Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Lời vàng trong mộng - Phần 2

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 11:39 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Lời vàng trong mộng - Phần 2

Lời vàng trong mộng - Phần 2

Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ.

Có một việc con không nên trễ,

Hãy nói mau cho kẻ trần hay;

Sớm Đông chiều lội về Tây,

Hai con rắn độc ở ngay trong trần.

Nó đã sống lâu hơn Bàn-Cổ,

Sức lớn không so đọ chi bằng;

Ngày đêm bò lội xung-xăng,

Gặp người gian ác bắt ăn không chừa.

Nay cõi thế gặp cơ tận diệt,

Con quái nầy thêm dịp hành hung;

Dù đem bom lửa súng đồng,

528. Chỉ là chọc giận nơi lòng nó thôi.

Dùng khí giới thêm hơi cho nó,

Hại nhiều người chớ có ích chi;

Bánh xe nhật nguyệt lăn đi,

Tránh sao cho khỏi thời kỳ nầy đâu.

Phật biết rõ đuôi đầu tự sự,

Muốn cho người bỏ dữ về lành,

Rắn dù có lắm gút nanh,

Cũng không sát hại mạng sanh được nào.

Người nghe qua tưởng đâu lời phỉnh,

Gặp nó rồi mới tính sao đây;

Kêu Trời, Trời cũng khoanh tay,

540. Réo Thần, Thần cũng đứng ngoài mà trông.

Hãy liệu trước kẻo không tính kịp,

Đến nước rồi mọi việc giai hưu;

Chuyện nầy ta rất lo ưu,

Đê đầu lạy Phật xin mưu cứu đời.

Phật liền vỗ vào vai nhè nhẹ,

Rồi ung-dung tiếp kể thêm lên;

Nầy con, để dạ đừng quên,

Sau khi thức giấc đem khuyên người đời.

Trước khi cuộc non dời biển đổi,

Chúng sanh trong khắp cõi trần dương;

Đông Tây Nam Bắc bốn phương,

552. Hướng nào cũng nhớ niệm luôn Di-Đà.

Lòng ngày đêm không xa sáu chữ,

Tất sẽ trừ rắn dữ được ngay,

Pháp môn tuy có nhiều thay,

Hạ Nguơn niệm Phật mỗi ngày cũng nên.

Niệm Di-Đà đừng quên hướng thiện,

Thì tai ương tất viễn ly thân;

Chớ nên chờ họa đến gần,

Mới ra công niệm mất phần ứng linh.

Con nhớ khuyên người gìn đức tín,

Lòng thỉ chung nhất định không quên;

Đường xa càng bước càng bền,

564. Như người tìm mẹ lâu niên lạc loài.

Không quản lúc chông gai mưa nắng,

Mẹ khi nào tìm đặng mới thôi;

Tu hành cũng thế con ôi!

Quyết về gặp Phật cùng ngồi toa sen,

Chẳng để phút nào quên tưởng Phật,

Dù xác thân lắm lúc gian lao;

Phật xưa khổ hạnh ngần nào,

Không xiêu ngã mới đứng vào Như Lai.

Xưa Phật cũng mang đai phàm xác,

Như chúng sanh nào khác chi đâu;

Thế mà Phật đạt đạo mầu,

576. Chúng sanh há chẳng tu cầu cho nên.

Trước Phật có vô biên sanh chúng,

Đã chân tu được chứng Niết-Bàn;

Phật không riêng ở Tây-phang,

Mười phương đâu cũng có hàng Như-Lai.

Không khác chi Đông Tây Âu Á,

Nơi nào mà chẳng có người ta;

Nước thì nghèo khổ xấu xa,

Nước thì giàu có lầu tòa vinh vang.

Lấy việc nầy hiểu sang việc khác,

Có chúng sanh thì Phật nào không;

Hãy tin tưởng mạnh nơi lòng,

588. Để cùng chư Phật ngồi chung Liên-đài.

Kể từ đây đến ngày tận thế,

Nơi Liên trì Phật để nhiều hoa;

Chờ người nơi cõi Ta-bà,

Khi sang đây có dùng mà làm chân.

Sự mầu nhiệm vô ngần tột bực,

Toàn là do công đức tương ưng;

Trong hoa tức có thức thần,

Thức thần an trụ chín từng Liên hoa.

Thân sen vàng trong tòa hoa báu,

Cõi thế gian khó tạo cho ra;

Có muôn ánh sáng chói lòa,

600. Càng trông càng bắt sanh ra kính vì.

Trong ánh sáng ẩn vi hương quí,

Rất thơm tho khác dị hơn phàm;

Cõi nầy sao chẳng thích ham,

Lại đem lòng mến thế gian mới kỳ.

Người cõi sen mỗi khi khởi niệm,

Tức ứng ngay theo điểm của mình;

Việc nào cũng rất mầu linh,

Những điều gọi trái ý mình là không.

Muốn nghe nhạc tất trong luồng gió,

Thổi vào cây liền có nhạc nghe;

Thân cây màu sắc trong ve,

612. Phật nào mình muốn tức là hiện ngay.

Kệ cho nghe những bài vô thượng,

Thật ngoài điều tưởng tượng của mình;

Cõi nầy do Phật tạo nên,

Bằng muôn công đức xây trên tu hành.

Những người được thân sanh vào đấy,

Trong lòng không hề thấy chán chê;

Đạo mầu càng lúc say mê,

Như dân nghèo khó được kề nhà vua.

Kẻ dương thế thích ưa châu ngọc,

Giết hại nhau bóc lột liền tay;

Cõi sen châu ngọc làm cây,

624. Bạc vàng làm đất lót đầy khắp nơi.

Giá tuy quí không người giành giựt,

Chẳng một ai thiếu hụt món chi;

Lại thêm tất cả việc gì,

Hễ lòng nếu muốn tức thì có ngay.

Chúng sanh hiện sống ngày lao khổ,

Há không mau đến chỗ báu nầy,

Từ xưa cho đến những nay;

Phật hằng chờ đón không ngày nào ngơ.

Bao lâu Phật cũng chờ đón mời,

Nhưng người đời ít thấy ai sang;

Vì mang nợ thế đa đoan,

636. Không giờ phút rảnh để sang bên này.

Lắm kẻ tính đi ngay cho tới,

Song nửa chừng rẽ lối bỏ đi;

Đã bao nhiêu kiếp diên trì,

Đến nay cũng chửa thấy gì quyết tâm.

Lẽ đạo pháp đành rằng mắc-mỏ,

Nhưng cố tìm tất rõ mối manh;

Quyết tu thì ắt sẽ thành,

Có trồng có hưởng há rằng không ngơ,

Chúng sanh biết bao giờ nhứt niệm;

Cứ để lòng lui tiến liền khi,

Càng làm xót dạ từ bi,

648. Thương đời còn mãi mê ly biển trần.

Tranh lợi danh chia phân thượng hạ,

Không ngày nào trong dạ được yên;

Ít ai sống được bá niên,

Mà lo những việc lâu bền ngàn năm.

Nào khác chi giống tằm làm ổ,

Tự trói mình không chỗ chui ra;

Trong khi chưa chín chưa già,

Bị người đem nấu trong lò nước sôi.

Phật đứng ngoài xem đời mộng mị,

Không cười chê vẫn ý xót thương;

Khi xưa Phật ở trần dương,

660. Lúc chưa ngộ đạo cũng dường thế ni,

Đường của Phật đã đi đã hiểu,

Thương người còn lịu địu chưa xong;

Cứu cho được mới vừa lòng,

Chúng sanh còn khổ vẫn không ưng tình.

Nghe đoạn nầy ta sanh cảm động,

Rồi tự dưng khóc rống to lên;

Nghĩ rằng tâm Phật rộng thênh,

Giúp ngừơi chẳng đợi ai đền trả ân.

Đã nhiều kiếp bỏ thân vì đạo,

Vẫn một lòng chỉ bảo chúng sanh;

Ghét ưa gì cũng mặc tình,

672. Cứ lo tiếp dẫn cứ gìn lòng thương,

Lo như mẹ lo đường con trẻ,

Quên nhọc nhằn chẳng kể nắng sương;

Chúng sanh hữu phước không lường,

Nhờ lời của Phật mở đường mới thông.

Nghĩ đến đâu động lòng đến đó,

Nước mắt càng lụy nhỏ như mưa;

Cúi đầu ta mới liền thưa,

Biết làm sao trả cho vừa Phật ân.

Con xin Phật chỉ phân ráo rốt,

Những điều con quê dốt chưa thông;

Hay thay! Con khéo phát lòng.

684. Dạy con mọi lẽ Phật không tiếc gì,

Hiện giờ con trong khi đang ngủ,

Chơn linh con về trụ Kim-Sơn,

Xác con đang ngọa tại trần,

Nằm như khúc củi thức thần đều không.

Vậy con hãy thử trông lại xác,

Như chết rồi nào khác chi đâu;

Những nào của cải đài lầu,

Những nào trăm thứ sắc màu nọ kia.

Phủi tất cả không hề ngó tới,

Hết còn lo tấn thối sự chi,

Chúng sanh lấy đó mà suy;

696. Chết rồi cũng thế có gì khác đâu.

Muôn việc đến quan khâu là hết,

Nghèo giàu đều chung kết như nhau,

Uổng công lúc sống quơ quào;

Mạng chung tay chẳng nắm vào món chi,

Gây tội chẳng vật gì trường hưởng,

Ấy là người lầm tưởng lớn lao,

Thay vì nghiệp ác chuốc vào;

Nên làm nhơn thiện cho nhiều quí hơn.

Danh được tốt mà ơn cũng có,

Hữu sự ai đành bỏ được mình;

Sống trong cuộc sống an ninh,

708. Không ai đối địch chống kình mà lo.

Được như thế của kho đâu sánh,

Cũng hơn người quyền bính ác gian;

Tử sanh mà có Niết-Bàn.

Khổ lao mà có thanh nhàn là đây.

Đời cứ mãi sống say chết ngủ,

Lên xuống hoài chịu đủ đắng cay;

Mỗi lần người bị bào thai,

Mỗi lần bỏ một xác thây tại trần.

Thây xác ấy nếu dồn chất lại,

Sẽ lấp đầy cả Thái Bình Dương,

Chúng sanh nào biết nào tường;

720. Cứ say đắm mãi trên đường mê ly.

Từ đây còn lần đi tới nữa,

Đến khi nào lò lửa năm châu;

Bùng lên cháy phủ cả đầu,

Chừng ni mới biết việc đâu đã rồi.

Chúng sanh đã nhiều hồi loạn lạc,

Tay bồng con lưng vác hành trang;

Trước đầu lửa cháy đa đoan,

Sau lưng tiếng súng giặc tràn đuổi theo.

Pha lẫn tiếng con kêu khóc mẹ,

Bên đường còn nhiều kẻ thác oan;

Trông vào phách lạc hồn tan,

732. Thấy người rồi bắt nghĩ sang đến mình.

Lúc ấy chỉ mong sanh cho được,

Hết còn lo đến cuộc lợi danh;

Vật chi đổi mạng cũng đành,

Lòng không còn biết tiếc dành món chi.

Cảnh nầy sẽ nhiều khi hơn nữa,

Cuộc thái bình lần lựa chưa xong;

Rộng tâm chớ có hẹp lòng,

Trước sau rồi cũng tay không chớ gì.

Nên làm phải trước khi hữu sự,

Đến nạn rồi bố thí ai khen;

Rèn lòng thanh đạm cho quen,

744. Vật khi phải bỏ, bỏ liền như không.

Con há chẳng biết trong lúc giặc,

Có nhiều người vì tiếc cửa nhà,

Ở lỳ không chịu trốn ra;

Bị người bắt giết biết là bao nhiêu.

Mến của tất chết theo vì của,

Vật không còn thân nọ ra ma;

Người đời chịu khó suy ra,

Tự nhiên thấy rõ đâu là bèo mây.

Trôi theo nước cuốn quây theo gió,

Cứ rày đây mai đó không yên;

Có quyền chẳng giữ đặng quyền,

756. Có tiền không nắm được tiền dài lâu.

Tiền là bạc nó đâu chung thỉ,

Quyền là hành nó cứ đổi thay;

Từ ngàn xưa đến ngày nay,

Tánhngọa hai việc ấy cứ hoài vậy thôi.

Thế mà người cứ xuôi theo nó,

Không chịu tìm đường ngỏ cao hơn;

Món chi ăn mãi cũng lờn,

Ở trần lâu phải chán trần chớ không!

Nay nhằm dịp Tây Đông hữu nạn,

Tất có nhiều người chán đao binh;

Con nên lấy lẽ tu hành,

768. Khuyên người bỏ dữ theo lành từ đây.

Buổi ban sơ chưa khuây việc thế,

Không nên dùng kinh kệ khó khăn;

Chỉ khuyên một ít điều răn,

Gồm thêm trai giới mỗi trăng bốn ngày.

Đem giảng kệ của Thầy con dạy,

Thường đến lui nhắc lại người nghe,

Những điều nào họ còn mê,

Dùng lời dịu ngọt vỗ về khuyên lơn.

Họ chưa hiểu con cần giảng mãi,

Quên mỏi mê đừng ngại công lao;

Nên làm cho họ khát khao,

780. Không nên làm họ ngán ngao nơi lòng.

Phải cẩn thận từ trong lời nói,

Khiến cho người được khởi tâm lành,

Giúp người thêm mạnh đức tin,

Đừng làm cho họ lòng sanh ngọa nghi ngờ.

Đến đâu cũng tùy cơ phổ hóa,

Rung chuông lành thức dạ người mê;

Tai không màng tiếng khen chê,

Miễn là dắt được người về nhà tu.

Độ một người quày đầu hướng thiện,

Công đức to sông biển há bì;

Con nên noi chí từ bi,

792. Ra tay độ thế quản gì riêng thân.

Quí đạo đức nhiều hơn quí của,

Cứu người nguy vui bỏ mạng căn.

Lòng nhân ấy có chi bằng,

Muôn đời ai lại chẳng hằng noi theo.

Ai cũng vẫn biết điều nhân đức,

Không làm vì chưa dứt ngã tâm;

Tự nhiên trong dạ u thâm,

Nhận nhìn những kẻ đã lầm phước duyên.

Kẻ bảo cho mùi thiền thuốc nhựa,

Vì đứng ngoài bệ cửa trông vào;

Những lời xác đáng thâm cao,

804. Không từng đọc tới làm sao được tường.

Hơn nữa chỉ nhắm phường giả đạo,

Mượn ca-sa lừa đảo thế gian;

Tạo ra chùa lớn Phật vàng,

Để cho bá tánh thập phang cúng tiền.

Kệ kinh vẫn tụng liền nơi miệng,

Hỏi nghĩa mầu một biến không thông;

Cứ tranh đồ chúng cho đông,

Hầu nhiều của cải để dùng cho sang.

Ngồi một chỗ lo ăn sung-sướng,

Không hề đem lòng tưởng đến ai;

Chỉ làm giống Phật bề ngoài,

816. Bên trong chẳng một mảy may tương đồng.

Chỉ làm bại hoại trong Phật pháp,

Đâu phải người thiền giác chơn tu;

Hạng nầy như kẻ đui mù,

Tự mình chưa độ còn đâu độ người.

Họ không thể thay lời của Phật,

Phật cũng không nhận việc họ làm;

Nếu ai muốn rõ huyền thâm,

Ngó vào họ ắt sai lầm rất to.

Cửa Phật vốn thơm tho sáng tỏ,

Họ đang tay bôi lọ cho đen;

Khiến cho lắm kẻ xem ngọa hèn,

828. Lầm cho đạo Phật làm phiền người ta.

Đạo Phật có đâu là như thế,

H.y lật xem kinh kệ mà tri;

Phật là vốn tánh từ bi,

Việc lành bất luận điều chi cũng làm.

Từ xã hội bước sang nhân loại,

Chuyện gia đình đến gọi quốc dân;

Nếu là việc hợp nghĩa nhân,

Tự nhiên sốt sắng xuất thân ra làm.

Trước độ mình sau toan độ chúng,

Câu ấy là rất đúng Phật gia;

Đừng lầm ngồi niệm Di-Đa,

840. Mặc ai sống chết không ra giúp vua.

Ngồi niệm mai niệm cho đến chết,

Cũng không thành chi hết mà mong.

Phật là tả đột hữu xong;

Sang Tây cứu thế, qua Đông độ đời.

Chớ đâu có cứ ngồi một chỗ,

Giữ chùa chiền chuông mõ kệ cơ,

Không làm cho kẻ nào nhờ,

Tu hành như thế bao giờ cho nên.

Giúp người chẳng khoe tên ai biết,

Như mẹ cha lo việc cho con,

Chỉ làm bổn nguyện cho tròn;

852. Đâu cần ai đáp đền ơn làm gì.

Nếu ai được hành y như thế,

Tức là người thừa kế Phật ngôi;

Câu nầy ta bắt hỡi ôi!

Biết bao giờ được mỗi người y theo,

Xin Phật hãy cho nhiều Bồ-Tát,

Xuống thế trần ở khắp mọi nơi,

Hóa ra đủ cả hạng người;

Tùy duyên giáo độ cho đời biết tu.

Trước hết phá sạch câu ngã chấp,

Trong Tăng đồ đã tập từ lâu;

Sau lần đến cả năm châu,

864. Khiến người quyền thế quày đầu ăn năn.

Bớt được tánh hung hăng táo bạo,

Cứu dân lành xương máu bớt rơi;

Hiện giờ khắp chốn cùng nơi,

Liệt cường nào cũng chuyên ngòi súng bom.

Xưa giặc giã dùng gươm với nỏ,

Nay chiến tranh cậy có súng bom;

Một lần giết được hằng muôn,

Dữ dằn gấp mấy ngàn lần hơn xưa.

Phật rằng: ấy là cơ tận thế,

Khiến loài người tạo chế thứ hung;

Ấy là tại cái nghiệp chung,

876. Từ lâu nay đã tích tồn lại đây.

Vật tạo lấy sau nầy tự chịu,

Nó sẽ làm kết liễu người đời,

Nó như là loại chim dơi,

Còn người ví tợ trái mùi ngọa trên cây.

Đã thế còn gặp khi giông gió,

Mạng số đâu hưởng thọ dài lâu;

Với câu thiện ác đáo đầu,

Rồi đây bá tánh đâu đâu sẽ tường.

Không riêng con ưu buồn việc ấy,

Phật khắp nơi cũng lấy làm đau;

Thế gian bất luận chỗ nào,

888. Có chư Bồ-Tát kêu gào khuyên răn.

Nhưng ít kẻ qui căn mộ đạo,

Trái lại còn kiêu ngạo nhiều lời;

Làm cho Phật bắt thương ôi!

Cứu căn ngọa không thể cứu rồi số duyên.

Thuốc không uống bịnh thuyên sao được,

Lành chẳng theo cội phước há sanh,

Đến khi quả đất tan tành,

Cũng chưa mấy kẻ giựt mình đâu ư!

Việc nghiệp biết không chờ phải thốt,

Kẻ thế gian ngu dốt làm sao!

Không phân biệt được vàng thau,

900. Trần ai lại mến, đạo mầu thì ngơ.

Trẻ bảo tu hẹn chờ có tuổi,

Già cho rằng chưa rỗi để tu;

Hết Xuân rồi lại đến Thu,

Cứ lần lựa đến khi vào quách quan.

Kẻ làm con ngỗ ngang hung bạo,

Khiến mẹ cha phiền não phát sanh.

Kẻ làm cha mẹ bất lành,

Khiến con bắt chước tạo tành bất lương.

Tội lỗi cứ chằng vương như thế,

Hết đời nầy thừa kế đời sau;

Nghiệp sầu cứ mãi chuyền lao,

912. Chúng sanh biết đến chừng nào rảnh rang.

Nghiệp hoặc (2) cứ tạo mang đầy dẫy,

Sự khổ lao vương lấy đa đoan;

Thấy vầy Phật chẳng ngồi an,

Dời con đến để truyền ban đạo mầu.

Sự thế chẳng còn lâu xa nữa,

Nào thiên tai nào lũ yêu tinh;

Đầy đường chật nẻo đáng kinh,

Chúng sanh vì nó bỏ mình làng khang.

Chúng cậy phép tà làn mắt tục,

Con dùng huyền cơ dẹp tà tông,

Luôn đem lấy ngọn hùng phong,

924. Thổi vừng mây ác phủ trong trần đời.

Làm sáng tỏ nơi ngôi Phật pháp,

Hầu cứu người còn chút thiện căn;

Ngày nào mây ác còn giăng,

Là còn mờ mịt ánh trăng cửa thiền.

Ngoài các quái đã khuyên đoạn trước,

Còn nhiều ma lần lượt kể sau;

Não tim con khá ghi vào,

Để mà tỏ lại người nào chưa hay,

Con ơi! Chính ở ngay hạ giới,

Thứ gọi tên là Ngoại-Nhân-Ma,

Vốn không có cửa có nhà,

936. Thường hay lưu lạc ở mà khắp nơi.

Nó có tánh móc moi tọc mạch,

Hết người nầy đến lượt kẻ kia;

Quê nhà lâu chẳng trở về,

Nó không hề biết đến bề cố hương.

Nó có thuật không nhường ai cả,

Dù thần tiên chưa há thắng qua;

Chúng sanh nơi cõi Ta-bà,

Thường hay bị nó cướp mà tâm linh.

Mắt của nó rất nhanh như chớp,

Liếc xem người ở khắp gần xa;

Người nào đức trọng tài ba,

948. Nó sanh ghen tức sẽ là hại đi.

Hoặc biếm nhẻ khinh khi chỉ trích,

Xúi người đồng công kích không thôi,

Chừng nào hạ được xong rồi,

Lấy làm khoái chí mới nguôi lòng phiền.

Nó có tánh ganh hiền ghét ngõ,

Gặp người tu hay xỏ hay xiên;

Bốn mùa nó chẳng ngồi yên,

Mắt luôn xéo xắt láo liên không ngừng

Ngựơc lại nó cũng từng biếng nhác,

Ỷ lại vào kẻ khác đỡ nâng;

Như mù chỉ động hai chân,

960. Mặc cho người dắt xa gần cũng thây.

Người nào bị nó lây tánh ấy,

Lòng tự tin một mảy không còn;

Trở nên như cái hình nhơn,

Mặc người sai khiến còn phân biệt gì!

Nó lại còn mỗi khi thấy của,

Thì lăm le mưu nọ kế kia;

Làm sao lấy được đem về,

Để riêng thọ hưởng mới hê hả lòng.

Hại mạng người vẫn không ngần ngại,

Miễn góp thâu mò đãy nhiều tiền;

Nó làm nhiều kẻ phát điên,

972. Quên đi sự sống tự quyên thân mình.

Nó gặp người lịch xinh son trẻ

Khởi lòng dâm như kẻ đói cơm;

Không màng trong lúc đêm hôm,

Hiện ra ghẹo chọc bắt nhờm đi thôi.

Khi thì nó dùng lời cám dỗ,

Khi ra oai khủng bố dẫn đi;

Bức cường là việc thường khi,

Nó không biết trọng cái gì là trinh.

Trong chùa miếu đến dinh đến thự,

Vẫn ngang nhiên dở sự dâm ô;

Thường nhơn đến giới tăng đồ,

984. Nó đều đến phá không chừa một ai.

Nó vốn là thính tai thính mắt,

Tiếng thì thầm đến vật dấu che;

Nó đều dòm dõi lóng nghe,

Việc không can cũng tò vè săm soi.

Lời khen tặng nó vui nó thích,

Tiếng chê bai nó ghét nó phiền;

Trong tai nó chẳng hề yên,

Thường hay sạo sự như phiên chợ chiều.

Lúc say sưa nghe điều không rõ,

Nó giận lên như hổ trong rừng;

Việc nghe thấp thố chưa phân,

996. Nó sanh nghi kỵ xa gần đa đoan.

Vì thế đã vu oan lắm kẻ,

Hoặc hại lầm vô số hiền nhơn;

Nó không hề biết xét thân,

Cứ lo hết việc người gần đến xa.

Ngày lẫn đêm vẫn là phóng ý,

Không lúc nào chẳng nghĩ nọ kia;

Hiện giờ nơi cõi trần mê,

Nơi nào cũng có nó kề cận bên.

Thân người tục từ trên tới dưới,

Cả mắt tai mũi lưỡi đâu đâu;

Chỉ trong nháy mắt không lâu,

1008. Thường hay bị nó cướp thâu bất ngờ.

Khi hóa nhỏ mó rờ không gặp,

Lúc biến to trùm khắp trời xanh;

Thế nên tất cả hài hình,

Chỗ nào nó cũng ẩn mình được luôn.

Với những hạng đã suông vào nó,

Chính họ không biết họ đã lầm;

Thành người có miệng như câm,

Có tai như điếc, mắt làm như đui.

Lúc nó vui cũng thời khó chịu,

Khi nó buồn càng nhiễu loạn hơn,

Hình hài nó giống phàm nhân,

1020. Khó đem màu sắc biệt phân được nào.

Vậy con khá khuyên mau bá tánh,

Rán tìm phương để tránh nó đi;

Lâm vào thì ắt khốn nguy,

Đường về Tịnh độ còn gì mà trông.

Kẻ đã vướng khi lòng được biết,

Hãy mau tay tự diệt cho xong;

Niệm câu chú Định Tâm không,

Đuổi ra khỏi xác cho lòng an nhiên.

Trừ nó được chớ riêng tự hưởng,

Hãy mở tâm niệm tưởng đến người,

Khuyên ai chưa được tỉnh hồi;

1032. Để cùng qui ngưỡng nơi ngôi Phật- Đài.

Đừng để lạc vào loài yêu quái,

Hiệp sức nhau đánh bại quỉ ma;

ráng làm cho cõi Ta-bà,

Không còn thấy bóng tinh tà vãng lai.

Xây đắp cõi trần ai mới mẻ,

Có kỷ cương không kẻ lăng loàn;

Từ trên các hạng vua quan,

Đến hàng dân dã biết đàng nghĩa nhân.

Ngoài xã hội xử phân hòa nhã,

Trong gia đình thượng hạ phân minh,

Khắp trong nước chẳng ngục hình,

1044. Chợ quê đâu cũng dân tình hiền lương.

Của rơi chẳng ai màng lượm rớ,

Nhà ngủ không đóng cửa khỏi lo;

Không phường đạo tặc rình mò,

Chẳng ai kiện cáo đôi co rầy-rà.

Khắp nơi được bình hòa thạnh thái,

Như Thuấn-Nghiêu thời đại thuở xưa;

Cơm no áo ấm thãi thừa,

Cõi Tiên đem sánh cũng vừa đi cho.

Trở lại mùi thơm tho thượng cổ,

Ai cũng đều biết tổ biết tông;

Tuy là sống cõi trần hồng,

1056. Mà tâm trong sạch sánh cùng giá gương.

Chúng sanh sống trên giường đau khổ,

Sao lòng không chán bỏ cứ mê,

Chờ khi quỉ bắt hồn về,

Diêm vương phán tội khó bề thở than.

Huống chi cảnh bồng tan sắp tới,

Họa lớn lao thế giới năm châu;

Loài người khắp cả đâu đâu,

Phải qua một cuộc thảm sầu kinh thiên.

Đất động cả trời nghiêng khắp chỗ,

Núi vỡ tan biển nọ thành rừng;

Nơi nầy chịu nạn nước dưng,

1068. Chỗ kia gặp cảnh xa gần lửa phun.

Có nơi gặp thú hung nhiễu hại,

Nhiều tà tinh kỳ quái hiện ra;

Chúng sanh như cội lá già,

Gặp cơn giông tố thật là đáng thương.

Khi yêu quái cang cường đại nộ,

E nhơn sanh không chỗ ẩn nương;

Nó bay nó độn đủ phương,

Lợp trời chật lộ không đường nào đi.

Nó thăng thiên hoặc khi độn thổ,

Hóa mưa dầu nắng lửa hại người;

Nó làm nghiêng đất chói trời,

1080. Hóa nhiều ác thú xé người từ manh.

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 368
  • Hôm nay: 70806
  • Tháng hiện tại: 920768
  • Tổng lượt truy cập: 60360785

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile