
 Chẳng vì những ngu nhân.
 Cũng như huyễn đủ thứ
 Khả kiến không như thế
 Nói đủ thứ cũng vậy
 Nói cũng vậy chẳng vậy.  
 Vì một người nói pháp
 Chẳng nói vì người khác
 Như người bệnh chẳng đồng
 Thầy thuốc cho thuốc riêng.
 Chư Phật vì sinh chúng
 Nói các pháp tùy lòng  
 Nương chủng tử ngoại pháp
 Phân biệt nói hiện pháp.
Tâm thủ (lấy) pháp tha lực
 Khả thủ là phân biệt 
 Y chỉ chủng tử tâm
 Quán lấy ngoại cảnh giới.
 Hai thứ chuyển mê hoặc
 Lại không đệ tam nhân 
 Do mê hoặc chẳng sinh
 Nương pháp nào chẳng sinh?
 Sáu mươi, mười tám pháp
 Vậy nên chỉ nói tâm.
 Tự tâm thấy ngoại pháp
 Thấy kia lìa khỏi ngã
 Nếu vào lòng biệt phân
 Thì lìa các pháp tướng. 
 Nương vào A lê gia
 Hay sinh ra các thức
 Ngu si vào nội thân
 Tâm thấy ở ngoại nhập.
 Thủ (lấy) tinh tú, mao luân
 Như trong mơ thấy sắc
 Hữu vi, vô vi thường
 Phân biệt không như vậy.
 Huyễn, Càn thát bà thành
 Như cầm thú thích nước
 Không vậy mà thấy có
 Pháp tha lực cũng thế.  
 Hình tướng ngã, các căn
 Ta nói ba thứ tâm 
 Tâm ý và ý thức
 Lìa khỏi tự thể tướng   
 Tâm ý và ý thức
 Lìa khỏi tha thể tướng  
 Tâm ý và ý thức
 Không ngã, không hai thể.
 Tướng năm pháp tự thể
 Là cảnh giới Thế Tôn   
 Về tướng có ba thử
 Nương vào một huân (tập) nhân
Như màu sắc một thứ
 Thấy đủ thứ trên tường.
 Hai thứ tâm vô ngã
 Ý và các thức tướng
 Năm thứ pháp thể tướng
 Tính ngã không như vậy.
 Xa lìa các tướng tâm
 Thức lìa khỏi ý tướng   
 Thể các pháp như thế
 Là cảnh giới của Ngã.  
 Lìa khỏi các pháp thể
 Là tính của Như Lai 
 Nghiệp thân, miệng và ý
 Kia chẳng tạo bạch pháp.
 Tính Như Lai sạch trong
 Lìa khỏi các tu hành 
 Tự tại tịnh các thông
 Trang nghiêm lực tam muội
 Ðủ thứ ý sinh thân
 Là tính Như Lai tịnh 
 Lìa bẩn, trí nội thân
 Lìa khỏi các tướng nhân.  
Bát địa và Phật địa
 Là tính các Như Lai 
 Viễn Hành, Thiện Thệ địa
 Pháp Vân cùng Phật địa
 Là tính của chư Phật
 Ðịa khác xem ba thừa. 
 Nương riêng thân chúng sinh
 Và vì ngu phế tướng 
 Vì nói bảy thứ địa
 Nên Phật nói tâm địa.  
 Các chướng thân, miệng, lòng
 Trong Thất địa không thế
 Trong Bát địa diệu thân
 Như mơ tướng bạo thủy.  
 Bát địa và Ngũ địa
 Học đủ thứ kỹ thuật 
 Tất cả các Phật tử
 Trong ba hữu làm vua. 
 Sinh và cùng chẳng sinh
 Chẳng phân không chẳng không 
Thật và cả chẳng thật
 Không như vậy trong lòng.
 Ðây thật, đây phi thật
 Chớ phân biệt thật này 
 Duyên Giác và Thanh Văn
 Chẳng vì Phật tử nói
 Có không có phi thật
 Cũng không có tướng không
 Giả danh và thật pháp
 Trong lòng tất cả không.  
 Nương thế đế có pháp
 Ðệ nhất nghĩa đều không
 Không thật pháp mê hoặc
 Là các pháp thế đế. 
 Tất cả pháp, không pháp
 Ta nói đến giả danh  
 Ngôn ngữ và thọ dụng
 Ngu si thấy thật chân (như thật).
Theo với pháp ngữ ngôn
 Là thật có cảnh giới  
 Từ ngôn ngữ pháp sinh
 Thấy pháp không như vậy.
 Như lìa vách, vẽ không (có)
 Cũng như ảnh lìa tượng
 Bản tịnh thức cũng vậy
 Vì sóng chẳng hiện lên. 
 Như huyễn, tâm cũng vậy
 Ý như người giảo hoạt 
 Thức với năm thứ chung
 Phân biệt thấy như thải (năm sắc xen lẫn). 
 Nói là tập (quen) pháp chân
 Tập (gom) sở hữu hóa làm
 Là chư Phật căn bản
 Còn thì ứng hóa Phật.  
 Lòng mê trong khả kiến
 Trong lòng khả kiến không
 Của nuôi thân trụ giữ
 A lê gia hiện liền.   
 Tâm ý và ý thức
 Thật thể năm thứ pháp 
 Hai thứ vô ngã tịnh
 Lời nói Phật Như Lai.  
 Hư vọng giác phi cảnh
 Và cũng vậy Thanh Văn
 Là cảnh giới nội thân
 Lời nói Như Lai Phật.  
 Dài ngắn đợi chờ nhau
 Ðó đây sinh nương nhau
 Có có thể thành không
 Không có thể thành có 
 Và phân biệt vi trần
 Sắc thể chẳng phân biệt.  
Nói chỉ là ở tâm
 Tà kiến chẳng thể tịnh  
 Trong đó phân biệt không
 Chẳng không cũng như vậy.
 Chỉ phân biệt có, không
 Khả thuyết không như vậy
 Hợp công đức vi trần
 Ngu si phân biệt sắc.
 Mỗi một vi trần không
 Vậy nên không là nghĩa
 Tự tâm thấy tướng hình
 Chúng sinh thấy ngoại hữu (có ở bên ngoài)  
 Pháp khả kiến ngoài không
 Vậy nên không là nghĩa.
 Tâm như huyễn, mao luân
 Càn thát bà thành, mộng
 Cầm thú yêu hỏa luân
 Thật không mà người thấy.
 Một và thường, vô thường
 Hai và chẳng hai nữa
 Lỗi vô thỉ buộc ràng
 Ngu si mê phân biệt.
 Ta chẳng nói ba thừa
 Mà chỉ nói một thừa 
 Vì nhiếp lấy sinh chúng
 Vậy nên nói một thừa.  
 Giải thoát có ba thứ
 Cũng nó pháp vô ngã   
  Trí bình đẳng, não phiền
 Nương giải thoát phân biệt.
  Cũng như cây trong nước
 Bị sóng cuốn lênh đênh 
Như vậy si Thanh Văn
 Vì các tướng phiêu đãng. 
Họ không chỗ rốt cùng
 Cũng lại chẳng hoàn sinh (sinh trở lại).
 Ðược Tịch diệt tam muội
 Chẳng hay (biết) kiếp không lường.
  Ðịnh của Thanh Văn đó
 Chẳng phải Bồ tát ta
  Lìa các tùy phiền não
 Buộc phiền não nương theo.
  Say cảnh vui tam muội
 Trụ cõi Vô Lậu kia   
Như người say cõi thế
 Rượu tan thì tỉnh ra. 
  Người đó nhiên hậu được
 Thân thể Phật pháp ta  
  Như kẻ chìm bùn sâu
 Thân vùng vẫy đây đó. 
  Như vậy Thanh Văn say
 Tam muội, chìm cũng vậy.
 
  KINH NHẬP LĂNG GIÀ
 
- Quyển thứ chín hết -

--- o0o ---

Quyển 1 | Quyển 2 Quyển 3 Quyển 4 Quyển 5
 Quyển 6 | Quyển 7 Quyển 8 Quyển 9 Quyển 10
 
--- o0o ---

Tác giả bài viết: Tuệ Khai cư sĩ
Nguồn tin: Trang nhà Quảng Đức
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Cách gởi bài viết về Ban Biên Tập

Nội quy đăng bài viết :Bài viết trước khi đăng phải hội đủ các điều sau :- Thứ nhất : Trang web chỉ có một mục đích đó là Hoằng Dương Phật Pháp- Thứ hai : Nội dung thuần tuý chỉ có quan điểm, kinh điển, Luật, Luận chính thống của Nhà Phật- Thứ ba : không liên quan bất...

Thống kê

  • Đang truy cập: 123
  • Hôm nay: 15625
  • Tháng hiện tại: 1729209
  • Tổng lượt truy cập: 59382142

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile