Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Phật Học Phổ Thông - Khóa VI - Bài 6

Đăng lúc: Thứ hai - 23/01/2012 15:50
Phật Học Phổ Thông - Khóa VI - Bài 6

Phật Học Phổ Thông - Khóa VI - Bài 6

Khóa Thứ Sáu

TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT 
hay là 
ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
--- o0o ---

BÀI THỨ SÁU

 
I.- A Nan không hiểu hỏi Phật
II.- Phật chỉ hai món vọng thấy 
III .- Dụ về nghệp chung của cá nhân.
IV.- Dụ về nghiệp chung của đồng loại
V.- Lấy nghiệp riêng để chỉ rõ nghiệp chung
VI. - Phật kết thúc lại
VII.- Phật chỉ các pháp đều về chân tâm 
VIII- A Nan nghi cái nghĩa bốn đại hòa hiệp sanh
IX.- Phật quở A Nan học nhiều mà nhiều mà không hiểu
X.- Phật nói cái tánh của bốn đại phi hòa hiệp
XI.- Đất từ chân tâm biến hiện
XII.- Lửa từ chân tâm biến hiện
XIII.- Nước từ chân tâm biến hiện
XIV.- Gió từ chân tâm biến hiện
442
 
--- o0o ---

I.- A NAN KHÔNG HIỂU HỎI PHẬT 
A Nan thưa Phật:- Bạch Thế Tôn, vừa rồi Phật nói cái nghĩa "nhân duyên, tự nhiên hòa hiệp và bất hòa hiệp", chúng con còn chưa hiểu, nay lại nghe Phật nói đến nghĩa "tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm ..." chúng con lại còn thêm mù mịt nữa. Cúi xn Đức Như Lai duỗi lòng từ bi, chỉ dạy cho chúng con ngộ được nhân tâm thanh tâm thanh tịnh, sáng suốt này.

II.- PHẬT CHỈ HAI MÓN VỌNG THẤY  
Phật dạy: - A Nan ông phải chín chắn nghe, Ta sẽ vì các ông phân biệt chỉ dạy, cũng khiến cho chúng sanh đời sau ngộ được đạo quả Bồ đề.
Này A Nan, tất cả chúng sanh bị sanh tử luân hồi trong thế gian, đều do hai món điên đảo phân biệt vọng thấy, tức nơi đó phát sanh ra nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ luân hồi.

LƯỢC GIẢI
Từ nơi tâm động vọng sanh ra các nghiệp, rồi theo nghiệp mà chịu khổ hay vui. Cũng như người từ mê mà sanh ra ngủ, từ nơi đó mà hiện ra các cảnh vật vui, buồn rồi chịu lấy buồn vui.
*
443

- Thế nào là hai món?
1. Cái điên đảo thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhân.
2. Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp chung của nhân loại.

III.- DỤ VỀ NGHỆP CHUNG CỦA CÁ NHÂN . 
A Nan, sao gọi là cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhân? Dụ như người nhặm con mắt, ban đêm dòm đèn thấy có vòng tròn lòa đỏ năm màu (ngủ uẩn).
Ý ông ghĩ sao? Cái vầng đỏ năm màu ấy, của đèn hay cái thấy?
A Nan, nếu ông nói "của đèn" thì sao những người không nhặm mắt, họ chẳng thấy vầng đỏ, mà duy có người nhặm, mắt mới thấy thôi?
Nếu nói "cái vầng đỏ đó của cái thấy, thì cái thẫy đã thành vầng đỏ; vậy người nhặm con mắt thấy vầng đỏ, thì bảo là thấy cái gì? (vì cái thấy đã thành vầng đỏ rồi, thì không thể nói thấy vầng đỏ nữa được" 
Lại nữa nếu ông chấp "cái vầng đỏ rời đèn riêng có", thì đáng lẽ ông xem bàn ghế chung quanh đều có vầng đỏ cả. Còn nói "vầng đỏ rời cái thấy riêng có", thì không cần con mắt thấy. Vậy thì tại sao người nhặm mắt thấy có vầng đỏ?
Thế nên phải biết: Cái sáng là ở nơi đèn, cái thấy vì bệnh mắt mà có bóng lòa. Cái "bóng lòa" và cái "thấy lòa" đều do nơi mắt nhặm. Còn cái thấy được lòa nhặm, thì "cái thấy" đó không phải nhặm.

445

LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này Phật nói: Vì vô minh vọng động (nhặm) mà thấy có cái cảnh vật hiện ra như vậy (lòa đỏ). Chớ không phải do chân lý (dụ đèn) hay chân trí (dụ cái thấy) và cũng không thể nói nó ngòai chân lý hay chân trí.
*

IV.- DỤ VỀ NGHIỆP CHUNG CỦA ĐỔNG LOẠI  
- A Nan, sao gọi là nghiệp chung vọng thấy của đồng loại? - Dụ như trong thế giới này có nhiều nước. Nhưng chỉ có một nước vì dân chúng đồng tạo ác nghiệp, nên điều cảm thấy có điềm không tốt, như sao chổi, sao phướn, hoặc hai mặt trời, hai mặt trăng v.v... Còn dân chúng ở các nước khac thì đều không thấy và cũng không nghe. 

V.- LẤY NGHIỆP RIÊNG ĐỂ CHỈ RÕ NGHIỆP CHUNG 
Này A Nan, như người nhặm con mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên "vọng thấy" cái đèn có vầng đỏ hiện ra. Tại con mắt nhặm mới thành ra lòa, chớ "cái thấy" đó không lòa.
445

So sánh như các ông ngày hôm nay, thấy có núi, sông, thế giới và chúng sanh đó, đều do cái "nhặm lòa từ vô thỉ" (vô minh vọng động từ vô thỉ) cho nên mới thấy có các cảnh vật hiện ra như vậy.
Các ông nên biết: "mắt thấy" (kiến) với cảnh vật bị thấy (kiến duyên) hiện tiền đây, đều do cái "vọng thấy" (giác minh) hiện ra. Cái "vọng thấy" đó (giác kiến) nó lòa nhặm, chớ cái chân tâm không lòa nhặm.
Cái chân tâm biết được cái lòa nhặm đó (giác sở giác sảnh) nó không phải ở trong lòa nhặm (giác phi sảnh trung).
Như thế thì làm sao bảo cái chân tâm đó là các cảm giác thấy, nghe, hay, biết được ư? đây chính là cái nghĩa: "tâm sanh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm v.v..." ông mới vừa hỏi trước.
Thế nên, nay ông thấy "tôi", thấy "ông" cùng thấy "thế giới" và "chúng sanh", đều do ông lòa nhặm (vô minh vọng động) mà thấy như vậy, chớ không phải cái thấy (tâm) đó nó lòa nhặm, cho nên không thể bảo nó (chân tâm) là "cái thấy".

LƯỢC GIẢI
Đại ý đọan này nói: từ nơi chân tâm, vì vô minh vọng động, nên khởi ra có căn và cảnh (cái thấy và cái bị thấy). Vì các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết cùng với các cảnh vật bị thấy, đều do vô minh vọng động hiện ra cả. Còn "chân tâm" vì không phải là vô minh, nên không thể gọi nó (chân tâm) là các cảm giác: nghe, thấy, hay, biết được .

446

Đây là giải lại cái nghĩa ở đoạn trước nói: "chân tâm sanh ra cái thấy v.v. (kiến kiến chi thời) cái thấy v.v... không phải là chân tâm (kiến phi thị kiến). Cái thấy nó còn xa cách chân tâm v.v...
Nên nhớ lỗi tại "vô minh vọng động", chớ không phải lỗi tại cái "thấy" và "cảnh bị thấy". Cũng như tại nhặm chớ không phải lỗi tại "cái thấy" của con mắt và "bóng lòa".

VI.- PHẬT KẾT THÚC LẠI 
A Nan, một người nhặm mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên họ thấy có cái vầng đỏ; cũng như dân chúng trong một nước, do ác nghiệp chung tạo của họ, nên đồng thấy những điềm không lành hiện ra.
Lên một tầng nữa, là toàn cả chúng sanh trong mười phương thế giới ngày nay đây, đều do "vô minh vọng động từ vô thỉ" nên đồng vọng thấy có thế giới chúng sanh hiện ra vậy.
Từ nơi chân tâm, vì hư vọng nên hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa hiệp vọng sanh ra, rồi cũng do hòa hiệp vọng diệt đi.
Nếu các ông xa lìa được các duyên hòa hiệp cùng bất hòa hiệp, và trừ hết các nhân sanh tử rồi, thì cái chân tâm thường trụ thanh tịnh, bất sanh, bất diệt hiện ra, và các ông được viễn mãn đạo Bồ Đề.
447


LƯỢC GIẢI
Phật lấy một người nhặm đế dụ một nước thấy điềm ác; lấy một nước để dụ chúng sanh trong mười phương. Vì vô minh vọng động từ vô thỉ, nên thấy có chúng sanh và thế giới. Cũng như người nhặm mắt thấy có vầng đỏ. Nếu hết nhặm thì vầng đỏ không còn, lúc ấy con mắt lành mạnh tự hiện.
Cũng như vô minh vọng tưởng hết, thì thế giới chúng sanh chẳng còn. Lúc bấy giờ chân tâm sáng suốt hiện ra, được viên mãn đạo Bồ đề, thế gọi là bậc Đại Giác.

VII.- PHẬT CHỈ CÁC PHÁP ĐỀU TRỞ VỀ CHÂN TÂM 
A Nan, ông còn chưa hiểu: Các trần tướng huyễn hóa đó là nơi tâm sanh ra, rồi cũng tùy tâm diệt mất (đương xứ xuất sanh, tùy xứ diệt tận).
Cái "tướng" (hiện tượng) của nó thì huyễn vọng, còn "tánh" (bản thể) của nó lại chân thường.
Nào là: 5 ấm, 6 nhập, 12 xứ, 18 giới đều do nhân duyên hư vọng hòa hiệp tạm có sanh; nhân duyên biệt ly, hư vọng tạm gọi là diêt.
Các ông không biết: Nào sanh, diệt, khứ, lai đều gốc ở nơi chân tâm thường trụ. trong thể tánh chân như thường trụ này, tìm kiếm cái khứ, lai, mê, ngộ, sanh tử v.v... quyết không thể được.

LƯỢC GIẢI
Hiện tượng các pháp thì vọng, mà bản thể của các pháp lại chân. Đứng về phần hình tướng (hiện tượng) các pháp thì thấy có sanh, diệt, khứ, lai. Còn đứng về phần bản tánh (bản thể) thì tìm cái khứ, lai, sanh, diệt, mê, ngộ không thể được.
448

VIII.- A NAN NGHI CÁI NGHĨA BỐN ĐẠI HÒA HIỆP SANH 
A Nan thưa Phật rằng: - Bạch Thế Tôn, trước kia ngài thường nói" tất cả các vật trong thế gian đều do bốn đại hòa hiệp sanh". Tại sao ngày hôm nay, Như Lai bác bỏ cả thuyết "nhân duyên" và "tự nhiên". Chúng con không biết nghĩa này thế nào? cúi xin Đức Từ Tôn chỉ dạy nghĩa trung đạo rốt ráo cho chúng con.

LƯỢC GIẢI
Phật đã nhiều lần bác cả nhân duyên và tự nhiên, mà ông A Nan vẫn còn chấp mãi. Cũng vì lưới nghi nhiều lớp, không thể một lần lột hết được !

IX.- PHẬT QUỞ A NAN HỌC NHIỀU MÀ KHÔNG HIỂU 
Phật dạy rằng: - Ông trước kia nhàm chán quả Thinh văn, Duyên giác là thuộc về Tiểu thừa, phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ đề, cho nên ta mới vì ông chỉ bày nghĩa lý cao thượng thứ nhất (đệ nhất nghĩa đế).
Tại sao ông còn đem lời nói tầm thường trong thế gian, là thuyết "nhân duyên" để tự ràng buộc lấy mình?

449

Ông tuy học nhiều mà không hiểu chi cả; cũng như người trong thế gian nói đến tên món thuốc này, món thuốc kia, đến khi thuốc thật đem ra trước mắt, thì họ không thể phân biệt được, thật đáng thương xót !
Ông nên chăm chú nghe, nay ta sẽ vì các ông, cùng với những người tu về Đại Thừa đời sau, mà phân biệt chỉ dạy, để cho các ông thông hiểu được thật tướng (chân tâm).
A Nan yên lặng, lắng nghe lời Phật dạy.

X.- PHẬT NÓI CÁI TÁNH CỦA TỨ ĐẠI PHI HÒA HIỆP 
A Nan, ông nói rằng: "Do bốn đại hòa hiệp sanh ra tất cả vật". Này A Nan, nếu cái thể tánh (bản tánh) của bốn đại kia không có hòa hiệp, thời nó không thể hòa với gì được; cũng như hư không, không hòa hiệp với các vật. Còn nó có hòa hiệp, thời đồng với vật biến hóa (hiện tượng sanh diệt) nghĩa là, trước sau thành nhau, như nước thành băng, băng trở lại thành nước. Sanh diệt nối nhau, sanh tử, tử sanh, sanh sanh tử tử, xoay tròn như vòng lửa, không đứt đoạn.

LƯỢC GIẢI
Ông A Nan lấy "hình tướng" (hiện tượng) của tứ đại có hư vọng hòa hiệp mà hỏi. Còn Phật chỉ cái "thể tánh" (bản thể) của tứ đại không hòa hiệp, cũng như hư không, để giải thích. Nếu nó (tánh) có hòa hiệp thì cũng đồng như các tướng (tứ đại) có sanh diệt.
*
450

XI.- ĐẤT TỪ CHÂN TÂM BIẾN HIỆN 
- A Nan, ông xem đất kia, lớn là quả địa cầu, còn nhỏ là hạt bụi (vi trần). Chẻ hạt bụi rất nhỏ (cực vi) ra làm bảy phần, thì thành hạt bụi lân hư (gần với hư không). Cái giáp ranh của sắc tướng tột đến chừng đó. Nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhất này (lân hư) ra làm một lần nữa, thì thành hư không. Thế thì rõ ràng hư không do chẻ bụi mà có, không phải do hòa hiệp sanh.
Này A Nan, như lời ông nói: "Do hòa hiệp sanh ra các vật trong thế gian". Vậy ông thử xem một hạt bụi nhỏ nhất này (lân hư), phải dùng bao nhiêu hư không hòa hiệp lại mới thành ra nó? không lẽ hạt bụi nhỏ nhất này hòa hiệp lại thành ra hạt bụi nhỏ nhất (lân hư trần). 

LƯỢC GIẢI
Nếu nói "các vật do hòa hiệp thành" thì hạt bụi nhỏ nhất này cũng phải do hòa hiệp mà thành.
Vậy thì lấy cái gì hòa hiệp thành hạt bụi này. Nếu nói "lấy hư không hòa hiệp lại thành" thì phi lý. Còn không lấy hư không thì lấy cái gì hòa hiệp thành ra nó? (vì ông A Nan chấp các pháp do hòa hiệp mà sanh). Nếu nói lấy sắc tướng hòa hiệp, thì thành ra một vật lớn, chớ không phải là thành hạt bụi nhỏ nhất (lân hư trần) nữa.

- Lại nữa, nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhất (lân hư) ra thành hư không, thì rõ ràng hư không không phải do hòa hiệp thành. Nếu nói do hòa hiệp thành, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hiệp lại mới thành hư không? không lẽ hư không tự nó hòa hiệp thành hư không?

LƯỢC GIẢI
Vì chấp "các pháp do hòa hiệp mà có". Vậy hư không lấy cái gì mà thành? Không lẽ lấy hư không hòa hiệp thành hư không. Đoạn trên Phật chỉ hạt bụi, đoạn này Phật chỉ hư không, đều phi hòa hiệp cả.
*
452

Vậy nên biết: Khi sắc hòa hiệp thì không phải hư không, khi hư không hòa hiệp thì không phải sắc. Cái sắc còn có thể chia chẻ ra được, chứ hư không làm sao mà hòa hiệp cho được?

LƯỢC GIẢI
Đại ý đoạn này, Phật nói các pháp hư vọng như huyễn, như hóa, phi hòa, phi hiệp, do chúng sanh mê vọng mà thấy in tuồng như thật.
*

Các ông không biết: Trong chân tâm, tánh (bản thể) của sắc là chân không (tâm); tánh (bản thể) của không là chân sắc (tâm). Nó vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới; tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp và phân biệt như thế nào, thì có ứng hiện ra như thế nấy. Chúng sanh không biết, chấp là nhân duyên sanh, hay tự nhiên có v.v... những cái chấp đó, đều do thức tâm phân biệt so đo cả. Phàm có nói năng, phân biệt, thì đều không đúng.

LƯỢC GIẢI
Thật ra các vật ở giữa này, không có nhất định vật gì, thật là vật gì cả. Tùy theo tâm của chúng sanh tạo nghiệp như thế nào, thì nó hiện ra như thế ấy. Đối với chúng sanh đó, nó thật hay đúng với loài đó mà thôi.
Như chén nước đầy, nếu đồng nghiệp loài người thì đều thấy thật là nước; còn đối với con vi trùng trong chén nước, thì không phải là nước nữa rồi, mà chính là nhà cửa của nó.
Hay như cái bàn gỗ này, đối với loài người thì thấy nó là cái bàn thật, chớ đối với con mọt, thì lại không thành cái bàn nữa, mà thật là món ăn của chúng.
Thêm một tỷ dụ nữa, như thân này đối với loài người, thì thấy thật là thân người, chớ đối với con vi trùng trong thân, thì không thành cái thân nữa, mà thật là một thế giới bao la vô tận của nó.
Vậy thì thấy thật nước hay thật chỗ ở, thật cái bàn gỗ hay thât món ăn, thấy thật thân người hay thật thế giới, đều tùy theo tâm niệm phân biệt nhận định riêng của mỗi loài như thế nào, thì nó thành ra thế nấy. Nên trong kinh nói: "tùy tâm biến hiện".
Chúng ta thường thấy: Khi nào tâm ta vui vẻ, thì thấy cảnh vật chung quanh đều vui, cho đến ngủ chiêm bao cũng thấy cảnh vui hiện ra. Trái lại, khi nào tâm ta buồn phiền thì thấy cảnh vật chung quanh cũng buồn bực; mỗi mỗi đều do tâm mình biến hiện ra cả, nên có câu:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!"
453

XII.- LỬA TỪ CHÂN TÂM BIẾN HIỆN 
- A Nan, lửa không có tự thể, nó chỉ gá các duyên mà sanh. Ông hãy xem những nhà ở trong thành này, khi họ muốn nấu ăn, thì họ cầm cái kính (dương toại) đưa ra trước mặt trời lấy lửa. Này A Nan, lửa ấy nếu nhân hòa hiệp mà có, thì nó từ trong cái kính sanh, từ bùi nhùi ra, hay từ nơi mặt nhật đến?
Nếu lửa từ mặt nhất đến, cháy được bùi nhùi trong tay của ông, thì những cây rừng và các cảnh vật nó vừa trải qua đó đáng lẽ đều phải bị cháy cả.
Còn nói "lửa từ trong kính sanh ra cháy cái bùi nhùi", sao cái kính người cầm đó không cháy? Và cái bàn tay của người cầm cũng không cháy?
Còn nói "lửa trong bùi nhùi sanh" thì cần gì phải có bàn tay cầm cái kính hứng ánh sáng mặt trời, mới có lửa?
Ông nên chín chắn xem xét: cái kính ở nơi tay người cầm, mặt nhật thời ở trên trời, bùi nhùi thì nằm tại đất. Cái kính và mặt trời vẫn xa nhau, không phải hòa, không phải hiệp. Vậy lửa này từ đâu mà đến cháy đây? Không lẽ lửa không từ đâu cả mà tự có?
Các ông không biết trong chân tâm, tánh (bản thể) của lửa (tâm) là thật không; tánh (bản thể) của không (tâm) mới là lửa thật.

454

Nó vẫn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó hiện ra như thế nấy.
Nếu một người cầm kính lấy lửa, thì một chỗ đó có lửa hiện ra. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm kính lấy lửa, thì khắp tất cả trong thế gian đều có lửa hiện ra; chỉ tùy theo vọng nghiệp của chúng sanh mà hiện đó thôi, chớ không có xứ sở gì. Người thế gian không biết, dùng thức tâm hư vọng phân biệt mê lầm chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v... phàm có nói năng, phân biệt đều không đúng sự thật.

LƯỢC GIẢI
Đại ý như đoạn trên (đất)
 *

XIII.- NƯỚC TỪ CHƠN TÂM BIẾN HIỆN 
A Nan, tánh nước không tịnh, đứng chảy chẳng thường. Như trong thành Thất La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca-tỳ-la-tiên, Chiết-ca-la-tiên, Bác-đầu-ma và Ha-tát-đa v.v... Các vị này thường lấy nước mặt trăng hòa với thuốc. Họ chờ đêm nào trăng sáng trong, cầm hột châu phương chư hứng mặt trăng, thì có nước chảy ra ở thau.
Vậy nước ấy từ hột châu sanh? hay từ hư không ra? Hay từ mặt trăng đến?
455

A Nan, nếu từ mặt trăng đến, nó làm cho hột châu ra nước; vậy thời từ phương xa đến đây, trong khi trải qua cây cối các cảnh vật, nó phải đều làm cho ngập ướt cả; nếu thế thì cần gì phải có hột châu phương chư (hột châu lấy nước)? song sự thật các cảnh vật không ngập ướt, thì rõ ràng nước ấy không phải từ mặt trăng đến.
Còn nói "nước từ hạt châu ra", thì hột châu nếu đã chảy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chảy ra được nước, cần gì phải chờ nữa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước?
Còn nói "nước từ hư không sanh" thì hư không vô biên, nước cũng phải vô biên; vậy thì từ nhân gian cho đến thiên thượng, tất cả cỏ cây, đất đai đều bị ngập lụt cả.
Ông nên chín chắn xem xét: Mặt trăng ở trên trời, hột châu ở tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng với hột châu để cách xa nhau, không phải hòa cũng không phải hiệp, vậy nước đó từ đâu mà đến? Không lẽ không nhân đâu mà nó tự có.
Ông không biết trong chân tâm, tánh (bán thể) của nước (tâm) thật không; tánh (bản thể) của không (tâm) thật nước, vốn sẵn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như thế nào, thì nó ứng hiện như thế nấy. Một người cầm hột châu lấy nước, thì một chỗ đó có nước.
456
 
Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm hột châu lấy nước, thì khắp cả trong thế gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp chướng trong chúng sanh mà phát hiện ra; nó không có phương hướng xứ sở gì. Người trong thế gian không biết, lầm chấp nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có, đều do thức tâm vọng chấp, phân biệt cả. Phàm có nói năng, luận bàn thế nào, cũng đều không đúng cả.

XIV.- GIÓ TỪ CHÂN TÂM BIẾN HIỆN 
A Nan, tánh gió không định, động và tịnh chẳng thường. Như ông thường đắp y đi vào đại chúng, cái chéo y của ông phất qua người gần bên, thì có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y bay ra, hay từ hư không bay đến, hay từ nơi mặt người sanh?
A Nan, nếu gió này từ cái y bay ra, thì cái y đã thành gió, vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra đắp gió hay sao? Ta hay xổ cái y ra, ông hãy thử xem coi gió ở chổ nào? chẳng lẽ trong y có chổ cất (để) gió.
Nếu gió từ hư không sanh, vậy thời khi ông không động cái y, sao chẳng có gió? Và hư không thường còn, thì gió cũng phải thường sanh, nếu khi nào không có gió, thì hư không phải diệt. Song thật ra gió có thể diệt (hết) chớ hư không làm sao diệt được.
457
 
Nếu hư không có sanh diệt, thời không gọi là hư không; còn gọi là hư không thời làm sao lại sanh ra gió được. 
Còn ông nói "gió từ nơi mặt người bị phất sanh"; nếu thật thế, thì gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó lại phất ngược trở lại mặt người bị phất.
Ông nên chín chắn xem xét: Cái lý là ở nơi ông, cái mặt là thuộc về người kia (bị phất), còn hư không thì tự yên lặng; gió (động) với hư không (lặng) tánh khác nhau, không hòa không hiệp, vậy gió từ nơi đâu mà phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có?
Các ông không biết trong chân tâm, tánh (bản thể) của gió (tâm) là thật gió, vốn sẳn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm chúng sanh phân biệt như thế nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thời có một chút gió sanh ra. Nếu tất cả mọi người trong thế giới đều phất y, thì cả thế giới đều có gió, theo nghiệp của chúng sanh mà phát hiện, không có phương hướng, xứ sở gì. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt so đo, lầm chấp là nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có v.v... đều không đúng cả.
458

HOẰNG PHÁP
 
  
 

Tác giả bài viết: HT. Thích Thiện Hoa
Nguồn tin: Trang nhà Quảng Đức
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Giới thiệu về Thiền Lâm

LỜI NGỎ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni ! Kính thưa quý Phật tử và quý Thiện hữu tri thức ! Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn bị thôi thúc, cuốn hút bởi rất nhiều thông tin từ mọi hướng nhưng không ai trong chúng ta lại không nhìn nhận rằng, công nghệ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 32
  • Khách viếng thăm: 27
  • Máy chủ tìm kiếm: 5
  • Hôm nay: 927
  • Tháng hiện tại: 260859
  • Tổng lượt truy cập: 59700876

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile