Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Kinh Viên Giác giảng giải chương V - VIII

Đăng lúc: Thứ sáu - 02/12/2011 11:58 - Người đăng bài viết: Thiền Lâm
Kinh Viên Giác giảng giải chương V - VIII

Kinh Viên Giác giảng giải chương V - VIII

Đại bi Thế Tôn, quảng vị Bồ-tát khai bí mật tạng, linh chư đại chúng thâm ngộ luân hồi, phân biệt tà chánh, năng thí mạt thế, nhất thiết chúng sanh vô úy đạo nhãn, ư đại Niết-bàn, sanh quyết định tín. Vô phục, trùng tùy luân chuyển cảnh giới, khởi tuần hoàn kiến. Thế Tôn, nhược chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh dục du Như Lai đại tịch diệt hải,
CHƯƠNG V
BỒ-TÁT DI-LẶC THƯA HỎI
ÂM:
Ư thị Di-lặc Bồ-tát tại đại chúng trung tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, trường quì xoa thủ, nhi bạch Phật ngôn:
- Đại bi Thế Tôn, quảng vị Bồ-tát khai bí mật tạng, linh chư đại chúng thâm ngộ luân hồi, phân biệt tà chánh, năng thí mạt thế, nhất thiết chúng sanh vô úy đạo nhãn, ư đại Niết-bàn, sanh quyết định tín. Vô phục, trùng tùy luân chuyển cảnh giới, khởi tuần hoàn kiến. Thế Tôn, nhược chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh dục du Như Lai đại tịch diệt hải, vân hà đương đoạn luân hồi căn bản, ư chư luân hồi hữu kỷ chủng tánh, tu Phật Bồ-đề, kỷ đẳng sai biệt, hồi nhập trần lao, đương thiết kỳ chủng giáo hóa phương tiện, độ chư chúng sanh, duy nguyện bất xả cứu thế đại bi, linh chư tu hành nhất thiết Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh tuệ mục túc thanh chiếu diệu tâm kính, viên ngộ Như Lai vô thượng tri kiến.
Tác thị ngữ dĩ, ngũ thể đầu địa. Như thị tam thỉnh chung nhi phục thủy.
DỊCH:
Khi ấy Bồ-tát Di-lặc ở trong đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, quì gối chấp tay bạch Phật rằng:
- Thế Tôn đại bi, rộng vì các Bồ-tát mở bày kho bí mật khiến cho đại chúng phân biệt tà chánh, thâm ngộ được lý luân hồi, hay bố thí cho tất cả chúng sanh đời sau được đạo nhãn vô úy, đối với Đại Niết-bàn sanh lòng tin quyết định, không còn khởi kiến chấp, không trở lại cảnh giới luân hồi. Bạch Thế Tôn, nếu các vị Bồ-tát và chúng sanh đời sau muốn dạo chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai, làm sao đoạn được cội gốc luân hồi? Đối với luân hồi có bao nhiêu chủng tánh? Tu đạo Bồ-đề của Phật có bao nhiêu bậc khác nhau? Khi trở vào trong trần lao lập bao nhiêu thứ phương tiện giáo hóa để độ chúng sanh? Cúi mong đức Thế Tôn chẳng bỏ lòng đại bi cứu thế, khiến cho tất cả Bồ-tát chúng sanh đời sau tu hành mắt tuệ trong sáng, chiếu diệu gương tâm, viên ngộ được Tri kiến vô thượng Như Lai.
Thưa lời đây rồi năm vóc gieo xuống đất, thưa thỉnh như vậy ba lần rồi trở lui.
GIẢNG:
Bồ-tát Di-lặc (Maitreya) là ngài Từ Thị. Từ Thị là lòng đại bi. Vì Ngài khởi lòng đại bi độ khắp chúng sanh nên hỏi các phương tiện tường tận để Phật dạy kỹ lưỡng cho mọi người đều có thể tu được. Chủ yếu của đoạn này là Bồ-tát Di-lặc hỏi về cội gốc luân hồi. Trong bốn câu hỏi của Ngài nêu ở trên, câu hỏi thứ nhất là then chốt rất quan trọng, liên hệ đến sự tu hành của chúng ta.
1- Làm sao đoạn được cội gốc luân hồi.
2- Luân hồi có bao nhiêu chủng tánh.
3- Tu đạo Bồ-đề của Phật có mấy hạng người.
4- Những hàng Bồ-tát đi vào trong cõi trần lao lập bao nhiêu thứ phương tiện để độ chúng sanh.
Câu hỏi chót thì không liên hệ với chúng ta hiện tại, vì hỏi chuyện Bồ-tát trở lại trần lao độ sanh. Chúng ta thì chưa phải Bồ-tát, chỉ là người bị nghiệp lôi vào trần lao chớ không phải trở lại trần lao vì hạnh nguyện. Hiểu bốn câu hỏi đó, chúng ta mới hiểu câu trả lời của đức Phật.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn cáo Di-lặc Bồ-tát ngôn:
- Thiện tai, thiện tai! Thiện nam tử, nhữ đẳng nãi năng vị chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh thỉnh vấn Như Lai thâm áo bí mật vi diệu chi nghĩa, linh chư Bồ-tát khiết thanh tuệ mục, cập linh nhất thiết mạt thế chúng sanh vĩnh đoạn luân hồi, tâm ngộ Thật tướng, cụ vô sanh nhẫn, nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.
Thời Di-lặc Bồ-tát phụng giáo hoan hỉ, cập chư đại chúng, mặc nhiên nhi thính.
DỊCH:
Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Di-lặc Bồ-tát rằng:
- Lành thay, lành thay! Này thiện nam, các ông hay vì các Bồ-tát và chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai nghĩa thâm áo bí mật vi diệu, khiến cho mắt tuệ của các Bồ-tát được trong sáng, và khiến cho tất cả chúng sanh đời sau hằng đoạn được luân hồi, tâm ngộ được Thật tướng, đầy đủ pháp vô sanh nhẫn. Các ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói.
Khi ấy, Bồ-tát Di-lặc hoan hỉ vâng lời dạy cùng chư đại chúng yên lặng lắng nghe.
GIẢNG:
Phật khen Bồ-tát Di-lặc khéo nêu lên những câu hỏi, để Phật chỉ dạy cho các vị Bồ-tát hiện tại mắt trí tuệ được sáng và chúng sanh đời sau được ra khỏi luân hồi. Phật dặn đại chúng nên lắng nghe.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh tùng vô thủy tế, do hữu chủng chủng ân ái tham dục, cố hữu luân hồi. Nhược chư thế giới nhất thiết chủng tánh: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh giai nhân dâm dục nhi chánh tánh mạng, đương tri luân hồi, ái vi căn bản. Do hữu chư dục trợ phát ái tánh, thị cố năng linh sanh tử tương tục.
DỊCH:
- Này thiện nam, tất cả chúng sanh từ vô thủy do các thứ ân ái tham dục nên có luân hồi. Tất cả chủng tánh trong thế giới như noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh đều nhân dâm dục mà có thân mạng. Nên biết sự luân hồi, ái dục là cội gốc. Do có dục giúp phát sanh tánh ái, thế nên khiến cho sanh tử nối tiếp.
GIẢNG:
Đoạn này Phật chỉ thẳng ái là cội gốc của sanh tử luân hồi để trả lời câu hỏi thứ nhất.
Ở trên đức Phật đã nói rõ tất cả chúng sanh từ vô thủy đến giờ do ân ái tham dục mà có sanh tử luân hồi. Chữ ái ở đây đức Phật chỉ nghĩa ái mạng – ái ngã – cái ái này nặng nhất. Ái ngã tức là yêu mình, bởi yêu mình nên bỏ thân này muốn tạo thân khác, bởi yêu mình mới có những tham dục khác. Vì nhân ái ngã rồi có dục phát sanh, vậy dục trợ phát cho tánh ái. Thế nên ái dục là gốc sanh tử luân hồi tiếp nối không dứt. Chỗ này trong kinh Tạp A-hàm đức Phật dùng một ví dụ thật rõ nói về tánh ái, ái còn thì sanh mạng còn, ái hết thì sanh mạng hết. Ngài ví dụ một bầy trẻ con đang chơi ngoài vườn. Đang say sưa chơi với nhau, đứa cất chòi đứa nấu nướng… Nếu có người lớn tới hất bỏ, chúng sẽ khóc la. Khi người lớn đi rồi, chúng lại làm lại. Chỉ khi nào chúng tự chán, tự hất bỏ chừng đó mới yên chuyện. Cái thích của bọn trẻ con đức Phật dụ là ái, chúng sanh là bọn trẻ con. Như thế đang trong luân hồi, đức Phật lại bảo các ông đừng làm chuyện đó để luân hồi, nhất định chúng sanh cãi Phật liền vì còn đang thích. Chỉ khi nào tự chúng ta sợ, tự chúng ta chán, chúng ta mới bỏ việc luân hồi của mình. Khi sanh tử luân hồi thì có các loại như thai sanh, thấp sanh, noãn sanh, hóa sanh. Bốn loại này đều từ ân ái tham dục mà có. Muốn hết luân hồi sanh tử cứ ngay gốc ái dục mà đào. Nếu không biết manh mối sanh tử luân hồi từ đâu thì không thể dứt trừ được.
Trong kinh Pháp Cú đức Phật có dạy: Đốn cây mà không đào gốc thì tược nhánh nảy sanh hoài, ái dục không trừ dứt thì khổ não vẫn theo ta mãi. Do dục giúp phát sanh tánh ái rồi tiếp nối sanh tử. Thân này vừa mất thì muốn có thân khác, dục giúp cho tánh ái mạnh đưa chúng ta tới chỗ thọ sanh, nó dẫn đi mãi trong vòng sanh tử.
ÂM:
- Dục nhân ái sanh, mạng nhân dục hữu, chúng sanh ái mạng, hoàn y dục bản, ái dục vi nhân, ái mạng vi quả.
DỊCH:
- Dục nhân ái sanh, thân mạng nhân nơi dục mà có. Chúng sanh ái thân mạng, lại y nơi dục làm gốc, ái dục là nhân, ái mạng là quả.
GIẢNG:
Đức Phật phân tích cho chúng ta thấy rõ: Dục nhân ái mà có, dục từ ái mà sanh ra, ái là yêu mến, bởi yêu mến cho nên có dục. Nhân dục mà có sanh mạng, khi có sanh mạng rồi trở lại ái mạng. Do dục mà có thân, có thân rồi ái thân. Chúng ta thấy nhiều người có phước thân tốt đẹp khỏe mạnh, thì họ ái thân họ đành đi. Còn những người vô phước họ có ái thân họ không? Họ vẫn ái thân họ như thường. Có thân là có ái. Bởi ái thân nên muốn thân ăn cho ngon, muốn thân mặc cho đẹp, muốn thân được người ta khen, cái gì cũng muốn cho thân mình được. Từ cái ái mà muốn thỏa mãn mọi nhu cầu, nhu cầu nào thiếu là bực bội. Chúng ta nói chúng ta thương người này mến người kia, kỳ thật tất cả cái mến thương gốc từ thương mình mà ra. Người nào thương mình nhiều là thương người nhiều. Tại sao vậy? Bởi thương mình nhiều cho nên người nào giúp mình mình thương họ ghê lắm, mong họ tiếp tục giúp mình nữa để được lợi cho mình. Còn người nào không thương mình thì ai giúp, mình cũng lơ là. Bệnh đó là bệnh nặng của chúng sanh. Mới nhìn qua thì thấy người nào biết lo cho người này người kia là tốt, nhưng mà lo cho người này người kia là vì mình mà lo, chớ ít có vì người mà lo lắm. Hiểu chỗ đó rồi thì mới thấy từ dục mà có thân, có thân rồi ái thân, muốn đời khác cũng có thân nữa… Cứ tiếp tục đời này sang đời khác không bao giờ cùng tận. Vì vậy nói ái là gốc của luân hồi. Bây giờ muốn không có thân đời sau thì phải dứt ngay gốc ái.
Qua lý này chúng ta mới hiểu tại sao trước tiên Phật cấm người xuất gia dâm dục. Mục đích của người xuất gia là dứt sanh tử, nên Phật nhắm thẳng vào đích, bắt phải đào gốc ái dục trước rồi lần lần phá ngã chấp, ngã chấp phá rồi thì luân hồi sanh tử theo đó mà hết. Như thế chúng ta mới thấy rõ được thâm ý của đức Phật dạy, từ giới luật cho tới kinh điển trước sau chỉ có một chủ đích. Vậy sanh tử luân hồi, ái dục và ái mạng làm nhân làm duyên nối tiếp nhau không cùng. Bây giờ nhìn ngay nơi tâm niệm của chúng ta xem ái ngã còn nhiều hay ít? Nếu ái ngã nhiều thì dòng sanh tử khó mà dứt được.
ÂM:
- Do ư dục cảnh khởi chư vi thuận, cảnh bối ái tâm nhi sanh tắng tật, tạo chủng chủng nghiệp, thị cố phục sanh địa ngục ngạ quỉ. Tri dục khả yểm, ái yếm nghiệp đạo, xả ác nhạo thiện, phục hiện thiên nhân. Hựu tri chư ái khả yểm ác cố, khả ái nhạo xả hoàn tư ái bản tiện hiện hữu vi tăng thượng thiện quả, giai luân hồi cố bất thành Thánh đạo. Thị cố chúng sanh dục thoát sanh tử miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục cập trừ ái khát.
DỊCH:
- Do cảnh dục mà khởi thuận nghịch, cảnh trái với tâm ái thì sanh ra ganh ghét, tạo các thứ nghiệp nên sanh nơi địa ngục ngạ quỉ. Biết dục đáng chán, thích cái chán nghiệp đạo, bỏ ác ưa lành thì được sanh ở cõi người cõi trời. Biết ái nhiễm là ác đáng chê chán, song bỏ ái mà thích “cái bỏ”, trở lại nuôi dưỡng thêm gốc ái, nên sanh ở cõi thiện hữu vi cao hơn, đều là luân hồi nên không thành Thánh đạo. Thế nên chúng sanh muốn thoát sanh tử khỏi luân hồi thì trước phải đoạn tham dục và trừ tâm khát ái.
GIẢNG:
Do ái dục mà có thân người, sanh trong cõi người. Dục tức là lòng tham muốn, do tham muốn nên khởi ra hai thứ thuận nghịch. Gặp thuận thì ái, gặp nghịch thì tắng. Chỉ tại chúng ta ưa thích mà gặp cảnh trái với sự ưa thích của mình nên bực bội làm những điều ác điều dữ. Thí dụ như tham muốn mà không được thì sanh trộm cắp, khi trộm cắp bị ngăn chặn thì sanh ra sát hại, đó là cái nhân của địa ngục ngạ quỉ. Đó là chiều đi xuống, đi trong ba đường ác.
Trong kinh, Phật nói người chạy theo ngũ dục thì chẳng khác nào như kẻ khát mà uống nước muối, càng uống càng khát. Nếu được như ý, nó cứ tăng thêm không chỗ cùng. Tất cả thế gian về tay mình hết, không biết mình vừa chưa. Còn muốn mười điều nhưng chỉ được có một, càng muốn thì càng khổ… Có người thấy sự yêu thương thế gian là tạm bợ, được thì vui, mất thì buồn nên đâm ra chán ghét ái dục ở thế gian. Bỏ ái dục nhưng chỉ thích làm lành để đời sau được phước an vui tốt đẹp hơn, như thế cũng còn tư dưỡng gốc tham ái nên sanh về cõi hữu vi cao hơn là cõi Sắc và Vô sắc. Mặc dù chúng ta chán bỏ ái dục nhưng còn thích xả, nên Phật nói còn yêu thích thì còn tạo nghiệp nhưng nghiệp thiện, chớ chưa phải là viên mãn; vì nghiệp lành hay nghiệp dữ cũng là nghiệp.
Thế nên đức Phật dạy chúng sanh muốn thoát khỏi luân hồi thì phải dứt hết tham dục và trừ tâm khát ái, chớ bỏ cái này lại thích cái kia cũng chưa thoát khỏi vòng luân hồi.
ÂM:
- Thiện nam tử, Bồ-tát biến hóa thị hiện thế gian, phi ái vi bản, đản dĩ từ bi linh bỉ xả ái, giả chư tham dục nhi nhập sanh tử.
DỊCH:
- Này thiện nam, Bồ-tát hóa hiện thân ở thế gian chẳng phải do ái làm gốc mà là do lòng từ bi mượn tham dục mà vào trong sanh tử khiến chúng sanh bỏ ái dục.
GIẢNG:
Nghe đức Phật nói có thân ở thế gian này là do ái làm gốc, như vậy chúng ta sẽ hiểu lầm và thắc mắc “những vị Bồ-tát có thân để độ chúng sanh ở cõi này cũng do ái dục nữa sao”? Ở đây Phật giải thích, những vị Bồ-tát thị hiện giáo hóa chúng sanh ở thế gian không phải gốc từ nơi ái dục, mà do lòng từ bi các ngài muốn độ chúng sanh bỏ khát ái, các ngài mới tạm mượn ái dục mà vào trong sanh tử.
ÂM:
- Nhược chư mạt thế nhất thiết chúng sanh năng xả chư dục cập trừ tắng ái vĩnh đoạn luân hồi, cần cầu Như Lai Viên giác cảnh giới, ư thanh tịnh tâm, tiện đắc khai ngộ.
DỊCH:
- Nếu tất cả chúng sanh đời sau bỏ được các dục và trừ tâm yêu ghét thì hằng đoạn được luân hồi, siêng cầu cảnh giới Viên giác Như Lai, tâm thanh tịnh liền được khai ngộ.
GIẢNG:
Phật dạy muốn tu để giải thoát sanh tử thì phải xa lìa ngũ dục thế gian, trừ tâm yêu ghét nơi mình, nơi người và phải cầu cảnh giới Viên giác Như Lai. Gốc luân hồi phải đoạn và trở về sống với Tánh giác thì tâm thanh tịnh được khai ngộ.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh do bản tham dục, phát huy vô minh, hiển xuất ngũ tánh sai biệt bất đẳng y nhị chủng chướng nhi hiện thâm thiển.
DỊCH:
- Này thiện nam, tất cả chúng sanh do gốc tham dục mà phát huy thêm vô minh, hiển bày ra năm tánh sai biệt chẳng đồng, y theo hai thứ chướng mà hiện có cạn sâu.
GIẢNG:
Đây đức Phật trả lời câu hỏi: Chúng sanh có bao nhiêu chủng tánh? Ngài trả lời có năm chủng tánh. Sở dĩ có năm chủng tánh là do gốc tham dục là vô minh làm sung mãn thêm, nên năm chủng tánh có sai khác.
ÂM:
- Vân hà nhị chướng? Nhất giả lý chướng, ngại chánh tri kiến. Nhị giả sự chướng, tục chư sanh tử.
DỊCH:
- Thế nào là hai chướng? Một là lý chướng làm ngại chánh tri kiến, hai là sự chướng khiến tiếp nối sanh tử.
GIẢNG:
Sự chướng là phiền não, chỉ cho cái chướng do ngũ dục ở thế gian, vì có nó nên trở ngại sự thoát ly sanh tử. Người còn bị kẹt trong năm dục là còn tiếp nối sanh tử. Lý chướng là chỉ cho vô minh, vô minh là gốc làm chúng ta không thấy đúng như thật. Do nhận hiểu lý đạo lệch lạc sai lầm cho nên chướng ngại chánh tri kiến. Ví dụ như có người cho rằng tu thiền là phải xuất hồn đi trong hư không để tìm Phật, hoặc được Phật phóng hào quang điểm đạo… đó là hiểu không đúng với lời Phật dạy trong kinh, nên chướng ngại chánh tri kiến. Do hai cái chướng đó khiến cho chúng sanh có sai biệt. Chướng của ngũ dục thì khiến chúng sanh sanh trong các loài, còn cái chướng của sự hiểu lệch lạc về lý đạo thì sanh làm quỉ thần hoặc các vị tu chứng ở trong vòng hữu lậu.
ÂM:
- Vân hà ngũ tánh? Thiện nam tử, nhược thử nhị chướng, vị đắc đoạn diệt danh vị thành Phật. Nhược chư chúng sanh vĩnh xả tham dục, tiên trừ sự chướng, vị đoạn lý chướng, đản năng ngộ nhập Thanh văn Duyên giác, vị năng hiển trụ Bồ-tát cảnh giới.
DỊCH:
- Thế nào là năm tánh? Này thiện nam, nếu hai chướng này chưa được đoạn diệt thì nói chưa thành Phật. Nếu các chúng sanh hằng xả tham dục, trước trừ sự chướng, chưa đoạn lý chướng, chỉ hay ngộ nhập cảnh giới Thanh văn, Duyên giác chưa trụ được cảnh giới Bồ-tát.
GIẢNG:
Người bỏ được tham dục thế gian là hết ái dục, mà hết ái dục thì dòng sanh tử luân hồi cũng dứt luôn. Song, dứt được tham dục thì chỉ trừ được sự chướng chớ lý chướng vẫn còn, nên chỉ vào được hàng Thanh văn Duyên giác, không vào được hàng Bồ-tát. Tại sao hàng Thanh văn Duyên giác chỉ mới trừ được sự chướng? Vì các ngài do tu Tứ đế, thấy Khổ đế và Tập đế cần phải đoạn trừ, nên các ngài ứng dụng Đạo đế đoạn trừ, khi đoạn trừ xong thì gọi là Diệt đế. Như vậy là mới đoạn trừ xong mầm sanh tử chớ chưa thấy được Pháp thân. Dứt sanh tử thì nhập Niết-bàn cho nên mới trừ được sự chướng, chớ chưa trừ được lý chướng. Bậc Duyên giác cũng vậy, các ngài do thấy cảnh lá rụng, cây cối héo xàu mà nghĩ đến thân người cũng vô thường như thế, nên các ngài tỉnh giác. Hoặc các ngài thấu rõ lý nhân duyên, thân này do đất nước gió lửa hợp lại mà có, khi duyên hết thì thân tan rã, các ngài chán thân, không còn ái dục, cho nên các ngài chỉ chứng được quả Duyên giác chớ chưa thấy được Pháp thân, nên nói còn bị lý chướng làm ngại, đó là hai chủng tánh.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhược chư mạt thế nhất thiết chúng sanh dục phiếm Như Lai Đại viên giác hải; tiên đương phát nguyện cần đoạn nhị chướng. Nhị chướng dĩ phục tức năng ngộ nhập Bồ-tát cảnh giới. Nhược sự lý chướng dĩ vĩnh đoạn diệt, tức nhập Như Lai vi diệu Viên giác, mãn túc Bồ-đề cập Đại Niết-bàn.
DỊCH:
- Này thiện nam, nếu các chúng sanh đời sau muốn dạo biển Đại viên giác Như Lai, trước phải phát nguyện siêng đoạn hai chướng. Hai chướng đã nép phục thì ngộ nhập được cảnh giới Bồ-tát. Nếu sự chướng lý chướng đã đoạn diệt hẳn thì ngộ nhập tánh Viên giác vi diệu Như Lai, viên mãn quả Bồ-đề và Đại Niết-bàn.
GIẢNG:
Chủng tánh thứ ba là chủng tánh Bồ-tát. Chúng sanh phàm phu thì bị hai thứ phiền não chướng và sở tri chướng làm chướng đạo Bồ-đề, nên đi trong luân hồi sanh tử. Trải qua thời gian tu hành hai chướng ấy nép phục thì chúng sanh bước lên địa vị Bồ-tát. Khi lên địa vị Bồ-tát, tiếp tục tu đoạn lìa phiền não chướng và sở tri chướng mới chứng được Pháp thân. Vì vậy nên nói Bồ-tát tùy phần giác, nghĩa là Bồ-tát thấy được một phần Pháp thân thì phá được một phần lý chướng. Lý chướng ngăn che không thấy được Pháp thân, khi hoàn toàn hết lý chướng thì viên mãn gọi là thành Phật. Nên ở đây nói muốn vào biển Đại viên giác Như Lai thì phải đoạn sự và lý chướng.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh giai chứng Viên giác, phùng thiện tri thức y bỉ sở tác nhân địa pháp hạnh, nhĩ thời tu tập tiện hữu đốn tiệm, nhược ngộ Như Lai Vô thượng Bồ-đề, chánh tu hành lộ, căn vô đại tiểu, giai thành Phật quả.
DỊCH:
- Này thiện nam, tất cả chúng sanh đều chứng Viên giác, gặp thiện tri thức y nơi pháp hạnh nhân địa mà vị ấy đã tu, bấy giờ tu tập theo, liền có đốn và tiệm. Nếu gặp được pháp tu hành chân chánh Vô thượng Bồ-đề của Như Lai thì đều thành Phật quả, căn cơ không chia lớn nhỏ.
GIẢNG:
Đây Phật nói tầm quan trọng của thiện tri thức đối với người tu. Tất cả chúng sanh đều có Tánh giác, chớ không dành riêng cho một người nào được chứng. Nhưng tu đốn hay tiệm là do gặp thiện tri thức, rồi y nơi pháp hạnh của thiện tri thức đó mà tu. Khi tu tập liền có chia đốn tiệm. Như cũng thuyết pháp dạy tu, nhưng mỗi vị thầy hướng dẫn tu không giống nhau. Nếu khi phát tâm tu mà chúng ta gặp vị thầy tu tiệm giáo thì người dạy chúng ta tu theo tiệm giáo. Nếu gặp vị thầy tu đốn giáo thì dạy chúng ta tu theo đốn giáo. Tu trở thành đốn hay tiệm là do thiện tri thức hướng dẫn, phải hiểu rõ như vậy. Nếu không rõ thì quí vị nghĩ thầy nào cũng dạy mình tu, chọn lựa làm chi? Nghĩ như vậy sẽ không được lợi ích lớn. Người biết chọn thầy và pháp môn tu cho thích hợp với căn cơ của mình mới được lợi ích. Còn nếu gặp Phật, y theo đạo Vô thượng Bồ-đề của đức Phật để tu thì được vào thẳng tánh Viên giác, chớ không có đốn tiệm lớn nhỏ. Lúc đức Phật còn tại thế không chia đốn tiệm, đức Phật nói pháp, người nghe tu đúng pháp đều đắc quả A-la-hán. Sau này đệ tử Phật tùy theo mỗi vị có công hạnh tu riêng, mà chia ra nhiều tông phái khác nhau. Như vậy, thiện tri thức đối với người tu rất quan trọng chớ không phải thường, tu tiến nhanh hay chậm do ảnh hưởng thiện tri thức rất nhiều. Đó là chủng tánh thứ tư, chủng tánh bất định.
ÂM:
- Nhược chư chúng sanh tuy cầu thiện hữu ngộ tà kiến giả, vị đắc chánh ngộ, thị tắc danh vi ngoại đạo chủng tánh, tà sư quá mậu, phi chúng sanh cữu, thị danh chúng sanh ngũ tánh sai biệt.
DỊCH:
- Nếu các chúng sanh tuy cầu bạn lành, lại gặp người tà kiến chưa được chánh ngộ, ấy gọi là chủng tánh ngoại đạo. Đây là do lỗi lầm của tà sư, chớ không phải lỗi nơi chúng sanh ấy. Đó là năm chủng tánh sai biệt của chúng sanh.
GIẢNG:
Đoạn này trả lời câu hỏi thứ ba, có những người tu cũng tìm thiện hữu tri thức, nhưng lại gặp thầy tà, thầy tà sẽ dẫn họ đi đường tà, ấy là chủng tánh ngoại đạo. Lỗi đó tại ai? Lỗi tại người thầy chớ không phải tại người học đạo, người học đạo đâu có biết gì, tại ông thầy hướng dẫn, lúc sơ phát tâm họ như tờ giấy trắng in hình gì thì ra hình đó.
Như vậy, chúng ta thấy chúng sanh nào cũng có tánh Viên giác, nhưng tại chúng ta gặp thầy hướng dẫn tu khác nhau, nên kết quả cũng khác nhau. Ví dụ như có người phát tâm xuất gia, nhưng kém phước lại gặp ông thầy dạy: “Đem tiền đây ta cúng cho, năm nay con bị mắc tam tai rồi đó!” Cứ như vậy, năm này qua năm khác, tháng này qua tháng khác, cúng hoài rồi quen với quỉ thần, chớ không dạy đạo lý gì hết, như thế là lạc vào đường tà. Lại có người phát tâm tu nhưng có duyên gặp được thầy thông đạo lý, đem giáo lý Phật giảng giải cho hiểu để biết đường lối tu hành chân chánh. Như vậy, đồng thời phát tâm tu như nhau, nhưng khi gặp thầy khác nhau thì tu ít năm kết quả cũng khác nhau. Khác là tại thiện hữu tri thức, chớ không phải tại họ có chủng tánh khác. Tuy nhiên nói vậy không phải phủ nhận cái duyên của họ, có duyên với tà nên dễ gặp tà. Gặp người tà nói mơ mơ màng màng linh ứng thế này linh ứng thế nọ thì họ thích và theo. Người có duyên với chánh pháp thì đến với đạo bằng trí tuệ chớ không phải bằng niềm tin.
ÂM:
- Thiện nam tử, Bồ-tát duy dĩ đại bi phương tiện nhập chư thế gian khai phát vị ngộ, nãi chí thị hiện chủng chủng hình tướng nghịch thuận cảnh giới, dữ kỳ đồng sự hóa linh thành Phật, giai y vô thủy thanh tịnh nguyện lực.
DỊCH:
- Này thiện nam, Bồ-tát chỉ dùng lòng đại bi, mà phương tiện vào các thế gian khai phát những người chưa ngộ, cho đến thị hiện nhiều hình tướng hoặc cảnh giới nghịch hay thuận, họ đồng sự để giáo hóa khiến cho thành Phật, đều y nơi nguyện lực thanh tịnh từ vô thủy.
GIẢNG:
Câu hỏi thứ tư là Bồ-tát vào thế gian này có bao nhiêu thứ phương tiện? Phật trả lời Bồ-tát do lòng đại bi và hạnh nguyện độ sanh, nên phương tiện vào trong thế gian hiện các thứ hình tướng, như cảnh giới thuận nghịch để hóa độ chúng sanh, chớ không phải bị nghiệp ái dục lôi vào. Bồ-tát dùng phương tiện hiện hình tướng để độ sanh như hiện tướng Bồ-tát, tướng Tỳ-kheo, tướng cư sĩ, vua, quan… Thị hiện cảnh giới thuận là Bồ-tát xuất gia tu hành ngộ đạo, giáo hóa đúng với đạo lý của Phật dạy. Cảnh giới nghịch là Bồ-tát hiện ra cảnh dầu sôi lửa bỏng, ngưu đầu mã diện… để người ác sợ, thức tỉnh hồi tâm tu hành. Hoặc các ngài vào trong cảnh khổ làm những nghề xấu xa để dẫn dắt chúng sanh, khi vào trong đó phải đồng sự với họ, sống chung với họ. Mọi người thấy không tin là Bồ-tát, nhưng các ngài âm thầm làm hạnh Bồ-tát. Trong cảnh đó thì khó làm, ở trong cảnh giới thuận thì dễ, vì giữ giới hạnh đàng hoàng và nói đạo lý dạy tu nên dễ tin hơn. Còn ở trong chỗ mọi người xem thường chê bai mà nói pháp mới thật là khó. Tất cả hạnh thuận nghịch đều chỉ vì lòng từ bi và nguyện lực thanh tịnh, chớ không có động lực nào khác.
Như vậy thì chung quanh chúng ta rất nhiều Bồ-tát. Vì chúng ta tìm Bồ-tát có hào quang nên dễ bị ma gạt. Quí vị phải lặng tâm mà xét thì thấy chung quanh mình rất nhiều Bồ-tát, chớ không phải ít đâu. Kinh Phật nói, Phật ra đời có những vị Bồ-tát trợ hóa. Khi Phật không ra đời cũng có rất nhiều Bồ-tát lẫn lộn trong nhân gian để đánh thức chúng sanh. Bồ-tát là người gỡ cho chúng ta bớt nhiễm, gỡ cho chúng ta bớt đắm trước. Giả sử họ tỏ ra rất tầm thường không có gì cao quí đáng phục, nhưng họ biết chận những nhiễm ái, những tội lỗi cho chúng ta thì đó cũng là hiện thân của Bồ-tát.
ÂM:
- Nhược chư mạt thế nhất thiết chúng sanh, ư Đại viên giác khởi tăng thượng tâm đương phát Bồ-tát thanh tịnh đại nguyện, ưng tác thị ngôn: Nguyện ngã kim giả trụ Phật Viên giác, cầu thiện tri thức mạc trị ngoại đạo cập dữ Nhị thừa, y nguyện tu hành tiệm đoạn chư chướng, chướng tận nguyện mãn tiện đăng giải thoát thanh tịnh pháp điện, chứng Đại viên giác diệu trang nghiêm vực.
DỊCH:
- Nếu các chúng sanh đời sau đối với Đại viên giác, khởi tâm tăng thượng, nên phát lời đại nguyện, thanh tịnh của Bồ-tát như thế này: Con nguyện ngày nay được trụ trong Viên giác Phật, xin gặp thiện tri thức, chẳng gặp ngoại đạo cùng với Nhị thừa. Con y theo nguyện tu hành lần lần đoạn trừ các chướng. Chướng dứt, nguyện được viên mãn, liền lên pháp điện thanh tịnh giải thoát, chứng được cảnh giới trang nghiêm vi diệu Đại viên giác.
GIẢNG:
Đoạn này đức Phật dạy chúng ta phát nguyện, người tu muốn khỏi rơi vào đường tà và khỏi lạc vào Nhị thừa phải hằng phát nguyện: Đời này con ở mãi trong Viên giác Phật, nguyện chẳng gặp ngoại đạo và Nhị thừa, y theo đạo lý Đại thừa mà tu hành, lần lần đoạn các chướng ngại, vào cảnh giới Viên giác Diệu trang nghiêm. Đó là đức Phật đã chỉ rõ đường lối tu, để cho chúng ta được kết quả như ý nguyện. Hạt giống Bồ-đề của chúng ta nếu gặp đất tốt sẽ tăng trưởng rất nhanh, nếu không thì đường tu của chúng ta sẽ bị chướng ngại và lần lần chán nản rồi bỏ tu luôn. Chúng ta phải khéo tu làm sao để mình đi hoài trên con đường chân chánh không bị sai lệch.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
- Di-lặc nhữ đương tri
Nhất thiết chư chúng sanh
Bất đắc đại giải thoát
Giai do tham dục cố
Đọa lạc ư sanh tử
Nhược năng đoạn tắng ái
Cập dữ tham sân si
Bất nhân sai biệt tánh
Giai đắc thành Phật đạo
Nhị chướng vĩnh tiêu diệt
Cầu sư đắc chánh ngộ
Tùy thuận Bồ-tát nguyện
Y chỉ Đại Niết-bàn
Thập phương chư Bồ-tát
Giai dĩ đại bi nguyện
Thị hiện nhập sanh tử
Hiện tại tu hành giả
Cập mạt thế chúng sanh
Cần đoạn chư ái kiến
Tiện qui Đại viên giác.

DỊCH:
Bấy giờ đức Phật muốn lặp lại nghĩa này, nói kệ rằng:
- Di-lặc ông nên biết
Tất cả các chúng sanh,
Không được đại giải thoát,
Đều do ở tham dục,
Đọa lạc vào sanh tử.
Nếu hay đoạn yêu ghét,
Cùng với tham sân si,
Chẳng do tánh sai biệt
Đều được thành Phật đạo.
Hai chướng tiêu diệt hẳn,
Cầu thầy được chánh ngộ,
Thuận theo nguyện Bồ-tát,
Y nơi Đại Niết-bàn.
Mười phương các Bồ-tát,
Đều do nguyện đại bi,
Thị hiện vào sanh tử.
Hiện tại người tu hành,
Và chúng sanh đời sau,
Siêng đoạn các ái kiến,
Trở về Đại viên giác.

GIẢNG:
Bài trùng tụng này đức Phật dạy chúng ta tu hành thì phải đoạn yêu ghét và tham sân si mới được giải thoát. Vì vậy phải cầu minh sư khai ngộ, rồi y theo hạnh nguyện của Bồ-tát mà đoạn dứt hai chướng và cầu được an trụ nơi Đại Niết-bàn của Phật .
Các vị Bồ-tát ở mười phương đều do lòng đại bi, phát nguyện thị hiện trong sanh tử trần lao, không sợ ô nhiễm không ngại gian lao, để độ chúng sanh dứt hết ái hoặc, trở về với tánh Viên giác.
Tóm lại, chúng ta chỉ cần nhớ những câu hỏi trong chương này là hiểu trọn được ý nghĩa.
1. Cái gì là cội gốc của luân hồi sanh tử?
- Ái dục là cội gốc của luân hồi sanh tử.
2. Trong luân hồi sanh tử có bao nhiêu loài?
- Có hai mươi lăm loài, nghĩa là mười nghiệp ác cộng mười nghiệp thiện, cộng năm ấm mà sanh ra hai mươi lăm loài.
3. Có bao nhiêu chủng tánh?
- Có năm chủng tánh sai biệt.
4. Bồ-tát vào thế gian có bao nhiêu thứ phương tiện?
- Do lòng đại bi phát nguyện vào trong thế gian để độ chúng sanh.
Chúng ta hiểu rõ bốn câu hỏi và lời đáp của đức Phật thì thâm nhập được phần này.

CHƯƠNG VI
BỒ-TÁT THANH TỊNH TUỆ THƯA HỎI
ÂM:
Ư thị Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, trường quì xoa thủ nhi bạch Phật ngôn:
- Đại bi Thế Tôn, vị ngã đẳng bối quảng thuyết như thị bất tư nghì sự, bản sở bất kiến, bản sở bất văn, ngã đẳng kim giả mông Phật thiện dụ, thân tâm thái nhiên đắc đại nhiêu ích.
DỊCH:
Lúc bấy giờ Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, quì gối chấp tay bạch Phật rằng:
- Đức Thế Tôn đại bi, vì bọn chúng con rộng nói việc bất tư nghì như thế, từ trước chưa từng thấy, từ trước chưa từng nghe, ngày nay chúng con nhờ Phật khéo dẫn dụ thân tâm thơ thới được lợi ích lớn.
GIẢNG:
Chương này là chương Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ, Ngài hỏi vì muốn cho tất cả chúng ta có trí tuệ thanh tịnh, biết rành rẽ không còn bị mờ ám, không còn bị nghi ngờ. Sau khi Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ tán thán đức Phật, Ngài mới đặt câu hỏi:
ÂM:
- Nguyện vị chư lai nhất thiết pháp chúng, trùng tuyên Pháp vương viên mãn Giác tánh, nhất thiết chúng sanh cập chư Bồ-tát Như Lai Thế Tôn sở chứng sở đắc vân hà sai biệt linh mạt thế chúng sanh văn thử thánh giáo, tùy thuận khai ngộ, tiệm thứ năng nhập.
Tác thị ngữ dĩ, ngũ thể đầu địa, như thị tam thỉnh, chung nhi phục thủy.
DỊCH:
- Xin Thế Tôn vì các chúng đến nghe pháp, nói lại Tánh giác viên mãn của đấng Pháp vương và sở chứng sở đắc của chúng sanh, Bồ-tát và chư Phật sai biệt như thế nào, khiến cho tất cả chúng sanh đời sau nghe được thánh giáo này, tùy thuận khai ngộ, dần dần vào được Tánh giác.
Thưa lời đây rồi, năm vóc gieo sát đất, thưa hỏi như vậy lặp lại ba lần.
GIẢNG:
Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ chỉ hỏi một câu duy nhất thôi. Bồ-tát này trí tuệ thanh tịnh nên Ngài yêu cầu đức Phật lặp lại về Tánh giác viên mãn của Như Lai và chỗ tu chứng của chúng sanh, Bồ-tát và chư Phật khác nhau như thế nào? Nghĩa là căn cứ trên tánh Viên giác thì chúng sanh, Bồ-tát và Phật tu có sai biệt không? Tại sao căn cứ vào Tánh giác đó mà gọi là Phật, căn cứ vào Tánh giác đó mà gọi là Bồ-tát, cũng căn cứ vào Tánh giác đó mà gọi là chúng sanh? Mong Phật chỉ cho những người tu sau này biết để tu hành khỏi lầm lẫn. Nếu chúng ta quyết chí tu cầu giải thoát thì câu hỏi này thật hệ trọng, bởi vì trong khi tu mà không biết mình tới đâu, được ít cho là đủ hay được chút ít tự cho đã viên mãn Phật quả. Đó là cái bệnh.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn cáo Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát ngôn:
- Thiện tai, thiện tai! Thiện nam tử, nhữ đẳng nãi năng vị mạt thế chúng sanh thỉnh vấn Như Lai tiệm thứ sai biệt. Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.
Thời Thanh Tịnh Tuệ Bồ-tát phụng giáo hoan hỉ cập chư đại chúng, mặc nhiên nhi thính.
DỊCH:
Khi ấy đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ rằng:
- Lành thay, lành thay! Này thiện nam, các ông hãy vì chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai về thứ lớp tu chứng sai biệt. Bây giờ các ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông nói.
Khi ấy Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ vâng lời dạy, vui vẻ cùng đại chúng im lặng lắng nghe.
GIẢNG:
Đức Phật khen Bồ-tát Thanh Tịnh Tuệ vì chúng sanh đời sau đã khéo hỏi Như Lai về thứ lớp tu chứng sai biệt, và dạy Ngài cùng đại chúng hãy im lặng lắng nghe đức Phật giảng dạy.
ÂM:
- Thiện nam tử, Viên giác tự tánh phi tánh tánh hữu tuần chư tánh khởi, vô thủ vô chứng. Ư thật tướng trung, thật vô Bồ-tát cập chư chúng sanh. Hà dĩ cố? Bồ-tát chúng sanh giai thị huyễn hóa, huyễn hóa diệt cố, vô thủ chứng giả. Thí như nhãn căn, bất tự kiến nhãn, tánh tự bình đẳng, vô bình đẳng giả.
DỊCH:
- Này thiện nam, tánh Viên giác “phi tánh tánh hữu” tùy theo các tánh mà khởi, không thủ không chứng. Trong Tướng chân thật không có Bồ-tát và chúng sanh. Vì cớ sao? Vì Bồ-tát và chúng sanh đều là tướng huyễn hóa. Khi tướng huyễn hóa diệt rồi thì không có người chứng và quả được chứng. Thí như con mắt không tự thấy con mắt. Tánh tự bình đẳng không cần người làm bình đẳng.
GIẢNG:
Phi tánh tánh hữu” ý tương tự với bài kệ đức Phật truyền pháp cho Tôn giả Ma-ha Ca-diếp “Pháp bản pháp vô pháp([1])” trong Sử Ba Mươi Ba Vị Tổ Ấn Hoa.
Tự tánh Viên giác phi tánh, tánh hữu. Phi tánh nghĩa là tánh Viên giác không có đặc tánh riêng nên nói là “phi tánh”, nhưng nó không phải là không ngơ nên nói là “tánh hữu”. Vì tánh Viên giác không cố định nên nói tùy theo tánh mà khởi. Trong mỗi người chúng ta ai cũng có tánh Viên giác, cho nên nói Viên giác tự tánh song không cố định. Nếu tánh Viên giác cố định trước sau như một thì ai cũng là Phật hết. Nhưng vì tánh Viên giác không ở nguyên vị thể của nó, nên mới tùy duyên lành thì hiện ra người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Theo duyên ác thì sanh vào địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Bởi tùy duyên sanh ra các chủng tánh, nên chủng tánh không cố định, tạm có không thật. Vì là tướng giả không thật nên khi buông xả hết các giả tướng ấy hằng sống với thể Viên giác bình đẳng thì có gì gọi là chứng là giữ? Nên nói: Tùy theo các tánh mà khởi, không thủ không chứng.
Bồ-tát và chúng sanh đều là tướng huyễn hóa. Bởi tánh Viên giác vốn không có cái gìn giữ cố định, nên nó theo duyên nghiệp mà thành ra các tánh sai biệt, như chủng tánh phàm phu là trời, người, a-tu-la, súc sanh… hay chủng tánh Thánh như: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát… Những chủng tánh sai biệt đó do tùy duyên tùy nghiệp giả có không thật, chỉ là tướng duyên hợp như huyễn như hóa nên nói không có Bồ-tát và chúng sanh. Nếu buông hết các tướng không thật trở lại Thể tánh Viên giác bình đẳng, thì cái thể đó không thủ không chứng. Vì cái Thể bình đẳng sẵn có nơi mình, chỉ cần trở về là tự đầy đủ, đâu cần phải thêm bớt mà có chứng có giữ. Cho nên nói những cái huyễn hóa diệt rồi thì không thủ không chứng. Trên Viên giác thì đâu có cái nào mê cái nào ngộ. Người thức tỉnh mình có tánh Viên giác sống trở lại thì gọi đó là ngộ, là Bồ-tát. Còn quên mất là mê, là chúng sanh. Tự tánh Viên giác không có mê ngộ, không có quên nhớ. Không có mê ngộ thì làm sao có Bồ-tát, có chúng sanh. Nên Bồ-tát và chúng sanh đều là tướng huyễn hoá. Tôi nêu một ví dụ nhỏ cho quí vị rõ. Ví dụ chúng ta có cái nhà hay cái chùa, trong đó có hai người. Người từ chùa đó đi ra, đi mãi đi mãi không trở về, lang thang từ năm này đến năm nọ. Họ quên mất đường về, đó là người mê. Còn người đi ra một lúc chợt nhớ: À mình có chùa sao lại phải lang thang thế này! Rồi họ trở về. Khi nhớ trở về thì người đó tỉnh. Nhưng đối với cái chùa có hai cái nhớ và quên không? Chỉ tại người đi luôn là quên, người trở lại gọi là nhớ. Quên hay nhớ đối với cái chùa không có nghĩa gì hết.
Phật đưa ra ví dụ, như mắt chúng ta thấy tất cả mọi vật, và chỉ thấy được ảnh của mắt là nhờ cái gương ở ngoài mắt, chớ mắt chúng ta không tự thấy mắt chúng ta.
Tánh tự bình đẳng không cần người làm cho bình đẳng. Tại sao vậy? Thí dụ như mặt biển khi chưa dấy sóng thì gọi là mặt biển lặng bằng phẳng, khi dấy sóng rồi mặt biển động không còn bằng nữa. Một lát lặng sóng mặt biển trở lại bằng. Như vậy cái bằng phẳng là sau khi dấy động rồi nó lặng xuống, nó bằng phẳng. Danh từ bằng phẳng là đối với khi nó lồi lõm dấy động. Còn nếu nguyên nó thủy chung như vậy thì bằng phẳng cái gì? Tánh Viên giác trước sau như một không có gì đổi thay thì có gì nói bình đẳng. Tánh Viên giác vốn tự bình đẳng không đợi người làm cho bình đẳng, nó tùy duyên hiện ra các pháp mà không thủ không chứng. Vì khi chúng ta không đuổi theo các tướng huyễn hóa, thể nhập tánh Viên giác bình đẳng thì tánh Viên giác chính là mình, nó không ở ngoài mình thì còn gì chứng còn gì thủ?
Tóm lại, trước khi chỉ sự tu hành theo tánh Viên giác, đức Phật chỉ cho chúng ta biết rõ nguyên tánh Viên giác không cố định là tánh gì, nhưng không phải không ngơ, do tùy duyên huân tập mà thành tánh phàm phu hay tánh Thánh. Khi chúng ta buông hết những chủng tánh hư vọng sai biệt ấy, trở về với Thật tướng Viên giác thì không thủ không xả, thấy tướng chúng sanh và Bồ-tát đều như huyễn như hóa.
ÂM:
- Chúng sanh mê đảo, vị năng trừ diệt nhất thiết huyễn hóa. Ư diệt vị diệt, vọng công dụng trung tiện hiển sai biệt. Nhược đắc Như Lai tịch diệt tùy thuận, thật vô tịch diệt cập tịch diệt giả.
DỊCH:
- Chúng sanh vì mê muội điên đảo, chưa diệt trừ tất cả pháp huyễn hóa, đối với pháp đáng diệt mà chưa diệt, nên trong vọng dụng công phu, liền hiển bày sai biệt. Nếu tùy thuận tịch diệt Như Lai thì thật không có cảnh tịch diệt và người tịch diệt.
GIẢNG:
Phật nói rằng bởi chúng sanh mê cho nên điên đảo. Từ điên đảo đó nên chưa thể trừ diệt được tất cả huyễn hóa. Điên đảo của phàm phu là ngay nơi thân huyễn hóa vô thường này mà cứ nghĩ đó là thường. Mạng sống chỉ có trong hơi thở, nhưng có ai dám nói mạng sống mình trong hơi thở. Nếu đang ba mươi thì nghĩ ngắn lắm cũng sáu mươi tuổi mới chết. Người năm mươi thì nghĩ ngắn lắm bảy mươi tuổi mới chết. Ít nhất cũng có hai mươi năm để cho mình có cái gì hứa hẹn. Chớ nếu gần quá thì buồn. Đó là điên đảo số một.
Rồi tới cái điên đảo thứ hai là thân bất tịnh mà tưởng là tịnh. Lúc nào chúng ta cũng nghĩ mình là đẹp, mình là sạch. Thân ô uế bất tịnh mà tưởng là tịnh nên khi người ta nói khác đi, chê chúng ta dơ hôi thì chúng ta tức lên vì trái với cái tưởng của mình. Như vậy không điên đảo là gì?
Đến cái thứ ba là thọ khổ mà tưởng là lạc. Lãnh thọ là cảm giác khi mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, mắt thấy sắc, tai nghe tiếng v.v… tất cả lãnh thọ đó đều là khổ mà mình lại tưởng là vui. Như ăn món ngon cho là vui, nghe tiếng nhạc cho là vui, thấy cảnh đẹp cho là vui… Tất cả những cái đó chúng ta cho là vui nên cứ mãi đuổi theo. Giả sử có một cái vui nào đó cứ còn mãi với chúng ta, liệu chúng ta có vui không? Ví dụ như có người ghiền sầu riêng, họ cho được ăn sầu riêng là ngon, là vui. Bây giờ có người tặng cho họ hai ba chục trái sầu riêng ăn hoài, sáng ăn trưa ăn chiều ăn thì còn vui không? Nghe nhạc cũng vậy, nhạc hay mà giờ nào cũng nghe bên tai hoài còn vui không? Tất cả những cái vui đó là vui trong vô thường tạm bợ, đâu có thật là vui. Vậy mà người thế gian tưởng đó là vui, cứ đuổi theo. Nhưng được rồi là nó mất, mất rồi tìm nữa, cứ như vậy cả cuộc đời trong vô thường mà không hay. Đó là thọ khổ mà cứ tưởng là lạc.
Rồi thân vô ngã mà tưởng là ngã - ngã tức là chủ tể, là thường còn, là thuần nhất. Về vật chất thì thân này thay đổi từng tế bào, về tinh thần thì tâm này niệm niệm sanh diệt. Hai cái đó là một dòng sanh diệt đổi thay, mà chúng ta tưởng là thường, tưởng là chủ tể nên cho là ngã. Cái vô thường biến đổi mà cho là thường là thật, đó là điên đảo thứ tư.
Bốn cái điên đảo đó gọi là điên đảo phàm phu. Chúng ta chấp những điên đảo đó không dám bỏ nên không thể trừ được tất cả huyễn hóa. Vì không trừ được huyễn hóa nên không thể chứng được quả Bồ-đề. Vì vậy Phật bảo chúng ta phải thấy rõ cái huyễn hóa đó, chúng ta không mê không lầm nó nữa thì mới có thể trừ diệt được điên đảo. 
Hiện tại chúng ta còn vô minh chấp ngã, chấp pháp, lúc khởi niệm này lúc khởi niệm kia lăng xăng lộn xộn, nên tôi khuyên quí vị tu biết vọng, vọng tưởng khởi biết nó là không thật thì buông, đó là dụng vọng công phu. Người nào bỏ lâu ngày thì vọng tưởng còn ít, gọi người đó tu khá, người nào mới tu vọng tưởng nhiều thì nói tu còn dở. Có khá có dở là căn cứ trên cái vọng dụng công phu sai biệt mà nói, chớ nó không thật. Vì chúng ta ở trong vòng tương đối chưa buông được pháp huyễn hóa, nên ở trên cái vọng dụng công phu mà dẹp nó, liền thấy có sai biệt.
Nếu thể nhập được tánh Viên giác tịch diệt Như Lai rồi thì không còn thấy một pháp nào cả, huống là có cảnh tịch diệt và người tịch diệt. Tức là tu đến chỗ này không còn thấy hai pháp đối đãi nữa. Giống như bức tranh thứ tám trong Thập mục ngưu đồ là một vòng tròn không có người chăn và trâu để chăn. Nếu còn thấy cảnh tịch diệt và người tịch diệt là còn thấy hai. Tu tới đây, quí vị mới thấy hiện tại chúng ta tu, đều nằm trong vòng đối đãi. Khi tu thì nói: “Tôi ráng tu làm sao cho được nhập Niết-bàn.” Hỏi ai nhập? Tôi nhập. Thế là có người nhập Niết-bàn và có cảnh giới Niết-bàn để nhập. Như vậy, Niết-bàn là cảnh mình là người, giống hệt như tôi tu để về Cực Lạc, có cảnh Cực Lạc và người về Cực Lạc, còn năng còn sở, còn hai cái đối đãi. Nếu nói tu mà không còn có cảnh có người thì chán lắm buồn lắm, cho nên khi nghe nói tới chỗ cứu kính không còn năng không còn sở, không còn người không còn cảnh thì cảm thấy khó hiểu. Chớ nếu nói cảnh giới Niết-bàn đẹp đẽ rực rỡ, vào đó thật là sung sướng, nghe như vậy chúng ta mới ham mới tu. Cũng như nói về Cực Lạc, ở đó toàn là vàng ròng, được ăn bát báu, được đi chơi, không làm mà tự nhiên có ăn, đủ thứ sung sướng, ham quá cho nên thích tu. Còn ở đây nói không có cảnh tịch diệt và người tịch diệt, thật là buồn. Vì sao? Vì chúng ta tu là mong đạt một cái gì đó, đa số là tu vì bản ngã. Chúng ta tu hành đời này cực khổ là mong đời sau được sung sướng hơn. Nếu tu mà không nói đời sau ra sao thì buồn lắm không thể tu được. Như vậy chúng ta tu là tu vì bản ngã, mà bản ngã là kiến chấp lầm lẫn nên chúng ta mới đi trong sanh tử luân hồi. Bây giờ nếu chúng ta cũng tu theo bản ngã thì không bao giờ hết luân hồi, nhưng luân hồi xấu hay luân hồi tốt, cũng như giấc mộng lành giấc mộng dữ vậy thôi.
Giờ đây, chúng ta phải tỉnh hẳn, hết mộng mới thật là vui. Còn mộng dù lành hay dữ cũng là mộng. Kiếp người ba mươi năm hay năm mươi năm, thoáng qua nhớ lại không phải mộng là gì? Nếu thật thì nó không mất, mà nó mất thì làm sao nói thật? Như vậy để chúng ta thấy rõ chủ yếu giải thoát sanh tử luân hồi là sống được với tánh Viên giác của mình. Khi sống được với tánh Viên giác rồi thì không còn năng sở nữa, vì tánh Viên giác là mình thì không có ai năng và cái gì là sở. Nếu còn có cảnh Niết-bàn để chứng thì Niết-bàn là sở, người tu là năng, ấy là còn đối đãi nên khi nhập được tánh Viên giác thì không còn thấy có mình và có tánh Viên giác là hai. Vì vậy nên nói không thủ không chứng để chúng ta tu không mong thủ chứng. Lý Viên giác thật là thâm sâu, người học mà không tập sống thì đọc tới đoạn này thấy rối rắm khó hiểu.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhất thiết chúng sanh tùng vô thủy lai, do vọng tưởng ngã cập ái ngã giả, tằng bất tự tri niệm niệm sanh diệt, cố khởi tắng ái đam trước ngũ dục.
DỊCH:
- Này thiện nam, tất cả chúng sanh từ vô thủy đến giờ do vọng tưởng ngã và ái ngã, chẳng từng tự biết niệm niệm sanh diệt cho nên khởi yêu ghét và đam mê ngũ dục.
GIẢNG:
Đức Phật nhắc lại cho tất cả chúng ta thấy từ vô thủy đến nay, do vọng tưởng chấp ngã là thật rồi ái ngã, cho nên chưa từng biết thân tâm của mình đổi thay từng phút từng giây. Thân tâm mình đổi thay từng phút từng giây, vậy mà không dám nói nó đổi thay, vì sợ đổi thay rồi sẽ mau mất. Ở thế gian, chúng ta gạt nhau mà cũng hài lòng trong cái gạt gẫm đó. Chúng ta luôn luôn tránh né sự thật. Ví dụ khi thấy anh B mập phì ra mà không dám quở, bèn nói tránh: “Chà! Lúc này coi bộ anh phát tướng quá.” Nghĩa là lúc nào cũng sợ không dám nói lẽ thật, nói thật sợ lỡ họ đau rồi chết, đủ thứ sợ. Còn thấy người kia ốm quá cũng không dám quở nữa, sợ họ mất thần. Nói tóm lại lúc nào chúng ta cũng nơm nớp sợ cái ngã này bị bại hoại đổi thay. Tại sao vậy? Vì yêu nó quá, cho nên nói đến sự bại hoại đổi thay của nó là hồi hộp lo sợ. Vì vậy, ở đây Phật mới nói do vọng tưởng về ngã rồi ái ngã, chưa từng biết mỗi niệm sanh diệt đổi thay. Nếu chúng ta nhận rõ sự đổi thay sanh diệt này thì coi nó không ra gì hết. Vì chúng ta yêu nó quá cho nên không dám thừa nhận sự bại hoại đổi thay của nó. Khi thấy đầu bạc răng rụng là chúng ta buồn, vì yêu ngã quá nên ngã bại hoại đổi thay là khổ đau.
Nghiệm cho kỹ mới thấy cái chấp ngã của chúng ta thật là lạ lùng; cái hằng đổi thay mà lúc nào cũng sợ đổi thay. Nếu chúng ta biết đổi thay như thật là đã có tỉnh rồi. Chúng ta không dám nhìn cái đổi thay đó là tại vì chúng ta mê. Vì vậy, người đời không bao giờ dám nói lên sự thật. Nói sự thật người đời cho là chán đời yếm thế, cho nên lúc nào cũng nói gạt nhau “cuộc đời là hạnh phúc, là an vui”. Dùng những danh từ cho đẹp, cho kêu để đánh lừa nhau. Nhưng đối diện với sự thật thì nó chẳng hay chẳng đẹp gì cả. Nói đời là hạnh phúc mà tới nhà nào cũng thấy trán ông nhăn hai ba nếp, mặt bà đăm chiêu buồn bực, ít thấy người nào gương mặt thản nhiên tươi tỉnh, vậy mà lúc nào người đời cũng nói là hạnh phúc, an vui. Thử hỏi trong hiện tại có ai được hạnh phúc trọn ngày không? Hết bận tâm việc này tới bận tâm việc nọ, hết bực bội việc này đến bực bội việc kia. Như những chú bé lúc còn nhỏ nghĩ rằng ngày mai lớn lên có gia đình sẽ hạnh phúc. Nhưng khi có gia đình rồi phải vật lộn với cuộc sống để lo cho vợ con, cho gia đình, trăm thứ lo dồn dập, rồi đâm ra bực bội cau có. Như vậy hạnh phúc chỉ là cái ước mơ mà người ta tưởng là thật. Do vậy mà cuộc đời chúng ta chìm trong mê tối, không dám thấy lẽ thật. Nếu có một người nào gan dạ nói thật thì chúng ta phiền trách người đó.
Đức Phật biết rõ bệnh của chúng ta là “ái ngã”, do ái ngã cho nên khởi yêu ghét và chìm đắm trong ngũ dục. Hễ có được món ăn ngon là thỏa mãn vị dục, có cái áo đẹp là thỏa mãn xúc dục, có radio nghe nhạc hay là thỏa mãn thanh dục… Lòng tham muốn không dứt, được cái này muốn cái kia, muốn mãi cho tới già chết mà không hay. Mọi người chúng ta ai cũng như ai đều gom góp những vật chất quí báu, để cung phụng cho cái thân này, lo cho nó từng li từng tí, rốt cuộc rồi nó cũng rã mất. Quí vị nghĩ coi chúng ta có giống như dã tràng không? Cứ bươi cát vun lên rồi sóng ùa đến lôi đi mất, lại vun lên nữa rồi sóng lôi đi nữa. Chúng ta cung phụng bảo vệ thân này, cuối cùng có bảo vệ được đâu? Vậy mà cứ làm hoài hết đời này tới đời kia, hết đời kia tới đời nọ… không phải dã tràng xe cát là gì? Nhưng mà ít ai thấy cái vô lý đó, cứ như thế mà hài lòng rồi bảo nhau: “Con người sanh ra là phải như vậy.” Nếu chúng ta không tỉnh thì cứ loanh quanh mãi trong nẻo luân hồi!
ÂM:
- Nhược ngộ thiện hữu, giáo linh khai ngộ tịnh Viên giác tánh, phát minh khởi diệt, tức tri thử sanh tánh tự lao lự.
DỊCH:
- Nếu gặp thiện hữu tri thức dạy cho khai ngộ tánh Viên giác thanh tịnh, thấy rõ sự sanh diệt, liền biết đời này tánh tự lao lự.
GIẢNG:
Lao là nhọc lự là lo tính, biết được cái sanh diệt trong mình, tức vọng tưởng sanh diệt. Cái vọng tưởng đó gọi là cái khởi diệt. Cái khởi diệt đó mình biết nó, biết đó là cái tánh tự lăng xăng suy nghĩ, không bao giờ an ổn… Chúng ta học đạo, nếu gặp được thiện hữu tri thức dạy cho khai ngộ tánh Viên giác thanh tịnh, chúng ta mới thấy rõ niệm niệm khởi diệt từng phút từng giây ở nơi mỗi chúng ta. Lúc đó mới biết kiếp sống con người vốn là lăng xăng lộn xộn không an, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh… có đó rồi mất đó, nó giả dối, chẳng có gì thật để chúng ta bám vào đó, rồi hài lòng với nó suốt cả cuộc đời.
ÂM:
- Nhược phục hữu nhân lao lự vĩnh đoạn đắc pháp giới tịnh, tức bỉ tịnh giải vi tự chướng ngại, cố ư Viên giác nhi bất tự tại, thử danh phàm phu tùy thuận Giác tánh.
DỊCH:
- Lại, nếu có người hằng đoạn các lao lự thì ngộ được pháp giới thanh tịnh, nhưng đối với tánh Viên giác chưa được tự tại, vì còn bị “cái biết tịnh” làm chướng ngại, những người ấy gọi là phàm phu tùy thuận tánh Viên giác.
GIẢNG:
Nếu có người ngay cái lăng xăng lộn xộn đó mà đoạn diệt thì lúc đó được cảnh giới thanh tịnh. Có đoạn có được nên cái thanh tịnh giải của người đó tự chướng ngại, bởi vì bên đây là đoạn bên kia là chứng; đoạn lao lự và chứng pháp giới định thì người đó đối với tánh Viên giác chưa được tự tại. Khi chúng ta tu gặp thầy bạn chỉ dạy ngộ được tánh Viên giác, chúng ta mới biết thân tâm này, cuộc sống này là cái sanh diệt lao xao, không bền vững, nên liền dụng tâm tu đoạn được cái lao xao ấy. Khi cái sanh diệt lao xao hết, chúng ta thấy được pháp giới thanh tịnh, nhưng lại chấp vào cảnh thanh tịnh đó, ấy là tự làm chướng ngại tánh Viên giác. Tôi thường nhắc quí vị vọng tưởng là cái lao xao, chợt hiện chợt mất làm nhiễu loạn tâm người, bây giờ chúng ta buông vọng tưởng, vọng tưởng vừa lặng, ở chỗ lặng lẽ chúng ta hài lòng ngang đó là chướng ngại. Nên gọi là phàm phu tùy thuận tánh Viên giác, vừa thấy được vọng tưởng lặng bèn hài lòng, nên bị kẹt vào chỗ lặng lẽ thanh tịnh đó.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhất thiết Bồ-tát kiến giải vi ngại, tuy đoạn giải ngại, do trụ kiến giác, giác ngại vi ngại, nhi bất tự tại. Thử danh Bồ-tát vị nhập địa giả, tùy thuận Giác tánh.
DỊCH:
- Này thiện nam, tất cả Bồ-tát bị kiến giải làm ngại, tuy đã đoạn được cái ngại của kiến giải, nhưng vẫn còn trụ ở kiến giác, do kiến giác làm ngại nên không tự tại. Những vị này gọi là Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.
GIẢNG:
Đây là Bồ-tát hàng Tam hiền tức là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng. Những vị Bồ-tát ấy bị kiến giải làm ngại, tức là còn thấy có cảnh để mình tu, có quả để mình chứng, nên tuy đoạn được cái ngại của kiến giải mà vẫn còn thấy có cái kiến giác, tức là thấy cái giác của mình cho nên bị nó làm chướng ngại không tự tại. Bồ-tát chưa nhập địa tức là chưa bước vào Sơ địa, gọi là Tam hiền. Đó gọi là Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận tánh Viên giác, nhưng những vị này hơi xa với chúng ta.
ÂM:
- Thiện nam tử, hữu chiếu hữu giác câu danh chướng ngại, thị cố Bồ-tát thường giác bất trụ, chiếu dữ chiếu giả đồng thời tịch diệt. Thí như hữu nhân tự đoạn kỳ thủ, thủ dĩ đoạn cố, vô năng đoạn giả. Tắc dĩ ngại tâm, tự diệt chư ngại, ngại dĩ đoạn diệt vô diệt ngại giả. Tu-đa-la giáo như tiêu nguyệt chỉ. Nhược phục kiến nguyệt, liễu tri sở tiêu, tất cánh phi nguyệt. Nhất thiết Như Lai chủng chủng ngôn thuyết khai thị Bồ-tát diệc phục như thị. Thử danh Bồ-tát dĩ nhập địa giả tùy thuận Giác tánh.
DỊCH:
- Này thiện nam, còn chiếu còn giác đều còn chướng ngại, thế nên Bồ-tát thường giác mà chẳng trụ, năng chiếu và sở chiếu đồng thời vắng lặng. Thí như có người tự chặt đầu mình, khi cái đầu đã chặt rồi thì không có người chặt đầu (năng đoạn). Thế thì dùng tâm chướng ngại diệt các chướng ngại. Khi chướng ngại đoạn diệt hết thì không còn người diệt chướng ngại. Kinh giáo như ngón tay chỉ mặt trăng, nếu thấy được mặt trăng thì biết rõ ngón tay rốt ráo không phải là mặt trăng. Tất cả ngôn giáo của Như Lai khai thị cho Bồ-tát cũng như thế. Đây gọi là Bồ-tát đã nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.
GIẢNG:
Bồ-tát đã nhập địa là những vị Bồ-tát từ Sơ địa trở lên tới Thập địa, các ngài thấy còn chiếu còn giác là còn chướng ngại. Vì còn có vọng niệm để chúng ta giác, còn có vọng niệm để chúng ta chiếu thì vọng niệm là sở, giác chiếu là năng, chưa thuần thanh tịnh. Chiếu tức là dùng trí của mình để chiếu soi, dùng trí của mình để tỉnh giác. Còn dùng trí để chiếu vật, chiếu tâm thì còn dụng công. Còn dụng công là còn ngại. Ở đây, những vị Bồ-tát này thường giác mà không trụ, nghĩa là thường giác mà không trụ tâm, không cố kềm trong Tánh giác nữa cho nên giác một cách tự tại.  Năng chiếu và sở chiếu đồng thời diệt hết, lúc đó được tịch tịnh không còn thấy đối đãi nữa. Tới chỗ đó cũng giống như người tự chặt đầu mình, khi cái đầu đã chặt rồi thì đâu có năng có sở, đâu có người hay chặt và kẻ bị chặt. Khi phá được cái năng sở rồi thì tâm chướng ngại nó tự diệt. Khi các chướng ngại diệt hết thì cũng không còn người diệt chướng ngại nữa.
Như vậy do dùng tâm ngại mà tự diệt các ngại, tức là do chúng ta dùng cái tâm thấy được các pháp ngại đó, rồi xả bỏ hết không còn ngại nữa, nên phá hết không còn các ngại. Các ngại đã đoạn hết rồi thì không còn cái năng diệt các ngại. Khi tự mình lấy cái tâm diệt ngại đó, diệt rồi xả luôn tâm diệt ngại nên diệt rồi không còn năng và sở. Tới chỗ này mới thấy kinh điển Phật dạy như ngón tay chỉ mặt trăng. Thường chúng ta tu thì mình là người hay tu và pháp của Phật là pháp để mình tu, tới đây Bồ-tát phải thấy rõ pháp mình tu là phương tiện như ngón tay chỉ mặt trăng, nhân ngón tay mà thấy mặt trăng chớ đừng chấp ngón tay là mặt trăng. Như vậy để thấy kinh điển là phương tiện, ngộ mới là cứu kính, nếu thấy mặt trăng rồi thì ngón tay vô nghĩa. Cũng vậy, kinh điển giúp cho chúng ta ngộ được tánh Viên giác. Khi ngộ rồi, kinh điển chỉ là phương tiện bên ngoài thôi, không còn quan trọng nữa. Đây gọi là Bồ-tát nhập địa tùy thuận tánh Viên giác.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhất thiết chướng ngại tức cứu kính giác, đắc niệm thất niệm vô phi giải thoát, thành pháp phá pháp giai danh Niết-bàn, trí tuệ ngu si thông vi Bát-nhã, Bồ-tát ngoại đạo sở thành tựu pháp, đồng thị Bồ-đề, vô minh Chân như vô dị cảnh giới, chư giới định tuệ cập dâm nộ si câu thị phạm hạnh, chúng sanh quốc độ đồng nhất pháp tánh, địa ngục thiên cung giai vi tịnh độ, hữu tánh vô tánh tề thành Phật đạo, nhất thiết phiền não tất cánh giải thoát, pháp giới hải tuệ chiếu liễu chư tướng do như hư không, thử danh Như Lai tùy thuận Giác tánh.
DỊCH:
- Này thiện nam, tất cả chướng ngại tức là cứu kính giác; chánh niệm thất niệm đều là giải thoát; giữ giới phá giới đều là Niết-bàn; trí tuệ ngu si đều là Bát-nhã; pháp của Bồ-tát và ngoại đạo thành tựu đồng là Bồ-đề; vô minh Chân như đồng một cảnh giới; giới, định, tuệ và dâm, nộ, si đều là phạm hạnh; chúng sanh quốc độ đồng một Pháp tánh; địa ngục thiên cung đều là Tịnh độ; hữu tình vô tình đều thành Phật đạo; tất cả phiền não là giải thoát rốt ráo, vì biển tuệ pháp giới soi rõ các tướng như hư không. Đây gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác.
GIẢNG:
Chư Phật khi thể nhập tròn đầy trong Tánh giác rồi thì lúc đó không một pháp nào ở ngoài Tánh giác, tất cả chỉ là một tâm nhất như bình đẳng. Còn chúng ta bây giờ có phân biệt nên tâm có sai biệt, có hơn có thua, có cao có thấp; nếu trở về được tánh Viên giác tròn đầy thì tất cả sai biệt đó đều bình đẳng hết. Phật nói chúng sanh lâu nay đã thành Phật, còn chúng ta thấy Phật khác chúng sanh khác, phàm khác Thánh khác, ngu khác trí khác. Chúng ta luôn luôn thấy có sai biệt vì do tâm vọng tưởng sai biệt nhìn trên giả tướng, còn chư Phật nhập được Pháp thân tròn đầy nên nhìn trên Pháp tánh. Mắc kẹt trên tướng nhiều chừng nào thì phân biệt nhiều chừng nấy, bớt chạy theo tướng thì phân biệt theo đó mà bớt. Bớt phân biệt thì gọi là hàng Hiền, bớt nhiều gọi là hàng Thánh, không còn theo phân biệt thì gọi là Phật bình đẳng nhất như. Như vậy sự tu là dứt tâm thấy hai, cho nên nói rằng đến chỗ cứu kính là bình đẳng không hai.
Như Lai tùy thuận tánh Viên giác tức là tới chỗ không còn thấy có bên này hay bên kia dở, không còn thấy cái này là giác cái kia là mê, cái này là ngu cái kia là trí. Nghĩa là khi thấy được Tánh chân thật không hai không khác, trên cái không hai không khác đó mà được thành tựu viên mãn rồi thì gọi là Như Lai tùy thuận tánh Viên giác. Đến chỗ này là vượt lên trên tất cả những cái đối đãi giữ giới phá giới, trí ngu, thiên đàng địa ngục, phiền não Niết-bàn v.v… Thấy biết như vậy gọi là cái thấy biết của chư Phật, cho nên gọi là chư Phật tùy thuận Tánh giác.
ÂM:
- Thiện nam tử, đản chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh cư nhất thiết thời bất khởi vọng niệm, ư chư vọng tâm diệc bất tức diệt, trụ vọng tưởng cảnh bất gia liễu tri, ư vô liễu tri bất biện chân thật. Bỉ chư chúng sanh văn thị pháp môn tín giải thọ trì bất sanh kính úy. Thị tắc danh vi tùy thuận Giác tánh.
DỊCH:
- Này thiện nam, các vị Bồ-tát và những chúng sanh đời sau ở trong tất cả thời chẳng khởi vọng niệm, đối với vọng tâm cũng không cần dứt trừ, ở cảnh vọng tưởng mà không thêm phân biệt, đối với cái không hiểu biết chẳng biện chân thật, các chúng sanh kia nghe được pháp môn này tin hiểu thọ trì không sanh kinh sợ. Ấy gọi là tùy thuận Tánh giác.
GIẢNG:
Người mà tin lời dạy này thì ở trong tất cả thời không khởi vọng tưởng phân biệt, đối với vọng tâm cũng không cần dứt trừ, ở trong cảnh vọng tưởng cũng không thêm phân biệt. Ví như thấy cảnh này là cảnh giả, nghe âm thanh là giả nhưng không khởi thêm niệm phân biệt; thấy là thấy, nghe là nghe. Đối với cái không hiểu biết cũng không nói chân hay vọng. Cụ thể hơn, như thấy cái hoa là biết cái hoa, không thêm cái hiểu biết thật giả gì về cái hoa. Những chúng sanh đó nghe pháp môn này thì tin hiểu thọ trì không kinh sợ, còn người nào không tin như vậy thì kinh sợ, vì nghe nói không năng không sở là sợ lắm. Ấy gọi là tùy thuận tánh Viên giác.
Phật ban đầu chia ra phàm phu tùy thuận tánh Viên giác, Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận tánh Viên giác, Bồ-tát nhập địa tùy thuận tánh Viên giác và chư Phật tùy thuận tánh Viên giác, rồi đến người cuối cùng này cho chúng ta thấy rằng tinh thần kinh Viên Giác chỉ thẳng phương pháp đốn ngộ. Phương pháp đốn ngộ này chư Tổ hằng truyền bá, bảo chúng ta hằng giờ hằng phút hằng giây sống đúng với tinh thần Thiền là không chạy theo phân biệt ngoại cảnh. Đối cảnh mắt thấy tai nghe nhưng không duyên lự theo cảnh là trở về Tánh giác không khó khăn gì. Như vậy, hiện giờ chúng ta tập tu có tùy thuận tánh Viên giác không? Các vị Thiền sư hai mươi bốn giờ trong một ngày đêm không khởi niệm, các ngài có tùy thuận tánh Viên giác không? Như ngài Triệu Châu sử dụng được hai mươi bốn giờ trong ngày, như thế là trong tất cả thời không có vọng tưởng, đối với các vị ấy có cần nói tu hành không? Nếu nói các ngài tu hành là họa. Vì vậy, ở đây Phật nói đối với vọng tâm cũng không cần đoạn diệt. Đối với những người đã thật sống với lý Thiền thì khi nghe pháp môn Viên giác này không thấy khó.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhữ đẳng đương tri như thị chúng sanh, dĩ tằng cúng dường bá thiên vạn ức hằng hà sa chư Phật cập đại Bồ-tát thực chúng đức bản, Phật thuyết thị nhân danh vi thành tựu nhất thiết chủng trí.
DỊCH:
- Này thiện nam, các ông nên biết, những chúng sanh như thế đã từng gieo trồng cội gốc công đức, cúng dường trăm ngàn muôn ức chư Phật và Bồ-tát nhiều như cát sông Hằng. Phật nói người này sẽ thành tựu Nhất thiết chủng trí.
GIẢNG:
Câu “Kiến tánh thành Phật” của Thiền với đoạn kinh này không có khác. Người nào thực hiện đúng với tinh thần của nhà thiền dạy, trong buông tất cả vọng tưởng, ngoài thấy tất cả cảnh đều hư dối, không thêm một niệm, cũng không phân biệt đây là giả kia là chân, hằng sống được như vậy thì người ấy tin hiểu pháp môn này không khó, vì người ấy đã gieo trồng vô lượng hằng hà sa công đức rồi. Ở đây Phật nói đã gieo trồng căn lành nơi trăm ngàn muôn ức đức Phật và Bồ-tát nhiều như cát sông Hằng, chớ không phải ngẫu nhiên mà được như vậy. Bây giờ chúng ta mới tập chút chút theo cách sống đó thì chúng ta đã cúng dường được bao nhiêu đức Phật và Bồ-tát? Chúng ta mới tập làm, chắc cũng được cúng dường Phật bằng một hột cát sông Hằng. Như vậy để thấy rằng người có duyên với Đại thừa đốn giáo này không phải ngẫu nhiên, mà đã có duyên hoặc nhiều hoặc ít, hoặc gần hoặc xa với Đại thừa rồi. Nếu ai đã hữu duyên gặp được pháp môn đốn giáo của Đại thừa thì cứ vững niềm tin tiến tu, sớm muộn gì cũng sẽ thành Phật.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa nhi thuyết kệ ngôn:
- Thanh Tịnh Tuệ đương tri
Viên mãn Bồ-đề tánh
Vô thủ diệc vô chứng
Vô Bồ-tát chúng sanh
Giác dữ vị giác thời
Tiệm thứ hữu sai biệt
Chúng sanh vi giải ngại
Bồ-tát vị ly giác
Nhập địa vĩnh tịch diệt
Bất trụ nhất thiết tướng
Đại giác tất viên mãn
Danh vi biến tùy thuận
Mạt thế chư chúng sanh
Tâm bất sanh hư vọng
Phật thuyết như thị nhân
Hiện thế tức Bồ-tát
Cúng dường hằng sa Phật
Công đức dĩ viên mãn
Tuy hữu đa phương tiện
Giai danh tùy thuận trí.

DỊCH:
Lúc bấy giờ Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này nói kệ rằng:
- Thanh Tịnh Tuệ nên biết
Tánh Bồ-đề viên mãn
Không thủ cũng không chứng
Không Bồ-tát chúng sanh
Giác cùng với chưa giác
Thứ lớp có sai biệt.
Chúng sanh vì giải ngại
Bồ-tát chưa lìa giác
Nhập địa hằng vắng lặng
Không trụ tất cả tướng
Viên mãn quả Đại giác
Gọi là tùy thuận khắp.
Những chúng sanh đời sau
Tâm không sanh hư vọng
Phật gọi người như thế
Hiện đời là Bồ-tát.
Cúng dường hằng sa Phật
Công đức đã viên mãn
Tuy có nhiều phương tiện
Đều gọi trí tùy thuận.

GIẢNG:
Bài trùng tụng này đức Phật dạy: Nếu những vị nào còn có kiến giải làm ngại và cái giác làm ngại thì gọi là Bồ-tát chưa nhập địa tùy thuận Tánh giác. Những vị không còn bị kiến giải làm chướng ngại thì tâm được lặng lẽ vì không còn mắc kẹt trên tướng, đây là Bồ-tát nhập địa. Còn đến quả vị Phật thì các ngài tùy thuận khắp tất cả. Nếu chúng sanh đời sau tâm không khởi vọng tưởng hư dối, Phật nói người như thế hiện đời là Bồ-tát. Người mà tâm không khởi vọng tưởng hư dối, không cần gọi Bồ-tát vị đó cũng là Bồ-tát rồi, vì vị đó đã trồng công đức hằng sa chư Phật. Tuy có nhiều pháp môn phương tiện nhưng tất cả đều tùy thuận tánh Viên giác.

CHƯƠNG VII
BỒ-TÁT OAI ĐỨC TỰ TẠI THƯA HỎI
ÂM:
Ư thị Oai Đức Tự Tại Bồ-tát, tại đại chúng trung tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, trường quì xoa thủ nhi bạch Phật ngôn:
- Đại bi Thế Tôn quảng vị ngã đẳng phân biệt như thị tùy thuận Giác tánh linh chư Bồ-tát giác tâm quang minh, thừa Phật viên âm bất nhân tu tập nhi đắc thiện lợi. Thế Tôn, thí như đại thành ngoại hữu tứ môn tùy phương lai giả, phi chỉ nhất lộ. Nhất thiết Bồ-tát trang nghiêm Phật quốc, cập thành Bồ-đề phi nhất phương tiện. Duy nguyện Thế Tôn quảng vị ngã đẳng tuyên thuyết nhất thiết phương tiện tiệm thứ tinh tu hành nhân tổng hữu kỉ chủng, linh thử hội Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh cầu Đại thừa giả, tốc đắc khai ngộ, du hí Như Lai đại tịch diệt hải.
Tác thị ngữ dĩ, ngũ thể đầu địa như thị tam thỉnh chung nhi phục thủy.
DỊCH:
Lúc đó, Bồ-tát Oai Đức Tự Tại ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ chân Phật đi nhiễu bên phải ba vòng, quì gối chấp tay bạch Phật rằng:
- Đức Thế Tôn đại bi, đã vì chúng con phân biệt rộng tùy thuận Tánh giác như thế, khiến cho các Bồ-tát, nương nơi viên âm của Phật mà tâm được sáng suốt, không nhân tu hành mà được lợi ích lớn. Bạch Thế Tôn, ví như thành lớn, ngoài có bốn cửa, người tùy theo mỗi phương mà vào, chẳng phải chỉ một đường. Tất cả Bồ-tát trang nghiêm cõi Phật và thành Bồ-đề chẳng phải chỉ có một phương tiện. Cúi xin đức Thế Tôn rộng vì chúng con tuyên nói tất cả phương tiện thứ lớp và người tu hành có bao nhiêu hạng để cho Bồ-tát trong hội này và chúng sanh đời sau, người cầu Đại thừa mau được khai ngộ, dạo chơi trong biển đại tịch diệt Như Lai.
Thưa lời đây rồi, năm vóc gieo xuống đất, thưa hỏi như vậy lặp lại ba lần.
GIẢNG:
Oai Đức Tự Tại là biểu trưng nơi mình, Đức là chỉ cho bên trong sung túc, Oai là hiện tướng bên ngoài khiến người nể phục. Trong có đầy đủ diệu đức nên hiện ra ngoài có những oai phong khiến người khác phải nể phục. Ở chương này Bồ-tát Oai Đức Tự Tại tự đã biết pháp tu viên mãn rồi, nhưng vì thương chúng sanh đời sau căn cơ thấp kém không thể nghe pháp đốn giáo liền nhập dễ dàng mà cần phải có phương tiện thứ lớp mới tiến tu được, nên Ngài thị hiện đứng ra thưa hỏi để đức Phật chỉ rõ cho chúng sanh đời sau dễ tiến tu.
Ý của Bồ-tát Oai Đức Tự Tại hỏi rằng: Muốn thể nhập tánh Viên giác có bao nhiêu thứ phương tiện và thứ lớp như thế nào? Sau đó Ngài đưa ra một ví dụ là có một cái thành lớn ở ngoài có bốn cửa, người tùy theo mỗi phương mà vào, chẳng phải chỉ có một cửa một đường. Chẳng hạn như thành phố Sài Gòn, người ở miền Đông thì phải đi con đường từ miền Đông vào, người ở miền Tây thì phải đi con đường từ miền Tây vào, người ở miền Trung thì phải đi con đường từ miền Trung vào; mỗi người tùy theo chỗ của mình ở mà có những con đường vào khác nhau, chớ không phải cố định có một con đường vào thành phố. Cũng như thế, muốn vào biển Viên giác cũng có nhiều phương tiện để vào, bởi vì tất cả sự tu hành đều là phương tiện. Phương tiện nào đưa đến giác ngộ, phương tiện nào đưa đến giải thoát, đó là chủ yếu mà ngài Bồ-tát Oai Đức Tự Tại đứng ra thưa hỏi.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn cáo Oai Đức Tự Tại Bồ-tát ngôn:
- Thiện tai, thiện tai! Thiện nam tử, nhữ đẳng nãi năng vị chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh vấn ư Như Lai như thị phương tiện. Nhữ kim đế thính, đương vị nhữ thuyết.
Thời Oai Đức Tự Tại Bồ-tát phụng giáo hoan hỉ, cập chư đại chúng mặc nhiên nhi thính.
- Thiện nam tử, Vô thượng Diệu giác biến chư thập phương xuất sanh Như Lai dữ nhất thiết pháp đồng thể bình đẳng, ư chư tu hành thật vô hữu nhị phương tiện tùy thuận kỳ số vô lượng, viên nhiếp sở qui tuần tánh sai biệt đương hữu tam chủng.
DỊCH:
Khi ấy, đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Oai Đức Tự Tại rằng:
- Lành thay, lành thay! Này thiện nam, các ông hay vì các Bồ-tát và những chúng sanh đời sau, thưa hỏi Như Lai về những phương tiện như thế. Ông hãy lắng nghe ta sẽ vì các ông nói.
Khi ấy, Bồ-tát Oai Đức Tự Tại vâng lời dạy vui vẻ cùng đại chúng im lặng lắng nghe.
- Này thiện nam, tánh Viên giác vô thượng nhiệm mầu trùm khắp mười phương sanh ra Như Lai và tất cả pháp đồng thể bình đẳng, đối với sự tu hành thật không có hai, song phương tiện tùy thuận thì vô lượng, gom hết trở về theo tánh sai biệt, có ba thứ.
GIẢNG:
Đây Phật chỉ rõ đường tu hành để nhập tánh Viên giác vô thượng nhiệm mầu thì không có hai, nhưng căn cứ vào phương tiện tùy thuận thì có vô lượng không thể kể hết, đứng trên chỗ sai biệt tạm nói có ba là Chỉ, Quán và Thiền.
ÂM:
- Thiện nam tử! Nhược chư Bồ-tát, ngộ tịnh Viên giác, dĩ tịnh Giác tâm thủ tĩnh vi hạnh, do trừng chư niệm, giác thức phiền động, tĩnh tuệ phát sanh, thân tâm khách trần tùng thử vĩnh diệt. Tiện năng nội phát tịch tĩnh khinh an. Do tịch tĩnh cố thập phương thế giới chư Như Lai tâm ư trung hiển hiện, như kính trung tượng. Thử phương tiện giả danh Xa-ma-tha.
DỊCH:
- Này thiện nam, nếu Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, dùng Tâm giác thanh tịnh giữ cái lặng lẽ làm hạnh, rồi y đó lắng các vọng niệm và biết thức phiền động, thì trí tuệ lặng lẽ phát sanh, thân tâm khách trần từ đây diệt hết. Nội (tâm) liền phát ra lặng lẽ khinh an. Do vì lặng lẽ nên tâm của các đức Như Lai ở mười phương thế giới hiển hiện rõ trong đó, như bóng hiện trong gương. Phương tiện này gọi là Xa-ma-tha.
GIẢNG:
Xa-ma-tha (Sámatha) chữ Phạn, Trung Hoa dịch là Chỉ. Phương tiện đầu là tu Chỉ, phương tiện tu Chỉ trong kinh Viên Giác khác hơn phương tiện tu Chỉ Quán của tông Thiên Thai.
Phật dạy có ba giai đoạn:
1- Giác ngộ mình có tánh tịnh Viên giác, tức là Tánh giác sẵn tròn đầy bên trong.
2- Phải biết thức tâm hay thức tình này là phiền động.
3- Được cái tịch tĩnh khinh an nên tâm các đức Như Lai đều ở trong đó hiện bày.
Đầu tiên Phật nói rằng các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, nghĩa là ngộ được Pháp thân rồi thì dùng Tâm giác thanh tịnh giữ cái lặng lẽ làm hạnh, tức là lóng lặng hết các vọng niệm và biết thức dao động. Do tâm lặng lẽ nên trí tuệ sáng suốt thanh tịnh phát sanh. Khi trí tuệ thanh tịnh sáng suốt phát sanh thì những cái xao xuyến phiền động của thân tâm ngang đây bặt dứt. Bấy giờ nội tâm được tịch tĩnh khinh an. Do thân tâm tịch tĩnh khinh an nên tâm của tất cả chư Phật hiện rõ trong đó, giống như bóng hiện trong gương vậy. Tức là tâm của người tu thật lặng lẽ cho nên thấy hình ảnh mười phương chư Phật đều hiện. Phương pháp tu này gọi là Chỉ.
Chúng ta thấy điều kiện tiên quyết đức Phật nêu ra là trước phải ngộ được tánh tịnh Viên giác, điều kiện này không khác điều kiện các vị Thiền sư nêu ra. Đó là tu thiền trước phải kiến tánh, thường gọi là kiến tánh khởi tu. Cho nên phải nhận ra tánh bất sanh bất diệt, tánh bất sanh bất diệt đó gọi là tánh Viên giác. Nhận ra được rồi mới dùng các phương tiện dẹp các vọng trần, vọng tưởng. Nhưng lóng các niệm này, chúng ta đừng hiểu lầm, nhiều người nghe nói lóng hết các tâm niệm vọng tưởng xuống nên ngồi đè cố kềm nó lại, đó là bệnh của thiền, vì không biết cứ tưởng đè xuống đừng cho dấy lên, nhưng càng đè càng tai hại. Ở đây phải khéo hiểu như các Thiền sư dạy, tức biết vọng không theo. Cho nên trừng tâm là dừng nó lại.
Chúng ta tu thì có khi dùng Chỉ, có khi dùng Quán. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ nói Chỉ và Quán đồng thời, Chỉ là định và Quán là tuệ, hai cái không rời nhau. Ngay khi vọng tưởng khởi chúng ta biết và buông, đó là có Chỉ và Quán; biết vọng tưởng là Quán, buông không theo và vọng tưởng lặng xuống là Chỉ, ấy là định tuệ đồng tu chớ không chia ra hai thứ. Chia ra hai thứ là khi nào luôn luôn dùng một cách. Như khi ngồi thiền, dùng phương tiện buộc tâm, vọng tưởng không dấy lên, tâm lặng lẽ, đó gọi là Chỉ. Còn nếu dùng trí xét tới xét lui thấy thân này do tứ đại hòa hợp, rồi sẽ rã tan, gọi là Quán. Đây chúng ta nói có tính cách chia chẻ, chớ thật ra trong Chỉ đã có Quán, trong Quán đã có Chỉ, pháp tu này Lục Tổ gọi là định tuệ bình đẳng. Còn Chỉ Quán của tông Thiên Thai dạy tu về Sổ tức (đếm hơi thở), rồi qua Tùy tức (theo hơi thở), rồi Chỉ (dừng tâm ở mũi) để thấy hơi thở ra vô, hoặc dùng đề mục để trụ tâm một chỗ ấy là Chỉ. Quán là ứng dụng pháp quán chiếu.
Đoạn kinh này nói cảnh giới của hàng Bồ-tát vượt quá pháp Chỉ Quán thường của chúng ta, cho nên nghe hơi khó hiểu.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhược chư Bồ-tát ngộ tịnh Viên giác, dĩ tịnh Giác tâm tri giác tâm tánh cập dữ căn trần giai nhân huyễn hóa, tức khởi chư huyễn, dĩ trừ huyễn giả, biến hóa chư huyễn nhi khai huyễn chúng. Do khởi huyễn cố, tiện năng nội phát đại bi khinh an. Nhất thiết Bồ-tát tùng thử khởi hạnh, tiệm thứ tăng tiến. Bỉ quán huyễn giả phi đồng huyễn cố phi đồng huyễn quán, giai thị huyễn cố, huyễn tướng vĩnh ly. Thị chư Bồ-tát sở viên diệu hạnh, như thổ trưởng miêu. Thử phương tiện giả danh Tam-ma-bát-đề.
DỊCH:
- Này thiện nam tử, nếu các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, dùng Giác tâm thanh tịnh nhận biết tâm tánh cùng với căn trần đều là huyễn hóa, liền khởi trí huyễn để trừ pháp huyễn, biến hiện các hạnh huyễn mà khai hóa chúng sanh như huyễn. Do khởi pháp quán huyễn nên nội tâm phát đại bi khinh an. Tất cả Bồ-tát từ đây khởi hạnh tu Quán, dần dần tăng tiến. Người quán huyễn không đồng với cảnh huyễn, không đồng với pháp quán huyễn, vì đều là huyễn nên tướng huyễn hằng lìa. Các vị Bồ-tát này ở nơi hạnh viên diệu như đất làm cho mầm được tăng trưởng, phương tiện ấy gọi là Tam-ma-bát-đề (Quán).
GIẢNG:
Tam-ma-bát-đề (Samapatti) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Quán. Đoạn này nói các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, nhận biết được Giác tâm căn trần đều là huyễn hóa. Nghĩa là biết rõ nơi thân này và bao nhiêu ý thức vọng tưởng đều huyễn hóa, cho tới ngoại cảnh chúng sanh cũng đều là tướng huyễn hóa. Khi ấy mới khởi trí huyễn để trừ huyễn, tức là niệm nào khởi lên cũng biết nó là huyễn liền buông. Bồ-tát có hai cách, một là khởi quán để trừ bệnh của chính mình, hai là khi thuần thục rồi lại dùng phương tiện huyễn hóa để giáo hóa chúng sanh. Phương tiện mình giáo hóa là huyễn thì chúng sanh được giáo hóa cũng là huyễn. Đó là cái quán của Bồ-tát.
Do khởi trí huyễn cho nên phát lòng đại bi khinh an. Tại sao khởi trí huyễn mà lại có tâm đại bi? Khi thấy rõ ràng thân này là huyễn, cảnh là huyễn, Tâm giác tri khởi quán cũng là huyễn và khi chúng ta nhìn thấy người khác cho thân cảnh là thật, thì tự nhiên thấy thương, lòng thương nhẹ nhàng trong sạch khác với lòng luyến ái tham dục cho nên gọi là đại bi khinh an.
Khi Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, các ngài mới y nơi tánh Viên giác quán các pháp căn, trần, thức là huyễn hóa không thật. Bấy giờ Bồ-tát khởi trí như huyễn để diệt vô minh phiền não như huyễn, tu các hạnh như huyễn, giáo hóa chúng sanh như huyễn. Khi các cảnh huyễn đã không, trí quán huyễn cũng hết, tức là tâm cảnh hay năng sở không còn, hằng xa lìa các tướng huyễn hóa thì tánh Viên giác chân thật (phi huyễn) của Bồ-tát hiện ra. Chẳng khác nào đất nuôi lớn mầm cây vậy. Như hạt giống ương dưới đất, nhờ đất mà nẩy mầm, nhờ đất mà mầm tăng trưởng chớ không lui sụt, phương tiện này gọi là Quán.
ÂM:
- Thiện nam tử, nhược chư Bồ-tát ngộ tịnh Viên giác, dĩ tịnh Giác tâm bất thủ huyễn hóa cập chư tĩnh tướng. Liễu tri thân tâm giai vi quái ngại vô tri giác minh bất y chư ngại vĩnh đắc siêu quá ngại vô ngại cảnh. Thọ dụng thế giới cập dữ thân tâm, tướng tại trần vực, như khí trung hoàng thanh xuất vu ngoại, phiền não Niết-bàn bất tương lưu ngại. Tiện năng nội phát tịch diệt khinh an diệu giác tùy thuận tịch diệt cảnh giới, tự tha thân tâm sở bất năng cập, chúng sanh thọ mạng giai vi phù tưởng. Thử phương tiện giả danh vi Thiền-na.
DỊCH:
- Này thiện nam, nếu các vị Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh, dùng Giác tâm thanh tịnh không thủ pháp quán huyễn và tướng lặng lẽ. Rõ biết thân tâm đều là vật ngăn ngại, còn cái vô tri giác minh thì không bị các pháp làm chướng ngại, hằng siêu vượt các pháp chướng ngại và không chướng ngại. Thọ dụng các tướng thế giới và thân tâm ở cõi trần này, cũng như âm thanh từ đồ vật thoát ra ngoài, phiền não Niết-bàn chẳng lưu ngại nhau, nội tâm liền được lặng lẽ khinh an, diệu giác tùy thuận cảnh giới tịch diệt tự tha, thân tâm không còn có thể kịp nữa. Chúng sanh, thọ mạng đều là cái tưởng phù hư. Phương tiện tu này gọi là Thiền-na.
GIẢNG:
Thiền-na (Dhyàna) là tiếng Phạn, thường nói là Thiền, cũng dịch là Tĩnh lự. Đoạn này Phật dạy, Bồ-tát ngộ được tánh Viên giác thanh tịnh rồi, y nơi tánh Viên giác thanh tịnh mà tu, không chấp giữ pháp Chỉ và pháp Quán, thấy rõ thân tâm này là vật ngăn ngại, chỉ có “vô tri giác minh” không bị các pháp làm chướng ngại, vì vô tri giác minh hằng vượt trên các pháp tương đối chướng ngại và không chướng ngại… Vô tri giác minh trong kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi là Vô phân biệt trí tức là cái trí biết không phân biệt. Ở đây vô tri là không phân biệt, giác minh là hằng giác hằng sáng. Thông thường chúng ta nhìn cành hoa liền phân biệt cành hoa đẹp xấu, biết như vậy là thức chớ không phải trí. Còn nếu nói theo tinh thần vô tri giác minh của kinh này, hay Vô phân biệt trí của kinh Lăng Nghiêm, thì thấy cành hoa biết cành hoa chớ không phân biệt cành hoa đẹp hoặc xấu rồi khen chê… không phân biệt gọi là vô tri, biết rõ cành hoa màu gì, loại hoa gì, đó là giác minh. Cái vô tri giác minh là cái biết sáng suốt không phân biệt, không bị các pháp thế gian làm chướng ngại, vì nó vượt trên tất cả pháp tương đối của thế gian. Trong kinh, Phật dùng thí dụ “khí trung hoàng”, ngày trước các Hòa thượng giảng đoạn này hay dùng thí dụ ở quê có cây đàn kìm, trong có để miếng thiếc hay miếng đồng khua loong boong. Miếng đó ở trong lòng cái bọng, tiếng khua của nó vang ra ngoài. Ở đây cũng vậy, chúng ta biết thân là ngại, tâm là ngại khi đang ở trong cảnh trần chúng ta vẫn vượt ra ngoài không có chướng ngại. Thế nên Phật nói thân tâm của hành giả vẫn ở tại cõi trần mà không bị phiền não trần lao làm ngăn ngại, cũng không bị kẹt trong cảnh giới Niết-bàn tịch tịnh. Vô tri giác minh đối với thân tâm của hành giả ở trong cõi trần này giống như âm thanh của vật thoát ra khỏi vật vậy. Thân tâm không còn có thể kịp nữa vì thân tâm là phù hư, không có thật, còn Trí vô phân biệt thì trùm khắp. Đây là cảnh giới của những vị Bồ-tát đã ngộ tánh Viên giác tu đến chỗ tịch diệt khinh an, có cái công dụng thân tâm ở cõi này mà không bị kẹt bị vướng.
Tóm lại phải nhận ngay nơi mình có Tánh giác, Tánh giác đó đối với thân này, ý niệm vọng tưởng này, cảnh giới hiện giờ này đều không chướng ngại được nó. Lúc đó thân tâm này cũng như bọt nổi không có gì quan trọng. Nhận được như vậy và sống mãi chỗ đó, được lặng lẽ khinh an thì đó là cảnh giới Thiền-na.
ÂM:
- Thiện nam tử, thử tam pháp môn giai thị Viên giác thân cận tùy thuận. Thập phương Như Lai nhân thử thành Phật. Thập phương Bồ-tát chủng chủng phương tiện nhất thiết đồng dị giai y như thị tam chủng sự nghiệp, nhược đắc viên chứng tức thành Viên giác.
DỊCH:
- Này thiện nam, ba pháp môn này đều là thân cận tùy thuận tánh Viên giác. Mười phương Như Lai nhân đây mà thành Phật. Mười phương Bồ-tát tu mọi phương tiện đồng hay khác, đều y ba sự nghiệp này, nếu được viên chứng tức thành Viên giác.
GIẢNG:
Phật kết thúc ba pháp môn Chỉ, Quán và Thiền là phương tiện chung cho tất cả người tu hành. Phật và Bồ-tát cũng y nơi đây mà tu. Căn cứ trên sự chứng ngộ thì Phật khác, Bồ-tát khác, nhưng phương tiện tiến tu thì đồng. Các ngài đều y theo ba pháp tu này mà được thành tựu đạo quả.
ÂM:
- Thiện nam tử, giả sử hữu nhân tu ư Thánh đạo, giáo hóa thành tựu bá thiên vạn ức A-la-hán, Bích-chi Phật quả, bất như hữu nhân văn thử Viên giác vô ngại pháp môn, nhất sát-na khoảnh tùy thuận tu tập.
DỊCH:
- Này thiện nam, giả sử có người tu theo Thánh đạo, giáo hóa trăm ngàn muôn ức người thành tựu quả A-la-hán, Bích-chi Phật, không bằng người chỉ nghe pháp môn Viên giác vô ngại này trong khoảng sát-na mà tùy thuận tu tập.
GIẢNG:
Phật ca ngợi pháp môn Viên giác, giả sử có người giáo hóa một trăm, một ngàn, hay trăm ngàn vị chứng A-la-hán và Bích-chi Phật, công đức không bằng người nghe pháp môn Viên giác này chỉ trong khoảng chốc lát mà tùy thuận tu tập. Tại sao vậy? Vì nếu dạy người tu chứng quả A-la-hán hay là chứng quả Duyên giác Bích-chi, chỉ phá được sự chướng mà chưa phá được lý chướng. Còn người nghe pháp môn này thâm nhập tu được thì vượt cả sự và lý chướng cho nên quí hơn.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa nhi thuyết kệ ngôn:
- Oai Đức nhữ đương tri
Vô thượng đại giác tâm
Bản tế vô nhị tướng
Tùy thuận chư phương tiện
Kỳ số tức vô lượng
Như Lai tổng khai thị
Tiện hữu tam chủng loại
Tịch tĩnh Xa-ma-tha
Như kính chiếu chư tượng
Như huyễn Tam-ma-đề
Như miêu tiệm tăng trưởng
Thiền-na duy tịch diệt
Như bỉ khí trung hoàng
Tam chủng diệu pháp môn
Giai thị giác tùy thuận
Thập phương chư Như Lai
Cập chư đại Bồ-tát
Nhân thử đắc thành đạo
Tam sự viên chứng cố
Danh cứu kính Niết-bàn.

DỊCH:
Khi ấy, Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa trên, nói kệ rằng:
- Oai Đức ông nên biết
Tâm đại giác vô thượng
Bản tế không hai tướng
Tùy thuận các phương tiện
Số có đến vô lượng
Như Lai tổng khai thị
Gồm có ba chủng loại
Xa-ma-tha vắng lặng
Như gương chiếu các bóng
Tam-ma-đề như huyễn
Như mầm dần tăng trưởng
Thiền-na chỉ lặng dứt
Như tiếng trong đồ vật
Ba thứ diệu pháp môn
Đều là tùy thuận giác
Mười phương chư Như Lai
Và các vị Bồ-tát
Nhân đây được thành đạo
Ba việc đều viên chứng
Gọi cứu kính Niết-bàn.

GIẢNG:
Tóm lại, ba pháp môn Chỉ, Quán và Thiền là pháp tu căn bản của chư Phật. Phương tiện đưa đến quả vị Phật và Bồ-tát mà các ngài ứng dụng tu, không ngoài ba pháp môn Chỉ, Quán và Thiền. Chúng ta bây giờ lại phân chia nhiều thứ. Niệm Phật, đúng ra là tu Chỉ vì dùng một niệm để dừng nhiều niệm. Nhưng vì không hiểu nên nói niệm Phật là tu Tịnh độ khác hơn tu Thiền. Thật ra các pháp môn Phật dạy tu đều nhằm dừng vọng tưởng là Chỉ, còn thấy thân như huyễn cảnh như huyễn là Quán; người tu biết rõ ý niệm là vọng tưởng không theo, biết rõ cảnh như huyễn không dính, tâm thanh tịnh đó là Thiền. Như vậy, Thiền trùm cả Chỉ và Quán. Tuy ba mà một, tu theo Phật chỉ có con đường này, chớ không có con đường nào khác hơn. Đó là lối đi chung của chư Phật và Bồ-tát. Nếu chúng ta cố chấp, khen pháp môn này đúng, chê pháp môn kia sai, khen chê hay dở là lầm chấp. Phật chỉ cho chúng ta tu rất đơn giản, dừng hết vọng tưởng là Chỉ, thấy rõ thân tâm cảnh giới như huyễn hóa là Quán, trong buông vọng tưởng ngoài không dính cảnh là Thiền, tức là trở về Tánh giác.
Đường lối tu ở đây cũng vậy, tôi khuyên quí vị buông vọng tưởng là Chỉ, thấy thân như huyễn, cảnh như huyễn là Quán, như vậy luôn luôn ứng dụng Chỉ Quán và Chỉ Quán viên mãn là Thiền. Đó là phương tiện căn bản mà chư Phật chư Bồ-tát đã tu. Chúng sanh đời sau ai muốn tu thì cũng ứng dụng theo phương tiện này mới mong khỏi lầm lạc.

CHƯƠNG VIII
BỒ-TÁT BIỆN ÂM THƯA HỎI
ÂM:
Ư thị Biện Âm Bồ-tát tại đại chúng trung, tức tùng tòa khởi, đảnh lễ Phật túc, hữu nhiễu tam táp trường quì xoa thủ nhi bạch Phật ngôn:
- Đại bi Thế Tôn như thị pháp môn thậm vi hi hữu. Thế Tôn thử chư phương tiện nhất thiết Bồ-tát ư Viên giác môn hữu kỉ tu tập. Nguyện vị đại chúng cập mạt thế chúng sanh phương tiện khai thị linh ngộ thật tướng.
Tác thị ngữ dĩ ngũ thể đầu địa, như thị tam thỉnh chung nhi phục thủy.
DỊCH:
Khi ấy Bồ-tát Biện Âm ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, đi nhiễu bên phải ba vòng, quì gối chấp tay bạch Phật rằng:
- Đức Thế Tôn đại bi, pháp môn như vậy thật là ít có. Bạch Thế Tôn, các phương tiện này, tất cả Bồ-tát đối với môn Viên giác có bao nhiêu pháp tu tập? Xin vì đại chúng và chúng sanh đời sau phương tiện chỉ bày, khiến cho ngộ được Thật tướng.
Thưa lời đây rồi năm vóc gieo xuống đất, thưa thỉnh như vậy lặp lại ba lần.
GIẢNG:
Chương này Bồ-tát Biện Âm đứng ra thưa hỏi. Biện là biện biệt rành rẽ, Âm là tiếng, tức là phân biệt rành rẽ âm thanh. Theo nghĩa ở đây là ý nghĩa chia chẻ tỉ mỉ để người sau tùy căn cơ trình độ ai hợp pháp nào dùng pháp đó mà tu.
Ở trước ngài Oai Đức Tự Tại thưa hỏi Phật về phương tiện tu hành, Phật chỉ ba pháp môn là phương tiện. Ở đây Bồ-tát Biện Âm nêu lên câu hỏi như Phật dạy ở trước, pháp môn đó rất là ít có tức là pháp môn Chỉ, Quán, Thiền, với ba phương tiện đó muốn bước vào cửa Viên giác thì có bao nhiêu pháp tu tập, xin Phật chỉ dạy chi tiết rõ ràng.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn cáo Biện Âm Bồ-tát ngôn:
- Thiện tai, thiện tai! Thiện nam tử, nhữ đẳng nãi năng vị chư đại chúng cập mạt thế chúng sanh, vấn ư Như Lai như thị tu tập. Nhữ kim đế thính đương vị nhữ thuyết.
Thời Biện Âm Bồ-tát phụng giáo hoan hỉ cập chư đại chúng mặc nhiên nhi thính.
- Thiện nam tử, nhất thiết Như Lai Viên giác thanh tịnh, bản vô tu tập cập tu tập giả. Nhất thiết Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh, y ư vị giác, huyễn lực tu tập. Nhĩ thời tiện hữu nhị thập ngũ chủng thanh tịnh định luân.
DỊCH:
Lúc đó, đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Biện Âm rằng:
- Lành thay, lành thay! Này thiện nam, các ông vì đại chúng và chúng sanh đời sau thưa hỏi Như Lai về sự tu tập. Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông nói.
Khi ấy Bồ-tát Biện Âm vâng lời dạy vui vẻ cùng đại chúng yên lặng lắng nghe.
- Này thiện nam, tất cả Viên giác thanh tịnh Như Lai vốn không tu tập và người tu tập. Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời sau y nơi chưa giác dùng sức huyễn mà tu tập. Khi ấy mới có hai mươi lăm thứ thanh tịnh định luân.
GIẢNG:
Trước khi dạy các phương tiện khác, đức Phật lặp lại chủ yếu là tánh Viên giác không có pháp để tu tập và người tu tập, vì nguyên nó là cái thể không sanh diệt nên không do tu tập mà được, tánh Viên giác chính là mình cho nên nói không có người tu tập. Tất cả Bồ-tát và chúng sanh đời sau y nơi chưa giác dùng sức huyễn mà tu tập. Khi ấy mới có hai mươi lăm thứ thanh tịnh định luân.
Hai mươi lăm thứ thanh tịnh định luân là những pháp tu Chỉ, Quán và Thiền hoặc là đơn hoặc là ghép: tu Chỉ hay tu Quán riêng từng môn gọi là đơn, tu một lượt hai môn hoặc ba môn gọi là ghép, đổi tới đổi lui thành ra hai mươi lăm luân. Nhưng thật ra chỉ có ba môn căn bản là Chỉ, Quán và Thiền.
ÂM:
- Nhược chư Bồ-tát duy thủ cực tĩnh, do tĩnh lực cố vĩnh đoạn phiền não, cứu kính thành tựu, bất khởi ư tòa, tiện nhập Niết-bàn. Thử Bồ-tát giả, danh đơn tu Xa-ma-tha.
DỊCH:
- Nếu chư Bồ-tát chỉ giữ tâm vắng lặng do sức vắng lặng mà đoạn các phiền não, thành tựu rốt ráo, không rời khỏi chỗ ngồi liền vào Niết-bàn. Vị Bồ-tát này gọi là riêng tu pháp Chỉ.
GIẢNG:
Bồ-tát hằng giữ tâm ở trạng thái thật tịch tĩnh, nên phiền não không sanh khởi, nhờ thế mà được thành tựu đạo quả rốt ráo, lúc đó ở ngay chỗ ngồi mà vào Niết-bàn. Vị Bồ-tát này riêng tu pháp Chỉ.
ÂM:
- Nhược chư Bồ-tát duy quán như huyễn, dĩ Phật lực cố biến hóa thế giới chủng chủng tác dụng, bị hành Bồ-tát thanh tịnh diệu hạnh, ư Đà-la-ni bất thất tịch niệm cập chư tĩnh tuệ. Thử Bồ-tát giả, danh đơn tu Tam-ma-bát-đề.
DỊCH:
- Nếu Bồ-tát chỉ tu pháp quán như huyễn, dùng Phật lực biến hóa ra thế giới, khởi các diệu dụng, thực hành đầy đủ công hạnh thanh tịnh của Bồ-tát, đối với Đà-la-ni không mất niệm tịch tĩnh và tuệ lặng lẽ. Vị Bồ-tát này gọi là riêng tu pháp Quán.
GIẢNG:
Bồ-tát khi dụng quán là y theo lời Phật dạy trong kinh để vận dụng tâm quán, tùy bệnh mà chiếu phá nên nói rằng có các thứ biến hóa, các thứ tác dụng. Nghĩa là do sức Phật chỉ dạy rồi nương theo đó quán chiếu. Thí dụ áp dụng quán bằng trí Bát-nhã thì tùy quán riêng từng uẩn hoặc quán chung năm uẩn, quán một trần hoặc quán sáu trần… có khi chung lại có khi chia ra biến hóa vô cùng. Bởi do khéo chuyển biến tu hành, lần lần diệu hạnh thanh tịnh của Bồ-tát được đầy đủ. Đầy đủ rồi tổng nhiếp tất cả. Như vậy Bồ-tát này chuyên quán huyễn, nương nhờ sức biến hóa của chư Phật ứng dụng trong sự tu hành, thấy rõ các pháp như huyễn cho nên không mất niệm tịch tĩnh. Đà-la-ni là tổng trì, nghĩa là đối với các pháp đều thấy nó như huyễn, do đó có tuệ, được lặng lẽ, nên nói Bồ-tát này riêng tu pháp Quán.
ÂM:
- Nhược chư Bồ-tát duy diệt chư huyễn bất thủ tác dụng, độc đoạn phiền não, phiền não đoạn tận, tiện chứng thật tướng. Thử Bồ-tát giả danh đơn tu Thiền-na.
DỊCH:
- Nếu Bồ-tát chỉ diệt các pháp huyễn mà không chấp thủ tác dụng, riêng đoạn phiền não, phiền não đoạn hết liền chứng được Thật tướng. Vị Bồ-tát này gọi là riêng tu pháp Thiền-na.
GIẢNG:
Bồ-tát chuyên tu đoạn diệt các tướng huyễn hóa, và không chấp thủ pháp tu, chỉ một bề lo đoạn trừ phiền não. Bởi vì các tướng thân tâm và ngoại cảnh đều là huyễn hóa cho nên không mắc kẹt. Đây là dùng trí thấy rõ nó là hư dối nên không kẹt, không cần quán hay chỉ. Khi phiền não sạch rồi thì chứng được Tướng chân thật nên gọi Bồ-tát này riêng tu pháp Thiền-na.
ÂM:
- Nhược chư Bồ-tát tiên thủ chí tĩnh, dĩ tĩnh tuệ tâm chiếu chư huyễn giả, tiện ư thị trung khởi Bồ-tát hạnh. Thử Bồ-tát giả danh tiên tu Xa-ma-tha, hậu tu Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tĩnh tuệ cố, chứng chí tĩnh tánh, tiện đoạn phiền não, vĩnh xuất sanh tử. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Xa-ma-tha, hậu tu Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch tĩnh tuệ phục hiện huyễn lực chủng chủng biến hóa độ chư chúng sanh, hậu đoạn phiền não nhi nhập tịch diệt. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Xa-ma-tha trung tu Tam-ma-bát-đề, hậu tu Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ chí tĩnh lực, đoạn phiền não dĩ, hậu khởi Bồ-tát thanh tịnh diệu hạnh độ chư chúng sanh. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Xa-ma-tha, trung tu Thiền-na, hậu tu Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ chí tĩnh lực, tâm đoạn phiền não, phục độ chúng sanh kiến lập thế giới. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Xa-ma-tha, tề tu Tam-ma-bát-đề Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ chí tĩnh lực tư phát biến hóa, hậu đoạn phiền não. Thử Bồ-tát giả, danh tề tu Xa-ma-tha Tam-ma-bát-đề, hậu tu Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ chí tĩnh lực dụng tư tịch diệt, hậu khởi tác dụng, biến hóa thế giới. Thử Bồ-tát giả danh tề tu Xa-ma-tha Thiền-na, hậu tu Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực, chủng chủng tùy thuận nhi thủ chí tĩnh. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Tam-ma-bát-đề, hậu tu Xa-ma-tha.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực, chủng chủng cảnh giới nhi thủ tịch diệt. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Tam-ma-bát-đề, hậu tu Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực nhi tác Phật sự an trụ tịch tĩnh, nhi đoạn phiền não. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Tam-ma-bát-đề, trung tu Xa-ma-tha, hậu tu Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực vô ngại tác dụng, đoạn phiền não cố, an trụ chí tĩnh. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Tam-ma-bát-đề, trung tu Thiền-na, hậu tu Xa-ma-tha.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực phương tiện tác dụng, chí tĩnh tịch diệt nhị câu tùy thuận. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Tam-ma-bát-đề, tề tu Xa-ma-tha Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực, chủng chủng khởi dụng tư ư chí tĩnh, hậu đoạn phiền não. Thử Bồ-tát giả, danh tề tu Tam-ma-bát-đề Xa-ma-tha, hậu tu Thiền-na.
Nhược chư Bồ-tát dĩ biến hóa lực tư ư tịch diệt, hậu trụ thanh tịnh vô tác tĩnh lự. Thử Bồ-tát giả, danh tề tu Tam-ma-bát-đề Thiền-na, hậu tu Xa-ma-tha.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực nhi khởi chí tĩnh trụ ư thanh tịnh. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Thiền-na, hậu tu Xa-ma-tha.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực nhi khởi tác dụng ư nhất thiết cảnh tịch dụng tùy thuận. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Thiền-na, hậu tu Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực chủng chủng Tự tánh an ư tĩnh lự nhi khởi biến hóa. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Thiền-na, trung tu Xa-ma-tha, hậu tu Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực vô tác tự tánh khởi ư tác dụng thanh tịnh cảnh giới qui ư tĩnh lự. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Thiền-na, trung tu Tam-ma-bát-đề, hậu tu Xa-ma-tha.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực chủng chủng thanh tịnh nhi trụ tĩnh lự, khởi ư biến hóa. Thử Bồ-tát giả, danh tiên tu Thiền-na, tề tu Xa-ma-tha Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực, tư ư chí tĩnh nhi khởi biến hóa. Thử Bồ-tát giả, danh tề tu Thiền-na Xa-ma-tha, hậu tu Tam-ma-bát-đề.
Nhược chư Bồ-tát dĩ tịch diệt lực tư ư biến hóa nhi khởi chí tĩnh thanh minh cảnh tuệ. Thử Bồ-tát giả, danh tề tu Thiền-na Tam-ma-bát-đề, hậu tu Xa-ma-tha.
Nhược chư Bồ-tát dĩ Viên giác tuệ, viên hợp nhất thiết ư chư tánh tướng vô ly Giác tánh. Thử Bồ-tát giả, danh vi viên tu tam chủng Tự tánh thanh tịnh tùy thuận.
Thiện nam tử, thị danh Bồ-tát nhị thập ngũ luân. Nhất thiết Bồ-tát tu hạnh như thị. Nhược chư Bồ-tát cập mạt thế chúng sanh, y thử luân giả đương trì phạm hạnh tịch tĩnh tư duy cầu ai sám hối, kinh tam thất nhật, ư nhị thập ngũ luân, các an tiêu ký, chí tâm cầu ai tùy thủ kết thủ, y kết khai thị tiện tri đốn tiệm. Nhất niệm nghi hối tức bất thành tựu.
DỊCH:
- Nếu chư Bồ-tát trước giữ tâm thật lặng lẽ, do tâm lặng lẽ nên trí tuệ chiếu soi các pháp như huyễn, liền khởi hạnh Bồ-tát. Gọi vị Bồ-tát này trước tu Chỉ sau tu Quán.
Nếu Bồ-tát dùng trí tuệ yên tĩnh, chứng được Thể tánh thật lặng lẽ, liền đoạn các phiền não, thoát khỏi sanh tử. Gọi vị Bồ-tát này trước tu Chỉ sau tu Thiền.
Nếu Bồ-tát dùng trí tuệ lặng lẽ lại hiện ra mọi sức biến hóa độ chúng sanh, sau mới đoạn phiền não, rồi vào chỗ tịch diệt. Gọi Bồ-tát này trước tu Chỉ, giữa tu Quán sau tu Thiền.
Nếu các vị Bồ-tát dùng sức thật lặng lẽ đoạn các phiền não, sau khởi các diệu hạnh thanh tịnh để độ chúng sanh. Gọi Bồ-tát này trước tu Chỉ, giữa tu Thiền, sau tu Quán.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức thật lặng lẽ tâm đoạn phiền não, sau lại dựng lập thế giới độ chúng sanh. Gọi Bồ-tát này trước tu Chỉ đồng thời tu Quán và Thiền.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức thật lặng lẽ giúp phát khởi biến hóa, sau đoạn phiền não. Gọi vị Bồ-tát này đồng tu Chỉ và Quán, sau mới tu Thiền.
Nếu những vị Bồ-tát dùng lực dụng thật lặng lẽ để giúp cho sự tịch diệt, sau khởi ra tác dụng, biến hóa thế giới. Gọi Bồ-tát này đồng thời tu Chỉ và Thiền, sau mới tu Quán.
Nếu các vị Bồ-tát dùng sức biến hóa ra các thứ tùy thuận chúng sanh mà vẫn giữ (tâm) thật lặng lẽ. Gọi Bồ-tát này trước tu Quán, sau tu Chỉ.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức biến hóa các thứ cảnh giới mà vẫn giữ tịch diệt. Gọi Bồ-tát này trước tu Quán, sau tu Thiền.
Nếu các vị Bồ-tát dùng sức biến hóa làm các Phật sự, an trụ trong lặng lẽ mà đoạn phiền não. Gọi Bồ-tát này trước tu Quán, giữa tu Chỉ và sau tu Thiền.
Nếu các vị Bồ-tát dùng sức biến hóa làm các việc vô ngại, đoạn các phiền não rồi an trụ chỗ thật lặng lẽ. Gọi Bồ-tát này trước tu Quán, giữa tu Thiền và sau tu Chỉ.
Nếu các vị Bồ-tát dùng sức biến hóa làm các phương tiện tác dụng rất lặng lẽ tịch diệt, cả hai đều tùy thuận. Gọi Bồ-tát này trước tu Quán, đồng thời tu Chỉ và Thiền.
Nếu những Bồ-tát dùng sức biến hóa khởi các công dụng giúp cho tâm thật lặng lẽ, sau mới đoạn phiền não. Gọi Bồ-tát này đồng tu Quán và Chỉ, sau mới tu Thiền.
Nếu các Bồ-tát dùng sức biến hóa giúp cho tịch diệt, rồi sau trụ chỗ thanh tịnh mà không khởi tĩnh lự. Gọi Bồ-tát này đồng tu Quán và Thiền, sau mới tu Chỉ.
Nếu các vị Bồ-tát dùng sức tịch diệt mà khởi hạnh thật lặng lẽ, rồi an trụ nơi thanh tịnh. Gọi Bồ-tát này trước tu Thiền, sau mới tu Chỉ.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức tịch diệt mà khởi tác dụng, ở trong tất cả cảnh lặng lẽ khởi dụng tùy thuận. Gọi Bồ-tát này trước tu Thiền, sau mới tu Quán.
Nếu các Bồ-tát dùng sức thật lặng lẽ, các thứ Tự tánh, an trụ nơi tĩnh lự mà khởi pháp biến hóa. Gọi Bồ-tát này trước tu Thiền, giữa tu Chỉ, rồi sau mới tu Quán.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức tịch diệt của Tự tánh vô tác, ở cảnh giới thanh tịnh khởi tác dụng, rồi trở về chỗ tĩnh lự. Gọi Bồ-tát này trước tu Thiền, giữa tu Quán, sau mới tu Chỉ.
Nếu những vị Bồ-tát dùng các thứ thanh tịnh của sức tịch diệt mà trụ ở chỗ tĩnh lự, rồi khởi biến hóa. Gọi Bồ-tát này trước tu Thiền đồng thời tu Chỉ và Quán.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức tịch diệt giúp cho thật lặng lẽ rồi khởi biến hóa. Gọi Bồ-tát này đồng thời tu Thiền và Chỉ, sau đó mới tu Quán.
Nếu những vị Bồ-tát dùng sức tịch diệt giúp cho biến hóa mà khởi trí tuệ lặng lẽ trong sáng. Gọi Bồ-tát này đồng thời tu Thiền và Quán, sau đó tu Chỉ.
Nếu các vị Bồ-tát dùng tuệ Viên giác, viên hợp tất cả nơi các tánh tướng không lìa Tánh giác. Gọi Bồ-tát này viên tu ba thứ Tự tánh thanh tịnh tùy thuận.
Này thiện nam, như thế gọi là hai mươi lăm luân của Bồ-tát. Tất cả Bồ-tát nên như thế mà tu hành. Nếu các Bồ-tát và chúng sanh đời sau y theo những luân ấy, gìn giữ phạm hạnh, lặng lẽ tư duy thành tâm sám hối, trải qua hai mươi mốt ngày, nơi hai mươi lăm luân này, mỗi cái ghi ra để trên bàn chí tâm nguyện cầu, rồi tay bốc lên một cái, tùy theo cái đó mở ra, liền biết (căn cơ) mình thuộc đốn hay tiệm. Nếu còn một niệm nghi hối thì chẳng thành tựu.
GIẢNG:
Tất cả chúng ta muốn được giác ngộ giải thoát, không tu pháp nào khác hơn là ba môn Chỉ, Quán và Thiền. Đó là ba pháp tu then chốt. Tùy theo căn cơ sai biệt của mỗi người mà ứng dụng, người thì ứng dụng Quán trước, người thì ứng dụng Chỉ trước, người thì ứng dụng Thiền trước. Tùy theo khả năng và để thích nghi với hoàn cảnh của mình, mà linh động ứng dụng ba pháp tu ấy trước hay sau.
Như có người tu Chỉ muốn được lặng lẽ thôi, nên không quán, lại có người thấy lặng lẽ buồn, quán các pháp như huyễn vui hơn. Do đó nên đức Phật mới chia ra hai mươi lăm luân này. Chúng ta tu ứng dụng Chỉ hay Quán đều tốt, miễn tâm chúng ta an định là được rồi. Chớ không nói buông hết niệm là đúng hay Quán mới đúng. Ví dụ tâm chúng ta vừa dấy niệm nhớ người nhớ cảnh, chúng ta liền buông không theo thì vọng niệm tự lặng mất tạm gọi là Chỉ. Nhưng lại có người không chịu tu như vậy, họ nói kinh Bát-nhã Phật dạy quán chiếu ngũ uẩn không thật, sáu trần huyễn hóa, nên đi đâu lúc nào cũng quán như vậy. Do quán như thế, nên không dính mắc với cảnh, tâm tự an định. Người buông vọng niệm thì tâm cũng an định, người quán các pháp như huyễn tâm cũng an định. Dù Chỉ, Quán hay Thiền mà tâm yên lặng thanh tịnh là được. Vì tu phải dứt hết vọng niệm thì Thể chân thật mới hiện tiền. Tuy tu ba môn nhưng trở về có một chỗ là lặng vọng tưởng và Tánh giác hiện tiền. Nhưng vì căn cơ của mỗi người khác nhau, nên Phật mới phân chia ra cho dễ thích ứng.
Có người tu Chỉ cứ đăm đăm nhìn xuống để buông vọng tưởng nên mặt buồn xo, bèn đổi sang Quán nhìn mây nhìn trời thấy tất cả đều là huyễn hóa cười chơi cho vui. Như vậy là trước tu Chỉ sau tu Quán, quán một thời gian vọng tưởng hết, đến chỗ tịch diệt đó là Thiền.
Tùy căn cơ ứng dụng hoặc chuyên tu một pháp tới nơi tới chốn, hoặc gồm cả hai pháp hoặc kiêm luôn ba pháp; hoặc tu pháp này trước pháp kia sau, hay pháp kia trước pháp này sau, đổi tới đổi lui thế nào miễn ổn định sự tu hành là tốt. Cốt yếu là sự tu hành được ổn định và tinh tấn đúng pháp. Phật dạy tùy theo căn cơ của chúng sanh mà ứng dụng tu chớ không cố định. Ví dụ như người ít phiền não tu theo pháp tri vọng, hễ dấy niệm liền buông, thực hành một thời gian thì thanh tịnh. Còn người phiền não nhiều, loạn tưởng lăng xăng không bao giờ an ổn, nên phải dùng quán mà công kích, quán thân này duyên hợp tạm có, quán cảnh là huyễn hóa thấy mọi sự việc xảy ra với mình không thật. Quán một thời gian phiền não mỏng dần thì tâm mới thanh tịnh. Người tu phải biết linh động chớ không nên cố chấp một là một, hai là hai, nếu không biết linh động tu không tiến.
Phật nói hai mươi lăm luân này, sợ chúng sanh mờ mịt không biết làm sao tu, không biết căn cơ hợp với pháp nào, nên tiếp theo Phật dạy cho phương tiện để chọn pháp tu. Kinh dạy lấy giấy ghi hết hai mươi lăm luân, mỗi luân vào một miếng giấy vo tròn, đặt vào trong dĩa đem để trên bàn Phật rồi trì giới thanh tịnh, thành tâm sám hối xong bốc lấy một thăm. Trúng pháp nào thì chết sống với pháp đó mà tu, chớ không nghi ngờ gì nữa hết; coi như Phật dạy mình tu theo luân đó. Như vậy là tu tiến, nếu dấy niệm nghi thì tu không tiến. Có phải Phật tới chứng minh cho chúng ta bốc thăm không? Thật ra hai mươi lăm luân mà nắm lấy một luân chết sống để tu, không nghi ngờ không thối chuyển thì có kết quả. Phật muốn cho chúng ta đầy đủ đức tin nên dạy phương tiện như thế.
Cũng như ở đây nhiều người đồng thời tới học đạo, tôi dạy có nhiều cách khác nhau, có người tôi dạy biết vọng tưởng rồi buông, có người tôi dạy đếm hơi thở, có người tôi dạy quán ngũ uẩn giai không. Tại sao vậy? Vì tùy theo căn cơ và hoàn cảnh, chẳng hạn người đang ở trong hoàn cảnh bận bịu, bảo họ buông vọng tưởng, họ buông không được thì làm sao tu? Nên phải dạy họ quán để phá vỡ các phiền não đang bao vây họ. Còn người căn cơ quá thấp, đem giáo lý Thượng thừa nói với họ, họ không lãnh hội được, nên phải dạy họ dùng phương tiện đếm hơi thở để dừng tạp niệm. Phương tiện rất nhiều mà cứu kính chỉ có một, chúng ta hiểu rồi thì hết nghi ngờ.
ÂM:
Nhĩ thời Thế Tôn dục trùng tuyên thử nghĩa, nhi thuyết kệ ngôn:
- Biện Âm nhữ đương tri
Nhất thiết chư Bồ-tát
Vô ngại thanh tịnh tuệ
Giai y Thiền định sanh
Sở vị Xa-ma-tha
Tam-ma-đề, Thiền-na
Tam pháp đốn tiệm tu
Hữu nhị thập ngũ luân
Thập phương chư Như Lai
Tam thế tu hành giả
Vô bất nhân thử pháp
Nhi đắc thành Bồ-đề
Duy trừ đốn giác nhân
Tinh pháp bất tùy thuận
Nhất thiết chư Bồ-tát
Cập mạt thế chúng sanh
Thường đương trì thử luân
Tùy thuận cần tu tập
Y Phật đại bi lực
Bất cửu chứng Niết-bàn.

DỊCH:
Khi ấy Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này, nói kệ rằng:
- Biện Âm, ông nên biết
Tất cả các Bồ-tát
Tuệ thanh tịnh vô ngại,
Đều y Thiền định sanh
Gọi là Xa-ma-tha
Tam-ma-đề, Thiền-na
Ba pháp đốn tiệm tu
Chia hai mươi lăm luân
Mười phương các Như Lai
Ba đời người tu hành
Ai chẳng nhân pháp này
Mà được thành Bồ-đề
Chỉ trừ người đốn giác
Cùng pháp chẳng tùy thuận
Tất cả các Bồ-tát
Và chúng sanh đời sau
Thường gìn giữ luân này
Tùy thuận siêng tu hành
Nương đại bi của Phật
Không lâu chứng Niết-bàn.

GIẢNG:
Chỉ, Quán và Thiền là ba pháp cội nguồn của chư Phật thành Phật. Chúng ta hiện nay muốn y theo Phật mà tu, muốn được giác ngộ như Phật cũng theo ba pháp đó mà tu. Chỉ có khác là căn cơ có đốn có tiệm. Người đốn dùng một pháp có thể đi tới nơi, người tiệm thì dùng hai, ba pháp. Người đốn là căn cơ lanh lợi, nghe một pháp liền ứng dụng cùng tột được. Còn tiệm là căn cơ không lanh lợi, ý chí yếu đuối dùng một pháp Chỉ không thành công phải nhờ pháp Quán phụ.
Bài trùng tụng này tôi chỉ thêm vài điểm quan trọng cho quí vị hiểu. Nói Trí tuệ thanh tịnh vô ngại của Bồ-tát đều y nơi Thiền định mà sanh. Vậy Thiền định gồm chung cả Chỉ, Quán và Thiền. Không người nào tu được trí tuệ mà không từ Thiền định sanh. Vì nếu vọng tưởng không lặng thì không bao giờ có trí tuệ. Không khi nào không gian sáng khi mây còn đen dày dù mặt trăng vẫn có trên hư không, bầu trời chỉ sáng khi nào mây tan hết. Cũng vậy, trí tuệ thanh tịnh vô ngại phát sáng khi vọng tưởng lặng hết. Vọng tưởng còn lăng xăng mà muốn giác ngộ, đó là cái muốn rỗng. Thế nên Phật dạy chúng ta muốn được trí tuệ thanh tịnh thì phải y theo ba pháp Chỉ, Quán và Thiền mà ứng dụng tu. Sở dĩ Ngài nói mười phương chư Phật ba đời và những người tu hành không ai chẳng nhân pháp này mà thành đạo Bồ-đề là để biết rằng ngoài ba pháp này không có pháp nào khác tu cho viên mãn giác ngộ.


([1])  Pháp pháp bản vô pháp
     Vô pháp pháp diệc pháp
     Kim phó vô pháp thời,
     Pháp pháp hà tằng pháp. 

Từ khóa:

n/a

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Giới thiệu

Giới thiệu về Thiền Lâm

LỜI NGỎ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni ! Kính thưa quý Phật tử và quý Thiện hữu tri thức ! Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn bị thôi thúc, cuốn hút bởi rất nhiều thông tin từ mọi hướng nhưng không ai trong chúng ta lại không nhìn nhận rằng, công nghệ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 340
  • Hôm nay: 23333
  • Tháng hiện tại: 873295
  • Tổng lượt truy cập: 60313312

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile