Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Khóa Hư Lục giảng giải- Phần 8 - Sáu thời sám hối - GIỜ DẦN (3g - 5g) - Giảng

Đăng lúc: Thứ bảy - 14/01/2012 08:52 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Khóa Hư Lục giảng giải- Phần 8 - Sáu thời sám hối - GIỜ DẦN (3g - 5g) - Giảng

Khóa Hư Lục giảng giải- Phần 8 - Sáu thời sám hối - GIỜ DẦN (3g - 5g) - Giảng

Phần kệ cảnh sách chúng giờ Dần
Giảng
KỆ CẢNH SÁCH CHÚNG GIỜ DẦN
(3g - 5g)
Phương Đông tờ mờ sáng,
Mặt đất tối tan dần.
Tâm chạm trần cảnh dấy,
Mắt lòa sắc tưng bừng.
Xác thối đừng ôm mãi,
Đầu vùi sớm ngưỡng lên.
Ân cần chuyên sáu niệm,
Hầu mong hợp cơ chân.

Đây là bài cảnh sách buổi khuya thức dậy.
“Phương Đông tờ mờ sáng” tức là khoảng bốn, năm giờ sáng, phương Đông hơi ửng một chút sáng.
“Mặt đất tối tan dần”: trên mặt đất bóng tối tan dần.

“Tâm chạm trần cảnh dấy”: tâm xúc chạm với cảnh, cảnh liền dấy khởi. Đúng ra cảnh là cảnh, tâm là tâm, tại sao cảnh dấy khởi theo tâm? Như cây thông trước chùa, nếu khuya chúng ta không trỗi dậy nhìn thấy gió thổi rung rinh cành lá thì tự nó không có gì, nhưng khi nhìn gió thổi cành lá thông, chúng ta lại có ý niệm dấy lên theo cảnh, vậy cây không có niệm khởi, khi tâm mình duyên nó bỗng dưng mình thấy cảnh có dấy động, cảnh dấy động là do tâm không phải tại cảnh. Thế nên nhiều người nhìn cảnh đêm trăng, ánh trăng bạc rọi xuống rặng thông xanh, cho là cảnh nên thơ. Cảnh là cảnh, nên thơ là tại tâm mình dấy động.

“Mắt lòa sắc tưng bừng”: mắt lòa vì bị che mờ nên thấy cảnh loạn tưng bừng. Cảnh loạn là tại mắt lòa, chớ cảnh là cảnh không có gì tưng bừng cả. Chữ lòa là nói mắt mê muội nên thấy cảnh có đẹp có xấu, có thích có chán. Hai câu trên cảnh tỉnh chúng ta, cảnh là cảnh, không có động, động là tại tâm, cảnh không đẹp xấu, đẹp xấu cũng do lòng người và con mắt lòa chấp.

Đến bốn câu sau Ngài khuyên: “Xác thối đừng ôm mãi” nghĩa là thôi thức dậy đi, đừng ôm xác thối ngủ nữa. Tại sao Ngài nói xác thối? Lúc chúng ta ngủ mê, tất cả đều không sạch, thế mà chúng ta cứ thương xác thối, đến giờ thức dậy, kiểng đánh rồi mà còn nấn ná ôm nó để ngủ thêm chút nữa.

“Đầu vùi sớm ngưỡng lên”: đầu vùi dưới gối ráng ngẩng lên một chút. Ngài khuyên ráng ngẩng đầu trỗi dậy, đừng ôm xác thối đắm chìm trong giấc ngủ say.

Ân cần chuyên sáu niệm,
Hầu mong hợp cơ chân.

Nên ân cần chuyên tu sáu niệm mới mong hợp với cơ chân thật. Chữ sáu niệm có hai ý:

1. Trong kinh A-hàm lục niệm là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Thí, niệm Thiên. Niệm Thiên nghĩa là nhớ tất cả công đức của người sanh lên cõi trời như là tu Thập thiện v.v...

2. Đây cũng có thể là Ngài khuyên những người tu Tịnh độ niệm lục tự Di-đà. Nhưng thường lục tự Di-đà người ta gọi là lục tự chớ ít khi nói lục niệm.

Vậy lục niệm là nhớ đến Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng), nhớ đến trì giới, bố thí và công đức của chư Thiên. Có thế mới hợp với cơ chân thật. Tóm lại đây là lời khuyên trong giờ thức dậy, tức là giờ đánh kiểng thức chúng buổi sáng. Vậy người nào nghe đánh kiểng mà còn nằm thêm thì người chung quanh nhắc giùm “xác thối đừng ôm mãi” cho người đó tỉnh.

DÂNG HƯƠNG BUỔI SÁNG

Cúi mong, phương Tây mặt trăng vừa lặn, hướng Đông vầng nhật hiện dần. Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh, cõi không lễ bậc Thánh Hiền. Mong thấu lòng thành, kính dâng hương báu.

Hương này trồng từ rừng giới, tưới bằng nước định, chặt từ vườn tuệ, vót bằng đao giải thoát. Chẳng do sức người rìu búa, hình thế xuất tự thiên nhiên. Đốt lên từ lò báu tri kiến, kết đài mây sáng rỡ. Khi bay khắp chốn ngạt ngào, tan ra đầy trời thơm phức. Vừa lúc rạng đông, thắp hương cúng dường.

“Cúi mong, phương Tây mặt trăng vừa lặn, hướng Đông vầng nhật hiện dần” tức là mặt trăng vừa lặn, hướng Đông mặt trời từ từ lên.

“Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh.” Phạn, chữ Hán là phạn nhưng thường đọc là phạm. Phạm là thanh tịnh. Chư Thiên do tu hạnh thanh tịnh được gọi là Phạm thiên, nên phạm là chỉ hạnh thanh tịnh. Chiếu phạn họp dòng thanh tịnh tức là trên chùa, trước bàn Phật trải chiếu, những người tu trong sạch họp lại, quì trên chiếu bắt đầu lễ Phật dâng hương.

“Cõi không lễ bậc Thánh Hiền, mong thấu lòng thành, kính dâng hương báu”: Trong cõi hư không, kính lễ tất cả bậc Thánh Hiền ở mười phương, mong thấu suốt được lòng chân thành của mình kính dâng hương quí báu này. Hương báu này là hương gì?

“Hương này trồng từ rừng giới, tưới bằng nước định, chặt từ vườn tuệ, vót bằng đao giải thoát”: Hương cúng dường Phật là giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương. Vậy hương này không phải là hương thế tục mà là hương do giới, định, tuệ, giải thoát tạo thành.

“Chẳng do sức người rìu búa, hình thế xuất tự thiên nhiên, đốt lên từ lò báu tri kiến”: Hương này không phải do rìu búa chặt đem về xay ra rồi kết lại thành hương, hương này là hương sẵn có tự thiên nhiên, thắp lên từ lò báu tri kiến của chính mình.

“Kết đài mây sáng rỡ, khi bay khắp chốn ngạt ngào, tan ra đầy trời thơm phức”: Kết những đài mây sáng rỡ bủa khắp các nơi, hương bay đến đâu, mùi thơm đều ngạt ngào, lúc tan ra khắp cả trời đều thơm phức.

“Vừa lúc rạng đông thắp hương cúng dường.” Chư Tăng Ni hay Phật tử đốt hương cúng Phật không phải chỉ nặng về hương thế gian, như hương trầm hay các mùi hương khác mà đây là hương giới, định, tuệ, giải thoát, đó là hương quí nhất, không gì sánh được. Hương thế gian thuận theo gió, còn hương giới, định, tuệ, giải thoát, nơi nào cũng đến được nên dâng hương quí báu này cúng Phật.

KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

“Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức” là hương trầm thủy trồng trong rừng thiền, mùi thơm sực nức. Rừng thiền chỉ cho định.

“Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng” là mùi thơm cây chiên-đàn trồng trong vườn trí tuệ. Vườn tuệ là chỉ cho tuệ.

“Đao giới vót thành hình non thẳm”: dùng giới làm đao vót hương này giống như hình núi cao.

“Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng”: hương này là hương định, hương tuệ, hương giới từ tâm phát ra nên cúng dâng Phật mãi mãi không cùng.

Trong Khoa Nghi Sám hối chúng ta dùng bài dâng hương này.
KỆ DÂNG HOA
Đất tâm mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.

“Đất tâm mở ra, hoa nở rộn” tức là đất tâm vừa mở thì thấy hoa nở rộn rã bên ngoài, hoa rộn rã nở từ đất tâm của mình so với trời mưa hoa thì hoa trời thơm không bằng nên nói: “trời có mưa hoa vẫn kém thơm”. Hoa cúng Phật từ nơi tâm quí hơn là hoa trời rải xuống, vì hoa trời vẫn còn là hoa phàm tục nên thơm không bằng hoa từ đất tâm của chúng ta.
“Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật”: từng cành hoa, từng đóa hoa dâng cúng Phật.

“Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi”: hoa của đất tâm dầu gió nghiệp muôn đời thổi cũng không lay động, không rơi rụng, còn hoa thế gian chỉ vài hôm là rụng hết, đó là điểm đặc biệt.

PHÁT NGUYỆN
Nguyện mây hương hoa này,
Khắp cả mười phương cõi,
Cúng dường tất cả Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ-tát,
Vô lượng chúng Thanh văn
Và tất cả Thánh Hiền.
Vừa rời đài Quang minh,
Qua cõi nước vô biên,
Trong vô biên cõi Phật,
Nhận dùng làm Phật sự.
Xông khắp các chúng sanh,
Đều phát tâm Bồ-đề.

Bài phát nguyện này nguyện mây hương hoa của mình dâng cúng sẽ bay khắp cả mười phương cõi, cúng dường tất cả Phật, tất cả Pháp, tất cả Bồ-tát, tất cả chúng Thanh văn và những vị Thánh Hiền. Các ngài vừa rời đài quang minh qua vô biên cõi nước trong vô biên cõi Phật, nhận dùng hương hoa này để làm Phật sự. Hương hoa này xông khắp các chúng sanh đều phát tâm Bồ-đề. Như vậy hương hoa này nguyện cúng dường tất cả chư Phật, chư Bồ-tát, cả pháp của Phật cho đến hàng Thanh văn Hiền thánh, nói gọn là cúng dường tất cả Tam Bảo. Lại cũng cúng dường các vị Bồ-tát, từ đài quang minh của các ngài, hóa thân làm Phật sự khắp vô biên cõi, các ngài nhận hương hoa này để làm Phật sự lợi ích cho chúng sanh. Lại nguyện hương hoa này xông khắp tất cả, chúng sanh nào nghe mùi hương hoa này đều phát tâm Bồ-đề.

Tóm lại chúng ta thấy bài nguyện chia làm ba phần:
Phần thứ nhất là nguyện cúng dường Tam Bảo.
Phần thứ hai là nguyện cúng dường tất cả những vị đi làm Phật sự.
Phần thứ ba là nguyện hương hoa này xông ướp cho mọi người đều phát tâm Bồ-đề.
TÂU BẠCH

Kính bạch mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư, soi đuốc tuệ nơi đường tối, thả thuyền từ trong biển khổ.
Trộm nghe canh gà vừa qua, bóng thỏ mới lặn. Khói mù nơi sông núi chớm tan, xe ngựa xa gần đều chuyển động, tiếng mai hoa trên lầu vừa tàn, chén trúc diệp trước song mới tỉnh. Mày liễu thập thò bày nắng sớm, mặt hoa e thẹn đọng sương mai. Gặp khi bừng sáng thương kẻ ngu mê. Trong đêm giấc mộng đã lờ mờ, sáng đến tâm hồn còn rộn rịp. Mắt tai đuổi theo thanh sắc, mũi lưỡi dính mắc vị hương. Nhà lửa hằng cam thiêu đốt, sông ái mải chịu đắm chìm. Mặc dù sáng nay ông thức giấc cũng như người đang ngủ đêm qua. Chẳng lo sanh già bệnh chết đuổi gấp, chỉ chăm vợ con tiền của buộc ràng.

Ngài tâu bạch: “Kính bạch mười phương Đại Giác...” Đại Giác là chỉ đức Phật. Hùng Sư là thầy hùng, cũng là Phật. Trước điện thờ Phật thường khắc chữ Đại Hùng bảo điện, tức là điện thờ bậc Đại Hùng. Đức Phật đã thắng bao nhiêu trận giặc mà gọi Ngài là Đại Hùng? Hùng là anh hùng là người thắng giặc ngoài biên cương, còn Phật ngồi im lìm dưới cội bồ-đề sao lại gọi là anh hùng? Đó là một ý nghĩa chúng ta phải hiểu cho tường tận. Trong kinh Pháp Cú đức Phật dạy: “Thắng một vạn quân không bằng thắng chính mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt.” Ngoài mặt trận người thắng một vạn quân đáng gọi là anh hùng chưa? - Là anh hùng. Song đức Phật bảo: Không bằng thắng mình, thắng được mình mới là chiến công oanh liệt nhất. Như vậy thắng người ngoài chưa phải thật anh hùng. Người yếu, chúng ta mạnh thì chúng ta thắng họ, nhưng thắng được chính mình mới thật là anh hùng. Tại sao? Từ xưa biết bao vị anh hùng phải chịu thua nữ sắc hay sự nóng giận của chính họ v.v... Ví dụ như Lữ Bố, một võ tướng ở Trung Hoa, được xem là anh hùng nhưng phải chịu thua sắc đẹp của Điêu Thuyền... nghĩa là không tự thắng được trước sự cám dỗ của nữ sắc. Chỉ có đức Phật, trước bao nhiêu cám dỗ nào tài sắc, nào danh lợi v.v..., Ngài đều thắng hết, đó mới thật là anh hùng.

Thế nên đối với người tu, anh hùng là phải thắng mình. Tự thắng mình thiên hạ có thấy không? Hẳn là khó thấy nên không được người đời kể công, không được ghi trong lịch sử, chỉ tự mình biết thôi. Thắng mình, nghe dường như dễ nhưng thật không phải dễ. Vì những ma quân ẩn núp khó thấy, gặp cơ hội liền hiện ra nên chiến thắng rất khó. Bao nhiêu người tu hành đã nghĩ rằng: Từ đây về sau giữ gìn đừng nóng giận, đừng tham lam v.v... nhưng bất chợt có ai nói khích một câu, niệm giận ở đâu đùng đùng kéo đến kềm chế không kịp, thế là thua. Làm kẻ bại trận thì dễ, làm kẻ thắng trận thật gian nan! Lại như bình thường chúng ta tự nhủ phải giữ không để lòng tham dấy động, nhưng khi gặp sự quyến rũ của tài sắc danh lợi, bất chợt lòng tham dấy khởi, thế nên thắng được nó không phải là việc giản đơn.

Đối với người tu được đến nơi đến chốn rồi, trong kinh có câu: “xuất gia giả phi tướng tướng chi sở năng vi”, nghĩa là người xuất gia không phải là tướng võ tướng văn có thể làm được. Tại sao? Tướng võ đánh thắng trận về thì được phong chức lại được người tán thưởng v.v... còn thắng ma quân không ai tán thưởng, thắng trong im lìm nên khó khuyến khích chúng ta mạnh mẽ được. Viên tướng cố gắng thành công, khi về được thưởng, được lên chức, như vậy sự cố gắng đó do động cơ tham danh lợi thúc đẩy nên dễ làm. Lại nhiều người thắng người khác là do họ tức giận, họ hận thù nên họ hành động mạnh mẽ. Đó là tham, sân thúc đẩy họ. Người xuất gia thành công là do động cơ thức tỉnh giác ngộ không phải do tham sân. Người tu chỉ do trí tuệ mà thắng giặc ma quân nên việc làm hết sức khó. Tuy quan văn quan võ làm được nhiều điều hay giúp nước an dân, nhưng đối với người học đạo thì chưa bằng. Vì người học đạo phải dùng hết khả năng, trí tuệ để chiến thắng mình, chiến thắng trong âm thầm, chỉ khi thành Phật mới được mọi người hoan hô, chớ còn là phàm tăng phàm ni thì chưa được. Vì hôm nay thắng chưa chắc ngày mai lại thắng, thắng trận nào mừng trận ấy chớ chưa phải là toàn thắng, nên không ai hoan hô mà cũng không dám khoe, vì e rằng hôm sau lại thua người ta sẽ cười cho. Như thế Tăng Ni là chiến sĩ trong âm thầm, không ai biết, nhưng nếu làm được điều đó mới gọi là bậc Hùng Sư. Tóm lại lời tâu bạch này mong đức Phật đem đuốc trí tuệ của Ngài soi cho các chúng sanh đang trong đường tối tăm được biết lối ra và cũng cầu xin Ngài thả chiếc thuyền từ bi vào biển khổ cứu độ muôn loài.

“Trộm nghe: Canh gà vừa qua, bóng thỏ mới lặn.” Canh gà tức là canh tư. Canh tư vừa qua, mặt trăng mới lặn.

“Khói mù nơi sông núi chớm tan, xe ngựa xa gần đều chuyển động”: Khuya khoảng ba giờ sương mù lần lần tan, thức giấc thì nghe xe ngựa ở các nơi bắt đầu chuyển động.

“Tiếng mai hoa trên lầu vừa tàn, chén trúc diệp trước song mới tỉnh”: Đây là dùng điển tích. Mai hoa nói đủ là mai hoa thanh lấy từ chữ “Mai hoa dẫn” là tên một ca khúc cổ điển do ống sáo biểu diễn trong khi vui mừng chúc tụng. Ca khúc này nói đủ là “Giang thành mai hoa dẫn”.

Trúc diệp là tên một thứ rượu khi nấu có thêm gia vị của lá trúc nên gọi là “trúc diệp tửu”. Nói cho dễ hiểu là tiếng sáo, tiếng nhạc trên lầu vừa tàn, chén rượu trước song mới tỉnh, tức là tiệc tùng vui ca nhạc vừa dứt.

“Mày liễu thập thò bày nắng sớm” là chỉ những cây liễu ở trước chùa thập thò bày nắng sớm.

“Mặt hoa e thẹn đọng sương mai.” Ngài diễn tả rất nên thơ, các đóa hoa trước sân còn đọng lại những hạt sương buổi sớm.

“Gặp khi bừng sáng thương kẻ ngu mê”: Khi mình thức tỉnh mới thương những người còn đang ngu mê.

“Trong đêm giấc mộng đã lờ mờ, sáng đến tâm hồn còn rộn rịp”: Trong đêm khuya ngủ mê nằm mộng, những cảnh mộng lờ mờ không rõ, sáng dậy thì tâm hồn còn nhớ, còn hiện ra những cảnh mộng đêm hôm nên tâm hồn còn rộn rịp. Đêm đã mê mà sáng cũng còn đeo đẳng cái mê đó!

“Mắt tai đuổi theo thanh sắc, mũi lưỡi dính mắc vị hương.” Khi sáng ra, mắt chúng ta đuổi theo sắc, tai đuổi theo thanh, mũi lưỡi dính mắc hương vị... Như sáng mắt nhìn trước chùa thấy hoa nở thì khen hoa đẹp, thấy hoa tàn thì chê hoa rụng; lại nghe người chung quanh nói chuyện thì đuổi theo thanh; đến chuẩn bị làm bếp thì đuổi theo hương vị. Thế là sáng ra các căn luôn dính mắc các trần.

“Nhà lửa hằng cam thiêu đốt”: Chúng ta bị thiêu đốt trong nhà lửa mà cam chịu chớ không chạy ra. Kinh Pháp Hoa nói: “tam giới vô an du như hỏa trạch” là ba cõi không an như trong nhà lửa, nhưng chúng ta không chịu chạy ra, bằng lòng vui chơi trong nhà lửa, khi nào bị đốt cháy sẽ hay.

“Sông ái mải chịu đắm chìm”: Thương con rồi đến thương cháu, thương chắt... hết một đời chìm trong sông ái, không ra khỏi.

“Mặc dù sáng nay ông thức giấc, cũng như người đang ngủ đêm qua”: Hiện giờ đã sáng rồi, thức dậy đi đây đi kia, làm các việc nhưng vẫn trong mê, không thức tỉnh thì chẳng khác người ngủ mê trong đêm hôm qua.

“Chẳng lo sanh già bệnh chết đuổi gấp, chỉ chăm vợ con tiền của buộc ràng.” Sanh già bệnh chết đuổi gấp tới mà cứ lo làm sao có tiền của nhiều, vợ con no ấm không nghĩ gì đến việc tu hành.

Các Phật tử, gốc thân chẳng bền, cành mạng khó yên. Mọi người trên đầu đội trời, khó khỏi mắt sáng rơi đất. Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp thân khó được. Cần phải mau mau gieo giống lành, chớ có khư khư cầu quả ác. Người người sớm tỉnh, mỗi mỗi siêng tu. Chuyên tâm lễ Vô thượng Từ Dung, chạm mắt thấy Đại quang minh tạng.

“Các Phật tử, gốc thân chẳng bền, cành mạng khó yên”: Thân là gốc không bền, mạng sống như cành lá, không yên ổn, bền lâu.

“Mọi người trên đầu đội trời, khó khỏi mắt sáng rơi đất.” Ai đi đứng đầu cũng đội trời. Mắt sáng rơi đất chữ Hán gọi là nhãn quang lạc địa, chỉ cho cái chết. Toàn câu có nghĩa là đầu đội trời rồi cũng phải chôn dưới đất, không ai tránh khỏi.

“Một sớm chợt sẩy tay, muôn kiếp thân người khó được.” Thí dụ một người sáng trèo lên cây cao, lỡ trợt tay rớt xuống thì xong một đời, một phen sẩy tay là đã mất thân mạng rồi, không biết khi nào được thân người nữa.

“Cần phải mau mau gieo giống lành, chớ có khư khư cầu quả ác”: Chúng ta cần phải gấp tạo nhân lành, đừng ôm ấp giữ chặt quả ác.

“Người người sớm tỉnh, mỗi mỗi siêng tu.” Khuyên mỗi người phải sớm tỉnh để siêng tu hành.

“Chuyên tâm lễ Vô thượng Từ Dung”: Từ Dung là hình dáng hiền lành của đức Từ phụ. Từ bi của Phật không ai bì nổi, không ai hơn được nên gọi là Vô thượng. Vô thượng Từ Dung là chỉ đức Phật.

“Chạm mắt thấy Đại quang minh tạng”: Lễ Phật rồi trước Phật mình thấy được kho Đại quang minh tức là tâm thể sáng suốt sẵn có của chính mình. Ngoài thì chúng ta lễ Phật, nơi mình thì thấy được nguồn gốc sáng suốt muôn đời của mình.

“Đệ tử chúng con kính tưởng thời này lấy làm khóa lễ buổi sáng.” Tâu bạch rồi bắt đầu sám hối.

Ngài Trần Thái Tông chia sáu căn, mỗi căn sám hối một thời. Thời sáng là sám hối về mắt.

SÁM HỐI TỘI CĂN MẮT
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

“Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay.” Danh từ vô thủy trong nhà Phật thường dùng, nghe rất khó hiểu. Vô là không, thủy là trước. Kiếp không trước là kiếp nào? Vì trong nhà Phật không chấp nhận có ban đầu, nhân duyên trùng trùng điệp điệp kết hợp nhau không có mối đầu, nên nói là vô thủy. Như vậy tất cả chúng ta từ vô thủy kiếp tức là không biết bao lâu rồi đến ngày nay.

Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo,

Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm.

Bỏ quên tâm chân thật của mình nên không biết đạo chân chánh. Ai ai cũng có bản tâm chân thật nhưng quên đi không biết nên mới chạy theo đường ác tạo nghiệp luân hồi. Tất cả chúng ta hiện nay đang sống theo bản tâm hay là sống theo vọng tâm? Chúng ta chỉ sống theo vọng tâm suy tưởng mà quên mất bản tâm. Vọng tâm suy tưởng theo nghiệp hơn thua, được mất, phải quấy v.v... do đó không đi được con đường chánh mà rơi vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sở dĩ rơi ba đường khổ là do sáu căn lầm lẫn.

“Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau”: Nếu không sám hối lỗi trước thì khó tránh khỏi hối hận về sau nên phải thành tâm sám hối.

Nghiệp căn mắt là:
Nhân ác xem kỹ, nghiệp thiện coi khinh.

Nhân ác chúng ta xem kỹ mà nghiệp thiện lại coi khinh. Thí dụ một người lân cận chúng ta có điều xấu, chúng ta nhớ rất kỹ từng chi tiết, có khi còn tô đậm nét thêm, còn điều tốt của họ chúng ta lảng qua không để ý, đó là bệnh của con người đối với điều lành điều tốt thì xem thường, dễ quên, còn đối với điều dữ điều xấu lại chăm chú, nhớ dai. Bệnh đó gốc từ mắt.

Lầm nhận hoa giả, quên ngắm trăng thật.

Hoa giả là tất cả những gì có hình có sắc trên thế gian, đó đều là những tướng vô thường tạm bợ, có rồi mất, không lâu bền, nhưng chúng ta mê đắm trong giả tướng nên lầm nhận hoa giả, chạy theo giả tướng nên quên ngắm trăng thật. Trăng thật là chỉ cho thể chân thật sẵn có nơi con người cũng như ở ngoại cảnh. Nếu thấy rõ muôn pháp đều là duyên hợp, không có pháp nào thật thì chúng ta không đắm mê theo cảnh tức là không nhận lầm hoa giả mà dễ thấy được cái thật của chính mình hay cái thật của ngoại cảnh.

Yêu ghét nổi dậy, đẹp xấu tranh giành,
Chợt mắt dối sanh, mờ đường chánh kiến.

Thấy đẹp thì yêu, thấy xấu thì ghét nên tranh cái đẹp, ghét cái xấu, cứ như thế mà yêu ghét nổi dậy cả ngày. Trong một thoáng một chớp, mắt đã sanh ra những mê lầm, nên cái thấy không còn đúng nữa. Khi đã kẹt trong đẹp xấu, hẳn không còn thấy được cái chân thật.

Trắng qua xanh lại, tía phải vàng sai.

Người nói màu tía đẹp, màu vàng xấu, người nói màu vàng đẹp, màu tía xấu rồi sanh ra cãi nhau. Cứ đem màu này sánh với màu kia, thích màu nào thì khen màu đó đẹp, nếu ai chê thì không bằng lòng.

Nhìn lệch các thứ nào khác kẻ mù.

Nhìn không đúng lẽ thật nên giống như người mù. Quí vị thấy ngoài đường hay trong chợ nhiều người cãi nhau thật đáng tức cười. Như vào hàng vải, người nói màu vàng đẹp, người nói màu trắng đẹp, người nói màu xanh đẹp v.v... mỗi người thấy mỗi màu đẹp khác nhau nên không ai bằng lòng ai. Vậy màu nào đẹp thật? Chẳng qua là mê chấp thôi. Vì nhìn lệch theo thói quen, không thấy đúng lẽ thật, không thấy đúng chân lý nên chẳng khác kẻ mù.

Gặp người sắc đẹp liếc trộm nhìn ngang,
Lòa mắt chưa sanh Bản lai diện mục.

Thấy ai đẹp liền nhìn lén, ngó trộm nên mắt lòa đi, quên mất Bản lai diện mục của mình.
Thấy ai giàu có, giương mắt mải nhìn,
Gặp kẻ bần cùng lờ đi chẳng đoái.

Thấy ai ăn mặc sang trọng thì ngó chăm chỉ, còn ai ăn mặc rách rưới lôi thôi liền ngó lơ, không để ý.
Người dưng chết chóc, nước mắt ráo khô,
Thân quyến qua đời, đầm đìa lệ máu.

Quí vị thấy người dưng chết cũng là mất một mạng người, thân thuộc chết cũng là mất một mạng người. Tại sao người dưng chết lại tỉnh, lại dửng dưng, không một chút tỏ ra buồn bã thảm sầu? Trái lại khi thân nhân chết thì đau khổ, khóc rũ rượi? Cả hai đều là người mà một bên xem trọng, một bên xem thường, như thế để thấy chúng ta bị buộc ràng trong chỗ dòng họ thân quyến, mà không có tình thương nhân loại.

Hoặc đến Tam Bảo, hoặc vào chùa chiền,
Gần tượng thấy kinh, mắt không thèm ngó.

Nhiều người vào chùa thấy tượng thấy kinh không để ý đến.
Phòng Tăng điện Phật, gặp gỡ gái trai,
Mắt liếc mày đưa, đam mê sắc dục.

Nghĩa là Phật, tượng, kinh đều không để ý, chỉ để ý đến người thôi.
Không ngại Hộ pháp, chẳng sợ Long thần,
Trố mắt ham vui, đầu chưa từng cúi.

Đối với Long thần Hộ pháp, không sợ các ngài quở, cứ mê vui thôi.
Những tội như thế vô lượng vô biên,
Đều từ mắt sanh phải sa địa ngục.

Tội do mắt nhiều vô lượng vô biên, kể không hết, do mắt mê lầm nên sau khi chết phải rơi vào địa ngục.
Trải hằng sa kiếp mới được làm người,
Dù được làm người lại bị mù chột.

Trong kinh Phật dạy: Ai tạo nghiệp ác phải đọa địa ngục, nhân đó trả xong rồi còn dư báo, tức là quả báo thừa của quá khứ, khi trở lại làm người như nhân mắt tạo nghiệp thì mắt lại bị mù chột.

Nếu không sám hối khó được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài thảy đều sám hối.
Mắt gây tội rất nhiều nên phải thành tâm sám hối thật tha thiết.
CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật,
Và chư Bồ-tát Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng,
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).

Bờ kia là bờ giác. Phần khuyến thỉnh này là đem hết lòng thành thỉnh Phật, thỉnh Bồ-tát, thỉnh các vị Tăng Thánh Hiền, vì lòng thương xót tất cả chúng sanh mà độ họ được lên bờ giác.

CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ,
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang thập địa nguyện sớm lên,
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.

Chúng ta được niềm vui là do thường gần gũi Tam Bảo, gần gũi Phật, nên ngày đêm luôn thành kính sám hối. Sám hối để cầu điều gì? Nguyện sớm bước lên những nấc thang của hàng Thập địa. Thập địa là chỉ cho Thập địa Bồ-tát, gồm có:

1.      Hoan hỉ địa
2.      Ly cấu địa
3.      Phát quang địa
4.      Diệm huệ địa
5.      Nan thắng địa
6.      Hiện tiền địa
7.      Viễn hành địa
8.      Bất động địa
9.      Thiện huệ địa
10.  Pháp vân địa.
N

ếu tiến thêm hai bước nữa là Đẳng giác và Diệu giác. Diệu giác là Phật. Như vậy qua Thập địa thì lên Đẳng giác rồi đến Diệu giác là thành Phật nên “thềm thang Thập địa nguyện sớm lên”.

“Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.” Chân tâm là tâm thể không bị sanh diệt, tâm thể này sáng suốt, giác ngộ gọi là tâm Bồ-đề.

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm nương Thánh chúng,
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh,
Nương thắng nhân này thành Chánh giác.

“Chí tâm hồi hướng” là lòng chân thành hồi hướng của mình.
“Chúng con hồi tâm nương Thánh chúng” tức là xoay tâm mình về nương với Thánh chúng.
“Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn” là chí thành cúi đầu đảnh lễ đức Phật.
“Nguyện đem công đức đến quần sanh”: Tất cả công đức tu hành nguyện đem đến cho tất cả quần sanh.
“Nương thắng nhân này thành Chánh giác”: Nương nhân thù thắng này, tức là nhân sám hối mà sau này được thành Chánh giác, nghĩa là thành Phật.

Trong bài có những từ ngữ chữ Hán cần giải thích cho quí vị hiểu. Trong bài Nhật Sơ Chúc Hương, câu “Phục dĩ thiềm luân tây một, Long chúc đông sanh” có dùng điển tích.

Thiềm luân là vầng thiềm, chỉ cho mặt trăng. Thiềm nói đủ là thiềm thừ là con cóc. Ngày xưa người ta nhìn trong mặt trăng thấy có bóng đen giống con cóc. Truyền thuyết nói rằng: Thuở xưa có chàng Hậu Nghệ xin được thuốc trường sanh của bà Tây Vương Mẫu đem về, nhưng bị vợ là Hằng Nga ăn cắp uống đi rồi trốn lên mặt trăng hóa thành con cóc ở đó. Thế nên người ta nói Hằng Nga ở trên cung trăng và gọi mặt trăng là thiềm luân.

Mặt trăng cũng còn gọi là bạch thố hay ngọc thố. Bạch thố là thỏ trắng, ngọc thố là thỏ ngọc. Thiên “Nghĩ thiên vấn” của Phó Hàm có câu: Nguyệt trung hà hữu? Đáp: Bạch thố đảo dược. Nghĩa là trong mặt trăng có gì? Đáp: Có con thỏ trắng giã thuốc, hay cũng nói con thỏ ngọc giã thuốc.

Sự tích này ngày nay đã lạc hậu, hẳn là ít ai dùng rồi.
Long chúc: chúc là ngọn đuốc, long chúc là ngọn đuốc rồng, chỉ mặt trời. Theo Sơn Hải Kinh nói: Phương Bắc bầu trời có một nước không có ánh sáng mặt trời, có con rồng ngậm lửa phun như cây đuốc cháy sáng.

CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện rộng mở sáng chánh kiến,
Hai nguyện lau sạch bụi trần mù,
Ba nguyện nhìn hình không đắm mến,
Bốn nguyện thấy sắc chẳng bận lòng.
Năm nguyện quên đầu cần kíp nhận,
Sáu nguyện mắt tuệ tự tròn đầy,
Bảy nguyện hiện nay sớm tỉnh mộng,
Tám nguyện hằng được sáng xưa nay.
Chín nguyện khi nhìn trừ mắt bệnh,
Mười nguyện chỗ thấy dứt không hoa,
Mười một nguyện trông xa mây chướng cuốn,
Mười hai nguyện chớp mắt nghiệp băng trong.
Nguyện thứ nhất là “rộng mở sáng chánh kiến” tức là nguyện sao cho cái thấy của mình luôn luôn đúng không sai chân lý.
“Hai nguyện lau sạch bụi trần mù”, nghĩa là tất cả những bụi trần che mờ nay đều lau sạch.
“Ba nguyện nhìn hình không đắm mến”, thấy tất cả hình sắc mình không mê, không đắm.
“Bốn nguyện thấy sắc chẳng bận lòng”, dầu thấy sắc đẹp lòng vẫn không vướng bận.
“Năm nguyện quên đầu cần kíp nhận”, nghĩa là chúng ta đã quên đầu phải mau nhận lại. Nguyện này có sự tích trong kin

h Lăng Nghiêm. Một buổi sáng chàng Diễn-nhã-đạt-đa cầm gương soi, nhìn trong gương thấy đầu mặt đẹp đẽ, anh úp gương xuống, không thấy đầu mặt, anh hốt hoảng ôm đầu chạy la: Tôi mất đầu, tôi mất đầu rồi! Đó là mê hay tỉnh? Chúng ta có giống như vậy không? Chúng ta cũng như chàng Diễn-nhã-đạt-đa, khi khởi nghĩ việc này việc kia lăng xăng thì cho là tôi đang nghĩ, tôi đang tính, bất chợt lúc nào quên không nghĩ tính, khi đó nói tôi mất rồi. Nghĩ tính chỉ là cái bóng duyên theo bóng dáng của sáu trần bên ngoài, không phải là thật, nhưng khi thấy nó, tưởng là tâm mình, đến khi mất nó tưởng như mất mình. Như chàng Diễn-nhã-đạt-đa điên là tại sao? Ôm cái thật mà chạy tìm cái giả. Tìm bóng là tìm cái giả. Chúng ta cũng thế, khi tâm không khởi niệm lăng xăng thì cái hiện tiền chân thật đầy đủ mà chúng ta lại quên, cứ cho là tôi đâu mất rồi. Đó là chúng ta chỉ biết cái bóng, cho cái bóng nghĩ lăng xăng là tôi, chớ không biết cái hiện tiền chân thật là tôi. Thế nên nguyện thứ năm này là nguyện từ lâu quên đầu, nay phải cần kíp nhận lại.

“Sáu nguyện mắt tuệ tự tròn đầy” là nguyện mắt trí tuệ của mình càng ngày càng tròn đầy.

“Bảy nguyện hiện nay sớm tỉnh mộng.” Cuộc sống của chúng ta hiện nay chỉ là một giấc mộng dài mấy mươi năm, nào có gì đâu, phải ráng sớm thức tỉnh, đừng nghĩ đó là thật rồi lầm quên cái chân thật của mình.

“Tám nguyện hằng được sáng xưa nay”, nghĩa là nguyện hằng sáng suốt thấy được cái chân thật đã có tự thuở nào đến nay chưa bao giờ thiếu vắng, không bao giờ mất.

“Chín nguyện khi nhìn trừ mắt bệnh”, nghĩa là khi nhìn người, vật không bị vô minh, không bị những huyễn hóa che lấp làm cho mắt chúng ta bị mờ đi, không thấy được rõ ràng.

“Mười nguyện chỗ thấy dứt không hoa”: nguyện thấy sự vật đúng như thật, không bị hoa đốm lăng xăng che mờ. Hoa đốm là do mắt lòa nên thấy không đúng sự thật.

“Mười một nguyện trông xa mây chướng cuốn”: nguyện nhìn ra xa những mây che đều tan mất, mắt mình thấy thông suốt.

“Mười hai nguyện chớp mắt nghiệp băng trong”: nguyện trong chớp mắt những nghiệp từ xưa đến nay che đậy đều được trong sạch như băng như tuyết, không còn chút nhơ bợn.

KỆ VÔ THƯỜNG BUỔI SỚM
Đêm tối vừa rạng sáng,
Ánh dương dần hiện không.
Tóc bạc thầm tới điểm,
Má hồng dần đổi thay.
Chẳng biết tuổi xuân ngắn,
Vẫn tranh nghiệp quả hùng.
Thân như băng gặp nắng,
Mạng tợ đuốc gió đùa.
Chớ mải mê làm khách,
Quay về sớm chiếu soi.
“Đêm tối vừa rạng sáng, ánh dương dần hiện không” là diễn tả thời gian trôi qua.

“Tóc bạc thầm tới điểm, má hồng dần đổi thay”: Tóc bạc len lén điểm trên đầu mỗi ngày một chút, chợt nhớ lại đầu đã muối tiêu, lâu nữa nhớ lại, đầu đã nhuốm bông lúc nào không hay. Má hồng cũng dần dần thay đổi, ngày xưa mặt hồng hào, nay khô lại, hiện những nếp nhăn.

“Chẳng biết tuổi xuân ngắn, vẫn tranh nghiệp quả hùng”: Không biết tuổi xuân ngắn ngủi, chỉ mải tranh nghiệp quả để thành kẻ anh hùng hảo hán, thành kẻ hay người giỏi. Đó chỉ là tạo nghiệp cho nhau.

“Thân như băng gặp nắng.” Băng, hay nói dễ hiểu hơn là nước đá. Nước đá để ngoài trời nắng, chỉ một chốc là tan hết. Thân này cũng như vậy, ngày nay đi lại lăng xăng, đến một hôm nào nó cũng tan hoại.

“Mạng tợ đuốc gió đùa”: Mạng như ngọn đuốc, gió thổi mạnh một lát sau nó tàn rụi.

“Chớ mải mê làm khách”: Đừng mải mê làm khách phong trần rong ruổi trong tam giới lục đạo, lang thang nơi này nơi khác, không chịu trở về.

“Quay về sớm chiếu soi”: Quay về chiếu soi lại chính mình. Đó là tinh thần thiền. Thiền là quay lại chiếu soi nơi mình, không chạy theo cảnh; đuổi theo cảnh là làm khách. Biết xoay lại mình tức là tìm ra quê hương, trở về quê hương. Lời nhắc nhở rất rõ ràng nên mỗi khi đọc tụng chúng ta phải nhớ để ráng tu.

DÂNG HƯƠNG BUỔI TRƯA

Cúi mong, ánh dương rực rỡ, bầu trời chói chang. Nhìn lại ngày cứ trôi qua, đến Phật khấn cầu. Lòng tin tỏ bày dưới tòa báu, thắp nén hương trầm cắm lò châu. Hương này hun đúc bởi tiên thiên, chẳng phải Bồng đảo châu sản xuất; ngát thơm quả đất, nào do chiên-đàn sanh ra. Danh phẩm hơn cả trầm tiên, mùi vị vượt xa lan xạ. Chỗ tỏa khói lành, bởi lửa tam-muội đốt; mây hương bủa khắp, vốn từ khí nhất nguyên tan. Mỗi mỗi trên đảnh đều thấu triệt, người người trong mũi thảy ngửi mùi.
Đây do Nghi sám hối, làm lễ dâng hương. Nay giờ ngọ thắp hương cúng dường.

“Ánh dương rực rỡ bầu trời chói chang.” Dâng hương vào buổi trưa đúng ngọ, ánh nắng chói chang cả bầu trời.

“Nhìn lại ngày cứ trôi qua, đến Phật khấn cầu.” Nhìn lại những ngày đã qua, ngày qua không dừng một chỗ. Ngày qua, tháng qua, năm qua, tuổi chúng ta theo thời gian không dừng lại. Cái chết gần kề nên đến Phật khấn cầu.

“Lòng tin tỏ bày dưới tòa báu.” Đem lòng tin sám hối tỏ bày dưới tòa báu, tức là tòa đức Phật ngồi.

“Thắp nén hương trầm cắm lò châu”, đem nén hương trầm cắm trong lư hương châu ngọc, vì trên là tòa báu, dưới là lò châu để đối nhau.

“Hun đúc bởi tiên thiên, chẳng phải Bồng đảo châu sản xuất.” Hương cúng dường Phật hun đúc bởi tiên thiên. Tiên thiên đối với hậu thiên, tiên thiên là trước, hậu thiên là sau. Tức là mùi hương này hun đúc sẵn từ thuở nào, không phải do nơi đảo Bồng lai của các vị tiên sản xuất. Tục truyền chỗ tiên ở gọi là Bồng đảo hay Bồng lai tiên cảnh. Theo truyền thuyết, những đảo thần tiên phần nhiều ở trên biển Bột hải.

“Ngát thơm quả đất, nào do chiên-đàn sanh ra”, mùi thơm ngát của hương tỏa khắp quả đất, không phải do cây chiên-đàn tạo. Hương cúng dường Phật, là hương từ tâm chúng ta, do giới, định, tuệ phát sanh, không phải hương từ đảo tiên đem lại, cũng không phải từ cây chiên-đàn ra.

“Danh phẩm hơn cả trầm tiên, mùi vị vượt xa lan xạ”, giá trị của hương này hơn cả hương trầm tiên ở nước ta có tiếng là rất thơm. Nó vượt hơn mùi thơm của hoa lan, hay xạ của loài chồn.

“Chỗ tỏa khói lành, bởi lửa tam-muội đốt”, hương giới, định, tuệ phát ra khói thơm tỏa khắp là do ngọn lửa tam-muội đốt. Tam-muội là chữ Phạn, Trung Hoa dịch là chánh định.

“Mây hương bủa khắp, vốn từ khí nhất nguyên tan”, nghĩa là mùi hương này bủa khắp cả trời đất, nhưng không phải từ đâu đến mà chính từ tâm thể nhất chân bủa ra, phủ khắp.

“Mỗi mỗi trên đảnh đều thấu triệt.” Ngài nói tất cả chúng ta trên đảnh đầu đều thấu triệt mùi hương đó, tức là phải nhìn tường tận, tột cùng thể nhất nguyên hay khí nhất nguyên.
“Người người trong mũi thảy ngửi mùi”, ai ai ở trong mũi đều ngửi được mùi hương, đó là hương giới, định, tuệ từ thể nhất tâm ra. Ngài mượn hình tướng thắp hương cúng dường Tam Bảo để nói lên tâm chúng ta là gốc phát ra giới, định, tuệ; giới định tuệ tức là mùi hương bủa khắp tất cả, không do các thứ cây cối hoặc loài vật sanh ra.

“Đây do Nghi sám hối, làm lễ dâng hương”, là do nghi lễ sám hối nên làm lễ dâng hương. “Nay giờ ngọ thắp hương cúng dường.”

KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

KỆ DÂNG HOA
Tâm địa mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa, vẫn kém thơm,
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.
HIẾN DÂNG HƯƠNG HOA RỒI BẠCH

Nguyện mây hương hoa này, qua đầy mười phương cõi, cúng dường tất cả Phật, tôn Pháp, chư Bồ-tát, vô lượng chúng Thanh văn và tất cả Thánh Hiền; từ đài Quang minh dậy, qua vô biên thế giới, trong vô biên cõi Phật, thọ dụng làm Phật sự; khắp huân các chúng sanh, đều phát tâm Bồ-đề.

Cúng dường rồi, chí tâm qui mạng lễ, mười phương Vô thượng Tam Bảo.
Các bài này đã giảng trong bài trước.
TÂU BẠCH
(Lại niêm hương quì bạch)
Quì niệm hương.
Kính bạch: Mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư, chuyển sáu đạo thành sáu thần thông, nhiếp chín loài về chín phẩm.

Mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư đã giảng trong bài trước.

“Chuyển sáu đạo thành sáu thần thông.” Trong nhà Thiền, sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý khéo tu cũng chuyển thành sáu thần thông: Thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông v.v... Như vậy nguyện Phật thương giúp chúng ta chuyển sáu đạo thành sáu thần thông.

“Nhiếp chín loài về chín phẩm.” Chín loài là thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng. Hiểu theo tinh thần đạo Phật, chúng sanh trên thế gian này không phải chỉ có một loài thai sanh như con người hay các loài thú, mà còn có noãn sanh là sanh bằng trứng, thấp sanh là sanh chỗ ẩm ướt, hóa sanh tức không phải do ái dục mà là theo nghiệp hóa sanh, các loài chúng sanh có hình sắc, loài chúng sanh không hình sắc, loài chúng sanh có tâm tưởng, loài chúng sanh không tâm tưởng, rồi cuối cùng có loài chúng sanh không phải có tưởng không phải không tưởng, tức là loài chúng sanh này có tưởng rất là vi tế. Hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng phi vô tưởng, năm loài này do tu thiền mà được. Trong kinh Phật thường dạy những chúng sanh nào được định Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền thì sanh cõi trời Sắc giới, do đó trong cõi trời Sắc giới có Sơ thiền thiên, Nhị thiền thiên, Tam thiền thiên, Tứ thiền thiên, tu được Tứ thiền trong nhà Phật gọi là Phàm phu thiền, vì thiền đó còn luân hồi sanh tử. Những người tu quán về không tưởng, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ thì sanh cõi trời Vô sắc. Những chúng sanh tu thiền mà còn tư tưởng thì sanh cõi trời hữu tưởng. Cõi trời đó không có hình tướng, chỉ còn tư tưởng. Còn những chúng sanh nào không còn tư tưởng thì gọi là sanh cõi vô tưởng rồi tới phi hữu tưởng phi vô tưởng là cao nhất. Qua khỏi chín loài này mới tới Diệt thọ tưởng định, chứng A-la-hán, đó là siêu xuất sanh tử.

Như vậy trên thế gian, theo con mắt nhà Phật, không phải chúng sanh nào cũng có thân nặng nề mấy mươi ký như chúng ta, chúng sanh ở cõi Vô sắc làm sao có tướng, hữu tưởng vô tưởng cũng không có tướng, phi hữu tưởng phi vô tưởng cũng vậy. Thế nên những hành tinh không thích hợp với con người, biết đâu lại thích hợp với những loài khác, chớ không phải chúng sanh nào cũng giống hệt chúng ta, nên không thể lấy con người làm tiêu chuẩn nghiên cứu. Nếu hiểu theo nhà Phật thì chắc rằng trên thế giới có nhiều cõi có những chúng sanh khác như vô sắc thì mắt chúng ta đâu có thấy, hay là hữu tưởng, chỉ có tâm tưởng, chúng ta cũng không thấy... Nếu chúng ta muốn tìm biết hết trong vũ trụ này không biết chừng nào mới xong, chỉ mắt Phật mới thấy tường tận.

Chín phẩm tức chín phẩm Liên Hoa (cửu phẩm Liên Hoa) là nói theo tinh thần Tịnh độ. Sanh về Cực Lạc có Thượng phẩm, Trung phẩm, Hạ phẩm. Mỗi phẩm chia làm ba. Thượng phẩm có Thượng phẩm thượng sanh, Thượng phẩm trung sanh, Thượng phẩm hạ sanh. Trung phẩm có Trung phẩm thượng sanh, Trung phẩm trung sanh, Trung phẩm hạ sanh. Hạ phẩm cũng vậy, có thượng, trung, hạ sanh. Chung tất cả là chín phẩm.

Trộm nghe: Gà xóm gáy trưa, mặt trời đứng bóng. Vòm trời cao ánh dương vừa đến giữa, khắp nơi dương liễu bóng đứng ngay.

Ngài diễn tả rất cụ thể, “gà xóm gáy trưa” là mười hai giờ trưa nghe gà gáy. “Mặt trời đứng bóng, vòm trời cao ánh dương vừa đến giữa, khắp nơi dương liễu bóng đứng ngay”, dương liễu rọi bóng thẳng xuống không có nghiêng lệch.

Nắng rọi sân hoa vờn ngọc, gió đưa rặng liễu lay vàng.

Cảnh rất nên thơ, nắng rọi xuống sân hoa rung rinh như vờn ngọc; gió đưa rặng liễu lung lay trong ánh nắng như lay vàng.

Long lanh rực rỡ chiếu dao đài, lấp lánh chập chờn soi thềm ngọc.

Dao đài là chỗ ở của thần tiên, nghĩa là ánh nắng long lanh rực rỡ soi chiếu như chỗ ở của thần tiên, chập chờn lấp lánh rọi trên thềm giống như thềm ngọc.

Lò nghê hương quyện, trời xanh vầng nhật chói chang.

Có hai loại nghê: một loại là loài thú giống như sư tử, một loại là cá kình (có bộ ngư ở bên). Thường các lư hương hay chạm hình sư tử hoặc hình cá kình. Lò nghê hương quyện tức là lò hương chạm hình sư tử quyện khói. Trong bầu trời xanh mặt trời soi sáng, ánh nắng chói chang.

Gối tiên giấc nồng, trên gác tía ngày dài đêm ngắn.

Những vị thảnh thơi trưa nằm trên gác tía kê đầu trên gối ngủ một giấc say, đêm ngủ chưa đủ nên trưa ngủ tiếp. Đó là chỉ người thích ngủ trưa nhiều.

Hè cao độ thì chảy vàng nứt đá. Đông cực hàn thì sương phủ tuyết rơi.

Đây là tả cảnh ở ngoài Bắc với Trung Hoa hay các nước khác. Còn ở miền Nam hè cao độ chưa đến chảy vàng, nứt đá, đông chỉ có sương chớ không có tuyết. Đây là Ngài tả sức nóng và lạnh của mùa hè và mùa đông.

Nắng trưa bụi mù trong sạch, bóng xế mây tối quét tan.

Trưa nắng nên tất cả những mây mù đều không còn, bóng hơi xế thì mây tối đều tan hết.

Đối cảnh tánh thiên rỗng suốt, ngay đó tâm địa sáng ngời.

Đối với sáu trần hay ngoại cảnh, tánh thiên là tánh sẵn có của chúng ta rỗng suốt, chính ngay lúc đó, tâm địa mình được sáng ngời. Người tu khi đối cảnh phải có tánh sáng suốt, không bị ngoại cảnh ngăn trở, nghĩa là không dính mắc ngoại cảnh. Chúng ta hiện nay đối cảnh thì phàm tình dính mắc, đương thời thì vọng tưởng lăng xăng. Chúng ta phải tu như thế nào để được đối cảnh tánh thiên rỗng suốt, ngay đó tâm địa sáng ngời.

Nơi nơi thảy có quang minh, bước bước trọn không hắc ám.
Nơi nào cũng thấy rõ ràng sáng suốt, mỗi bước đều không mờ mịt tối tăm, thế mới thật là người ngộ đạo.

Tóm lại người thâm nhập được lý đạo thì đối cảnh tâm tánh rỗng suốt không bị dính kẹt, ngay khi đó tâm địa sáng ngời không bị phủ che, nơi nơi đều sáng rỡ, bước bước không mịt mờ. Trái lại chúng sanh đối cảnh tâm luôn dính mắc, đương thời niệm khởi lăng xăng, nơi nơi đều mù tối, bước bước thảy rộn ràng. Mê và giác khác nhau như vậy. Nay thử nghiệm xem những người giác chút ít có được như thế này chưa? Nếu chưa được là điều đáng hổ thẹn, phải nên cố gắng. Chúng ta thường nói hành thiền, nghĩa là đi thiền, mỗi bước phải ở trong tỉnh giác. Nếu đi trong mê lầm đó là hắc ám chẳng phải hành thiền. Thế nên người tu phải luôn nhớ đi trong sáng suốt.

Chư Phật tử! Mặt trời đúng ngọ rồi phải xế, con người có thạnh ắt có suy.

Đó là Ngài cảnh giác chúng ta, nhìn mặt trời thấy đúng ngọ, một lát sau đã xế. Như vậy mặt trời lên cao rồi xuống thấp, có giữa trưa phải có xế chiều. Sự sống của chúng ta cũng vậy, thạnh rồi phải suy. Như hiện giờ quí vị hai mươi, ba mươi tuổi, là lúc cơ thể thạnh nhưng rồi sẽ bốn mươi, năm mươi, không dừng một chỗ mà luôn thay đổi. Biết rõ mặt trời có trưa có xế, thân người có thạnh có suy thì khi thạnh phải nghĩ đến lúc suy. Vậy chúng ta phải làm gì? Lo tranh cãi hơn thua hay là cố gắng tu hành không để thì giờ uổng phí?

Thân thể chẳng bền lâu, giàu sang khó giữ mãi.

Thân chúng ta không bền lâu, rồi cũng sẽ mất; sự giàu sang ở thế gian cũng khó giữ mãi, duyên tốt thì giàu, duyên suy thì nghèo khó.

Nhanh chóng như nước chảy trên sông, lẹ làng tợ mây qua đỉnh núi.

Sự đổi thay nhanh chóng như dòng nước chảy trên sông, lẹ làng như mây qua đỉnh núi. Chúng ta thấy mọi sự vật chuyển biến không dừng, thân chúng ta cũng vậy, chuyển từ trẻ lần đến già không dừng lại một phút giây nào, vậy chúng ta phải khéo lo liệu. Ngài khuyên:

Bình sanh chẳng tạo nhân lành, ngày khác ắt về đường khổ.

Khi còn sống chúng ta bon chen giành giật không chịu tạo nhân lành nên đến lúc nhắm mắt, bảo đảm sẽ đi trong đường khổ không nghi.

Quyết khởi tin sâu, trừ sạch nghi ngờ.

Vậy chúng ta phải quyết tâm khởi lòng tin sâu về lý vô thường của Phật dạy, trừ sạch hết nghi ngờ để cố gắng tu hành đến nơi đến chốn.

Sớm nở tâm châu chư Phật, chiếu phá thùng sơn chúng sanh.

Hai câu này mang tính cách thiền. Sớm nở tâm châu chư Phật tức là phải khai mở tâm chân thật nơi mình, đừng để bị khuất lấp. Chiếu phá thùng sơn chúng sanh, thùng sơn là cái gì đen kịt và dẻo dai, chùi không ra, rửa không sạch. Quí vị có mang thùng sơn đó không? Có nhiều người than là cố gắng tu nhưng sao bỏ thói cũ không được, thói cũ là sơn đã dính chùi không ra. Thế thì ai cũng mang một thùng sơn đen kịt. Nay phải làm sao cho cái thùng thủng đi, sơn chảy hết ra, nhà thiền gọi là đập bể thùng sơn. Muốn cho thùng sơn bể chỉ có tâm chân thật của mình mở ra, thùng sơn mới bể. Trái lại nếu tâm chân thật nơi mình không mở thì thùng sơn không thể nào lủng đáy được. Do đó khi tu chúng ta phải cố gắng thâm nhập được tâm chân thật của chính mình. Tâm ấy còn gọi là Tri kiến Phật, nếu được phát triển thì thùng sơn phiền não tối tăm sẽ tan nát.

Đệ tử chúng con kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ buổi trưa.
Tâu bạch rồi, chí tâm qui mạng lễ mười phương ba đời Vô thượng Tam Bảo.
Khải bạch xong bắt đầu sám hối.
SÁM HỐI TỘI CĂN TAI
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

Những câu này đã giảng trong bài trước.
NGHIỆP CĂN TAI LÀ:
Ghét nghe chánh pháp, thích lắng lời tà;
Mê mất gốc chân, đuổi theo ngoại vọng.
“Ghét nghe chánh pháp”: ngồi nghe kinh một chút là muốn ngủ gục và nói: Cứ đem mấy điều luân lý nói hoài chán quá! T

rái lại nếu ai ca hát hoặc nói đùa chơi v.v... thì chú tâm nghe không biết chán, lại còn nhớ nữa. Đó là bệnh của tai. Thế nên “mê mất gốc chân, đuổi theo ngoại vọng”. Vì thích lời tà nên quên mất gốc chân. Mê đây là quên cái chân thật của chính mình. Đuổi theo ngoại vọng là đuổi theo những vọng tưởng điên đảo bên ngoài. Chỉ bốn câu đã thấy bệnh chúng ta cũng trầm trọng.

Sáo đàn inh ỏi, bảo khúc long ngâm;

Văng vẳng mõ chuông, coi như ếch nhái.
Nghe tiếng sáo tiếng đàn thì khen ngợi là hay như những khúc long ngâm. Long ngâm là tên một khúc nhạc hay thời cổ Trung quốc. Theo Trịnh Thuật Tổ truyện trong bộ Bắc Tề Thư thì Trịnh Thuật giỏi đàn, tự chế ra mười bài long ngâm nên được xem là Tổ về long ngâm, vì thế người ta gọi là Tổ Thuật. Nói đến long ngâm là nói đến những bản nhạc hay. Còn nghe chuông nghe mõ thì cho là inh ỏi giống như nhái ếch kêu chớ không quan tâm. Đó là hai hình ảnh mà tai chúng ta hay lầm lẫn.

Câu ví bài vè, bỗng nhiên để dạ;
Lời kinh câu kệ, không chút lắng tai.

Bài vè, câu ví là những bài có vẻ chế nhạo kẻ này người kia. Câu ví bài vè nghe qua liền thuộc nhớ, còn lời kinh câu kệ nghe thì buồn, bỏ đi không chút lắng tai.
Thoảng nghe khen hão, khấp khởi mong cầu;
Biết rõ lời lành đâu từng ưng nhận.

Khen hão tức là khen để được lòng. Mình không tốt nhưng muốn được lòng mình thì người khen đủ điều tốt. Thoảng nghe khen hão liền thích, khấp khởi mong cầu, chờ xem còn khen thêm gì nữa. Nếu bị chê thì không thích nghe. Đó là bệnh của đa số chúng ta. “Biết rõ lời lành đâu từng ưng nhận”, những lời lành người ta khuyên thí dụ chúng ta đang buồn giận một người nào, huynh đệ tới khuyên thôi đừng buồn giận e chướng đạo v.v... thì không ưng thuận. Chúng ta phải kiểm lại bệnh của mình, nếu có, phải tha thiết sám hối.

Vài ba bạn rượu, năm bảy khách chơi;
Tán ngắn bàn dài, châu đầu nghe thích.

Những người uống rượu nói việc say sưa hoặc những kẻ kể chuyện ăn chơi, khen chê v.v... nghe những điều đó mình lại lắng tai, chuyện không nên nghe mà tai cứ thích. Đó là rất dở.
Hoặc gặp thầy bạn, dạy bảo đinh ninh;
Những điều hiếu trung che tai bỏ mặc.

Thầy bạn dạy nhắc hết lời khô cổ mà che tai không chú ý.
Hoặc nghe tiếng xuyến, bỗng nảy lòng dâm;
Nghe nửa câu kinh, liền như tai ngựa.

Trong Luật kể chuyện một Sa-di ở trong phòng, một cô thiếu nữ đi bên ngoài, tiếng xuyến chạm khua, ông liền động tâm.

“Nghe nửa câu kinh liền như tai ngựa”, nghĩa là nghe nửa câu kinh rồi nghễnh tai không biết gì, không chú ý. Thường người ta hay nói đàn khảy tai trâu hay nước xao đầu vịt là nghe mà không dính dáng. Lẽ ra người tu nghe kinh thì phải lắng tai chăm chú nhưng trái lại nửa câu kinh cũng không chịu nghe, nếu có nghe thì không lọt vào tai, không dính vào tâm. Đó là để chỉ bệnh xem thường đạo lý chỉ thích những điều tầm thường ở thế gian.

Những tội như thế, vô lượng vô biên,
Đầy ắp bụi trần, kể sao cho xiết.

Những tội như vậy nhiều vô lượng vô biên, như bụi đầy cả không gian không sao kể hết.
Sau khi mạng chung, rơi ba đường ác,
Hết nghiệp thọ sanh, lại làm người điếc.

Bởi tai tạo tội như thế nên sau khi chết phải đọa ba đường ác: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Khi nghiệp ác trong địa ngục đã hết, còn dư báo nên sanh làm người điếc.
Nếu không sám hối, khó được tiêu trừ,
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

Đây là ngài Trần Thái Tông nhắc lại cho chúng ta nhớ những bệnh của mình để chừa sửa, nếu không thì do thói quen cứ chạy theo điều dở, không biết quí những điều hay, nên phải trầm luân nhiều đời nhiều kiếp. Nay thức tỉnh phải bỏ những điều dở, lắng nghe những điều hay thì khả dĩ mới tiến được.

CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật
Và chư Bồ-tát Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng,
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).

CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ,
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang thập địa nguyện sớm lên,
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm về Thánh chúng,
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh,
Nương thắng nhân này thành Chánh giác.

Những bài này đã giảng trong bài trước.
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện nghe tiếng liền ngộ đạo,
Hai nguyện nghe khổ sớm tu hành,
Ba nguyện nghe suốt khắp bốn phương,
Bốn nguyện nghe vui vô sanh tột.
Năm nguyện lời tà tai chẳng dính,
Sáu nguyện chánh ngữ chóng nghe rành,
Bảy nguyện tiếng pháp thường gần gũi,
Tám nguyện trống pháp cần lắng nghe.
Chín nguyện Quán Âm cùng tay nắm,
Mười nguyện Khánh Hỉ đồng nổi danh,
Mười một nguyện nhóm điếc thường phá chướng,
Mười hai nguyện hai tai hằng suốt thông.
“Một nguyện nghe tiếng liền ngộ đạo”, nghĩa là nguyện nghe một câu, một lời liền ngộ đạo.
“Hai nguyện nghe khổ sớm tu hành” là nghe kể lại cảnh khổ liền thức tỉnh, lo tu hành sớm.
“Ba nguyện nghe suốt khắp bốn phương”, nghĩa là tiếng khắp bốn phương hay mười phương, tai đều nghe suốt không trở ngại.
“Bốn nguyện nghe vui vô sanh tột.” Nghe những điều vui liền tột cùng được lý vô sanh, không phải nghe vui rồi nhiễm theo điều vui.
“Năm nguyện lời tà tai chẳng dính”, tức là nghe lời nói sai, lời vô nghĩa đều không dính mắc.
“Sáu nguyện chánh ngữ chóng nghe rành.” Những lời chân chánh nghe được rõ ràng không nghi ngờ, không khó hiểu.
“Bảy nguyện tiếng pháp thường gần gũi”, nơi nào có giảng kinh thuyết pháp mình thường gần gũi để được nghe.
“Tám nguyện trống pháp cần lắng nghe”, thường lắng nghe trống pháp cho được thâm nhập.
“Chín nguyện Quán Âm cùng tay nắm”, nguyện nắm tay Bồ-tát Quán Thế Âm tức là nguyện làm bạn đồng tu hành với Bồ-tát Quán Thế Âm. Bồ-tát Quán Thế Âm tu pháp phản văn văn tự tánh, nên nguyện mình cũng được như Ngài.
“Mười nguyện Khánh Hỉ đồng nổi danh.” Khánh Hỉ là tên ngài A-nan, khi Ngài sanh ra trong triều đình được tin Phật thành đạo dưới cội bồ-đề, cả vua quan đều vui mừng nên đặt tên Ngài là Khánh Hỉ. Ngài Khánh Hỉ nổi danh đa văn đệ nhất. Như vậy trên nguyện học được hạnh phản văn tự tánh của Bồ-tát Quán Thế Âm, dưới nguyện đồng với ngài A-nan được nổi danh đa văn đệ nhất.
“Mười một nguyện nhóm điếc thường phá chướng”, phá hết chướng là hết ngăn che, nguyện cho tất cả người điếc đều nghe được thông suốt.
“Mười hai nguyện hai tai hằng suốt thông”, nguyện cho hai tai mình được suốt thông luôn luôn không trở ngại.
KỆ VÔ THƯỜNG THỜI NÀY
Chớp mắt vầng ô vừa mới mọc,
Quay đầu bóng nhật giữa vòm trời.
Trọn tham gỗ mục say mê ngủ,
Nào tỉnh bóng hòe đã đổi dời.
Phút chốc hoa tươi lần rơi rụng,
Dần dà mạng nấm thạnh rồi suy.
Mọi người sớm tỉnh xoay soi lại,
Tự khổ ruổi rong khắp nẻo đường.

Đây là lời nhắc nhở lý vô thường để chúng ta thức tỉnh.
Chớp mắt vầng ô vừa mới mọc,
Quay đầu bóng nhật giữa vòm trời.

Buổi sáng mặt trời mới mọc, bận việc lăng xăng một chút nhìn lên là đúng ngọ. Mặt trời đổi dời rất nhanh chóng, ngồi gẫm lại thật tức cười cho con người. Trái đất quay đều đều con người lại đặt từng chặng là một giờ, hai giờ v.v... nhưng trái đất đâu có dừng lúc nào. Nó chỉ quay đều, phía mặt trời thấy sáng, khuất mặt trời thấy tối, con người lại đặt ra ngày đêm, tháng năm để tính toán; như vậy tất cả chúng ta có mặt trên cõi đời này, dù nói năm, bảy mươi năm thật ra có nghĩa lý gì đâu, trái đất cứ quay đều, con người có mặt rồi mòn chết. Thế mà ngồi thiền cứ tính giờ tính khắc! Nên nghiêm chỉnh ngồi đến giờ kiểng đánh, đừng trông đợi làm chi, vì trông hay không thời gian vẫn cứ trôi. Khi ngồi nói chuyện đùa chơi, bàn lý này lẽ kia, không trông mà giờ qua mau quá, còn ngồi thiền nghiêm chỉnh lại thấy lâu, nghe mỏi lưng, nhức tay chân mà vẫn chưa hết giờ. Đó là do chúng ta đặt thời gian là quan trọng. Nay đừng nghĩ tới thời gian, chỉ biết tâm yên là vui, chớ muốn thời gian đi mau cũng không được.

Trọn tham gỗ mục say mê ngủ,

Nào tỉnh bóng hòe đã đổi dời.

Thân này như khúc gỗ mục, mà cứ ráng lo bảo vệ nó. Ví như chúng ta đi ngoài biển, thuyền bị đắm chợt gặp khúc gỗ mục chúng ta đeo nó nên không bị chết chìm. Nhưng đeo khúc gỗ mục rồi tự mãn, hay điều tối thiết yếu là phải ráng bơi vào bờ vì khúc gỗ mục rồi cũng nát, không thể bảo vệ nó mãi. Nói không bảo vệ không có nghĩa là mình bẻ nó nát ra từng mảnh, vì nếu nát mà chưa tới bờ thì chết chìm. Vậy tuy biết thân này như khúc gỗ mục nhưng chưa được giác ngộ, phải lợi dụng nó để làm phương tiện tiến tu. Nếu chưa giác ngộ mà liều chết chẳng những không đạt được kết quả tu hành mà cũng uổng đi một kiếp!

Tóm lại tuy thân này tạm bợ như khúc gỗ mục, nhưng chúng ta đã có mặt nơi đây, phải lợi dụng nó để tiến đến giác ngộ chớ không ôm khúc gỗ mục và bảo vệ nó, ở mãi ngoài biển thì sẽ chết chìm. Cũng không phá đập nó cho nát, vì đó cũng là chết chìm. Hai quan niệm này đều cực đoan, trong nhà Phật gọi một bên là hành lạc, một bên là khổ hạnh. Vậy chúng ta phải xử thế nào? Không bảo vệ tối đa, cũng không hủy hoại, phải tạm nhờ nó đưa chúng ta đến bờ. Khi chưa đến bờ, chỗ nào mục chúng ta kết lại để còn chỗ tựa, đến bờ rồi nó là vô nghĩa. Đó là quan niệm của người tu chân chánh. Thế nên ở đây chúng ta tu không bắt buộc phải thức suốt ngày đêm vì như thế khúc gỗ dễ bể dễ nát. Nhưng cũng không phải ăn nhiều ngủ nhiều cho khỏe mạnh lâu dài, chỉ cần vừa đủ sống và cố gắng tiến tu, thế mới đúng ý nghĩa nương khúc gỗ mục này.

“Nào tỉnh bóng hòe đã đổi dời.” Mải vùi đầu ngủ, bóng hòe đã đổi dời tức đã xế rồi. Cho nên buổi trưa ngủ một tiếng là đủ, đừng ngủ mãi tới chiều.

Phút chốc hoa tươi lần rơi rụng,

Dần dà mạng nấm thạnh rồi suy.

Cuộc đời chúng ta như một đóa hoa buổi sáng nở, xế chiều héo tàn. Đang tươi thắm đẹp đẽ, phút chốc từ từ rơi rụng. Những tai nấm mọc, vươn lên khỏi đất thấy tròn trịa, đến chiều tàn dần. Qua hai câu trên, Ngài ví thân chúng ta như một đóa hoa, như một tai nấm, tươi tốt đó rồi tàn úa đó. Biết thân tạm bợ không lâu bền, phải khéo lợi dụng nó để tiến tu, đừng chần chờ.

Mọi người sớm tỉnh xoay soi lại,

Tự khổ ruổi rong khắp nẻo đường.

Xoay là quay lại, soi là soi sáng. Chúng ta phải sớm thức tỉnh đừng hướng ra ngoài, phải quay lại soi sáng chính mình, một ngày nào chúng ta liền thấy được cái chân thật của mình. Như vậy là Ngài khuyên chúng ta phải tỉnh tu. Tu không phải chỉ trong giờ ngồi thiền mà cả khi đi đứng nằm ngồi, đều phải biết mình từng phút từng giây.

“Tự khổ ruổi rong khắp nẻo đường”, tức là chúng ta tự đày ải mình, chạy nơi này nơi kia, đuổi theo tài sắc, danh lợi, theo những ảo ảnh bên ngoài, không biết dừng lại để được an lành. Thí dụ như được một chức phận gì, khi chết nó có cứu được mình không? Hoặc đuổi theo tài sắc, muốn được thỏa mãn, nên suốt đời chỉ là chuốc khổ thôi. Để kết thúc Ngài khuyên chúng ta phải thức tỉnh quay về soi lại mình, những kẻ chỉ biết rong ruổi ra ngoài, sẽ chuốc khổ trong đời này kể cả đời sau. Lời khuyên này rất quí báu, mỗi khi đọc lại, chúng ta thức tỉnh, nhớ tu hành.

DÂNG HƯƠNG BUỔI MẶT TRỜI LẶN

Cúi mong, chân trời ráng hiện, khói tụ non xa. Thân đến đàn tràng thanh tịnh, đầu lễ Hiền Thánh từ bi. Mong thấu lòng thành, kính đốt hương báu. Hương này danh cao ở Bồng đảo, phẩm lạ ở Lục dương. Nào phải trầm thủy dâng từ Lâm Ấp, chẳng như tô du cống hiến của Đại Tần. Mùi hơn xạ hương ở Phong huyện, vị quá Ô Trành long não. Riêng chiếm giá cao bậc nhất, mùi thơm vượt hẳn các hương. Hương báu vừa bay, chiếu phạm huân thành đàn thế giới. Lò vàng mới đốt, xoay vần kết tụ thận lầu đài. Tìm đến Càn thành tan ảo hóa, ngửi mùi địa ngục hết chua cay. Nay mặt trời lặn, thắp hương cúng dường.

Thắp hương cúng dường mà cũng rất nên thơ.
“Cúi mong, chân trời ráng hiện”, khi mặt trời lặn, chân trời hiện ráng vàng và khói tụ ở non xa.

“Thân đến đàn tràng thanh tịnh, đầu lễ Hiền Thánh từ bi”, đến trước Phật điện đảnh lễ Phật, Bồ-tát, mong các ngài thấu tấm lòng thành, nên đốt hương báu này cúng dường.

“Hương này danh cao ở Bồng đảo” tức là ở đảo Bồng lai, hương này rất quí.

“Phẩm lạ ở Lục dương.” Lục dương là biển xanh, chỉ một đảo ở ngoài biển như đảo Bồng lai, có người nghi đảo này ở biển Thái Bình Dương.

“Nào phải trầm thủy dâng từ Lâm Ấp.” Lâm Ấp chỉ cho miền Trung nước Việt Nam khoảng tỉnh Thừa Thiên, Quảng Ngãi trở vào trong. Thời Hán xâm chiếm Nam Việt thì đây là vùng đất gọi là huyện Tượng Lâm.

“Chẳng như tô du cống hiến của Đại Tần”, tô du là một thứ dầu thơm từ Đại Tần đem qua. Đại Tần là chỉ các nước Ba Tư, Ai Cập, La Mã.

“Mùi hơn xạ hương ở Phong huyện.” Xạ hương là mùi thơm của con xạ, tức là một con thú rừng giống như con hươu nhỏ, không có sừng, lông đen, dưới bụng có một bọng da lớn bằng quả trứng gà, mùi rất thơm gọi là xạ hương. Phong huyện là tên một huyện ở phía Tây Bắc huyện An Hương tỉnh Hồ Nam, thuộc Trung Quốc.

“Vị quá Ô Trành long não.” Ô Trành là nước Ô Trành, tên một nước ở phía bắc Ấn Độ.

“Riêng chiếm giá cao bậc nhất, mùi thơm vượt hẳn các hương.” Hương này là hạng nhất, hơn tất cả loại hương.

“Hương báu vừa bay, chiếu phạm huân thành đàn thế giới.” Hương báu này bay tới đâu, những nơi đó đều trải chiếu thanh tịnh huân tập thành đàn tràng khắp cả thế giới.

“Lò vàng mới đốt, xoay vần kết tụ Thận lầu đài.” Thận lầu đài là dịch chữ thận khí lâu, lâu là lầu, thận là con sò, trong kinh thường hay dụ lầu sò. Khi khí trời tạnh trong, ngoài hải đảo có những ảnh giả do ánh sáng soi mặt biển rọi lên trên không thành muôn hình vạn trạng, ngày xưa cho là con sò thần hóa ra nên gọi là thận lâu thị, còn gọi là Càn-thát-bà thành, tức thành Càn-thát-bà, mắt nhìn thấy mà không có thật, đó là ảo ảnh. Thế nên:

“Tìm đến Càn thành tan ảo hóa”, Càn thành là thành Càn-thát-bà, biến tan như ảo hóa.

“Ngửi mùi địa ngục hết chua cay”, ai ngửi được mùi thơm của hương báu này thì những khổ đau ở địa ngục đều dứt.

“Nay mặt trời lặn, thắp hương cúng dường.”
KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

KỆ DÂNG HOA
Tâm địa mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa, vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.
HIẾN DÂNG HƯƠNG HOA RỒI BẠCH

Nguyện mây hương hoa này, khắp cả mười phương cõi, cúng dường tất cả Phật, tôn Pháp chư Bồ-tát, vô lượng chúng Thanh văn và tất cả Thánh Hiền; vừa rời đài Quang minh, qua cõi nước vô biên trong vô biên cõi Phật, nhận dùng làm Phật sự, xông khắp các chúng sanh, đều phát tâm Bồ-đề.

Cúng dường rồi, chí tâm qui mạng lễ mười phương Vô thượng Tam Bảo.
Những bài này đã giảng.
TÂU BẠCH
(Niêm hương quì bạch)

Kính bạch: Mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư. Vung kiếm tuệ ở rừng tà, quạt gió từ vào nhà lửa.

“Mười phương Đại Giác” tức là chư Phật khắp mười phương. “Ba đời Hùng Sư” là ba đời chư Phật. Nguyện Ngài “vung kiếm tuệ ở rừng tà”, tất cả rừng tà Ngài dùng kiếm bén chặt đứt hết. “Quạt gió từ vào nhà lửa”, Ngài quạt gió từ bi làm mát nhà lửa tam giới.

Trộm nghe: Ráng đỏ phủ đầu non, mặt trời vừa gác núi. Đầu thành giọng ốc thổi buồn thiu, chày nện ngoài rèm nghe ảm đạm. Thuyền chài quay lại bến, cất tiếng hát chiều, chim bay trở về rừng nhẹ nhàng vỗ cánh. Phờ phạc đàn cò đậu bãi cát; tiêu sơ bờ liễu dế ngâm sầu. Đồng rộng lập lòe vài đóm lửa, trời cao lơ lửng trăng lưỡi liềm. Cửa phên hờ khép gà vào chuồng; đèn lửa chưa lên trâu lại ngõ. Lữ khách thúc ngựa chạy như tên bắn; thuyền về chèo gấp nhanh tợ thoi đưa. Thương thay kẻ mê lại vào đường tối. Ngày sáng trưng còn chẳng biết lối đi, đêm càng tối lối về nhà quên bẵng. Nhóm kia như người không đủ mắt, cảnh này quyết hẳn kẻ quên đường.

Các Phật tử! Phải nhớ vô thường nhanh chóng, chớ tham phù thế xa hoa. Cần kíp kéo mũi xoay đầu, chớ để buông tâm phóng chạy. Mỗi người soi sáng bên trong, không cho theo cảnh tìm ngoài. Nếu là tri âm, hãy mau tiến bước.

Đệ tử chúng con kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ mặt trời lặn.
Đoạn này Ngài diễn tả cảnh mặt trời lặn.
“Ráng đỏ phủ đầu non, mặt trời vừa gác núi.” Khi mặt trời lặn nhìn đầu non thấy ráng đỏ sáng rực.

“Đầu thành giọng ốc thổi buồn thiu, chày nện ngoài rèm nghe ảm đạm.” Ốc là tù và. Thuở xưa là tiếng ốc, nay là kèn, đầu thành giọng ốc thổi buồn thiu. Tiếng chày giã gạo hoặc nện vải ngoài rèm nghe ảm đạm.
“Thuyền chài quay lại bến, cất tiếng hát chiều, chim bay trở về rừng nhẹ nhàng vỗ cánh.” Chiều đến những ngư phủ quay thuyền chèo vào bến, cất tiếng hát buổi chiều. Khi mặt trời lặn, những đàn chim cùng nhau nhè nhẹ vỗ cánh bay về rừng.

“Phờ phạc đàn cò đậu bãi cát; tiêu sơ bờ liễu dế ngâm sầu.” Những con cò đi kiếm ăn đến chiều mệt mỏi đậu trên bãi cát; nơi bờ liễu cây cối lưa thưa xơ xác, bầy dế đang ngâm sầu. Dế ngâm sầu hay người sầu? Nghe dế ngâm chúng ta tưởng nó cũng sầu!

“Đồng rộng lập lòe vài đóm lửa, trời cao lơ lửng trăng lưỡi liềm.” Ngoài đồng mênh mông vài đóm lửa đom đóm lập lòe, trên trời mặt trăng lưỡi liềm vừa hiện.

“Cửa phên hờ khép gà vào chuồng, đèn lửa chưa lên trâu lại ngõ.” Cửa trong nhà khép hờ chưa kín hẳn, gà túc túc gọi nhau dẫn về chuồng. Trong nhà đèn chưa đốt mà ngoài cổng trâu đã kéo nhau về. Đây là diễn tả cảnh vật chung quanh vào buổi đầu hôm.

“Lữ khách thúc ngựa chạy như tên bắn. Thuyền chèo về gấp nhanh tợ thoi đưa.” Thấy trời sắp tối khách tha phương thúc ngựa chạy nhanh như tên bắn. Người chèo thuyền vội vã chèo để kịp về tới bến.

“Thương thay kẻ mê lại vào đường tối. Ngày sáng trưng còn chẳng biết lối đi. Đêm càng tối lối về nhà quên bẵng.” Thương cho người mê gặp ban đêm nên vào đường tối. Ngày sáng trưng còn mờ mịt không biết lối đi, huống nữa là đêm tối làm sao biết được đường về nhà? Đó là Ngài muốn nhắc cho chúng ta biết người thế gian lúc ban ngày còn không biết đường lối tiến tu, huống nữa là đêm tối thì làm sao nhớ?

“Nhóm kia như người không đủ mắt. Cảnh này quyết hẳn kẻ quên đường.” Người không đủ mắt là người mù. Nhóm không biết đường giống như kẻ mù, dù ban ngày vẫn không thấy lối đi. Người thế gian không biết tu, chỉ mê say theo ngoại cảnh, đối với con đường Niết-bàn hẳn họ là kẻ quên đường. Đây là Ngài muốn nhắc cho mọi người thức tỉnh tu hành.

“Các Phật tử! phải nhớ vô thường nhanh chóng, chớ tham phù thế xa hoa”, vô thường hay cái chết rất là mau gấp, phải nhớ nó luôn chực sẵn bên mình, chỉ một phút sẩy tay sơ ý là có thể mất mạng. Thế nên đừng tham cảnh xa hoa ở thế gian tạm bợ này. Phù là tạm bợ như bong bóng nổi, không có gì đáng ưa thích.

“Cần kíp kéo mũi xoay đầu, chớ để buông tâm phóng chạy.” Cần gấp kéo mũi con trâu của mình xoay trở lại chớ để nó phóng chạy ra ngoài. “Kéo mũi” từ chuyên môn gọi là phản quan tức là xoay chiếu lại nơi mình. Thế nên phải sám hối sáu căn. Mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng ta đang phóng ra ngoài, giống như con trâu đang chạy hung hăng ngoài đồng ruộng. Nay muốn cho sáu căn quay trở lại soi sáng nơi mình, giống như kéo mũi trâu trở về chuồng, vì trâu nào cũng đang ngó cỏ ngoài đồng ruộng. Thế nên tu là phải kéo mũi nó xoay trở lại đừng để nó tha hồ phóng chạy.

“Mỗi người soi sáng bên trong, không cho theo cảnh tìm ngoài.” Mỗi người chúng ta đều phải soi sáng lại bên trong, đừng tìm theo cảnh bên ngoài. Nhưng hiện nay chúng ta đang làm gì? Trăm người như một đều đang chạy theo cảnh bên ngoài. Ngài Toàn Khoát có nói: “khước vật là thượng, trục vật là hạ”, nghĩa là từ chối không theo cảnh là người bậc thượng, theo cảnh là bậc hạ. Như vậy soi sáng bên trong là thượng, theo cảnh tìm ngoài là hạ. Nếu tất cả ai cũng biết soi sáng bên trong thì trên đường tu chúng ta không có chuyện gì phải dao động, phải luận bàn. Tới lui qua lại đều nhìn từng niệm, không cho theo cảnh mà phải soi sáng lại nội tâm, đó là chúng ta tu thiền.

“Nếu là tri âm hãy mau tiến bước.” Nếu là người tri âm thông cảm được với Ngài thì hãy nhanh chân tiến bước, nghĩa là phải mau soi sáng lại mình, đừng chạy theo cảnh bên ngoài. Đây là lời nhắc nhở rất thiết yếu, khuyên chúng ta phải ráng vận dụng sáu căn soi sáng nội tâm, mỗi người nên tiến bước đừng chậm trễ, đừng chần chờ.

“Đệ tử chúng con kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ mặt trời lặn.”
SÁM HỐI TỘI CĂN MŨI
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

Chúng ta từ thuở nào đến nay vì quên mất bản tâm, không theo đường chánh nên phải rơi trong ba đường khổ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Gốc từ sáu căn sai lầm phóng ra ngoài đuổi theo sáu trần, nay muốn hết sai lầm phải quay sáu căn trở lại soi sáng nội tâm, đó là trở về cố hương, nếu phóng ra ngoài thì rơi trong lục đạo. Nhưng đa số chúng ta sáu căn đều phóng ra nên mới tạo những tội lỗi, vì vậy nếu không sám hối những lỗi trước thì những tội sau sẽ khó tránh được.

NGHIỆP CĂN MŨI LÀ:
Thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào;
Chẳng thích chân hương, năm phần thanh tịnh.

Có mũi ai không thích mùi lạ? Mùi lạ này là mùi thơm chớ không phải mùi hôi. Vật gì thơm như hoa thơm hơi nhẹ là kề mũi sát hoa để ngửi, đó là bệnh của chúng ta.

“Chẳng thích chân hương, năm phần thanh tịnh.” Chân hương là hương chân thật. Đó là hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát và giải thoát tri kiến. Trong kinh Pháp Cú Phật dạy mùi hương của hoa, của trầm v.v... ở thế gian chỉ thơm theo chiều gió, gió phía nào, mùi hương bay về hướng đó. Còn mùi hương của giới đức thì tỏa khắp nơi. Thí dụ có một người hiền lành đức hạnh ở Đà Lạt, dù gió thổi về hướng Campuchia nhưng ở thành phố Hồ Chí Minh hay ở ngoài Trung... người người đều nghe được tiếng thơm. Như vậy mùi thơm của giới đức không phải ngửi bằng mũi, mà nghe bằng tai. Giới đức hay định tuệ của người hiền được mọi người hay biết và quí kính thì gọi là ngửi được mùi thơm. Thế nên đạo đức không bị gió, đất, nước, lửa làm mất mà luôn còn lâu dài. Đó là chân hương năm phần thanh tịnh, không thơm ngào ngạt mà thơm trong sự thanh tịnh. Hương thế gian ngạt ngào có vẻ hấp dẫn hơn nên người đời ưa thích, vì thế Ngài nói “thường tham mùi lạ, trăm thứ ngạt ngào; chẳng thích chân hương, năm phần thanh tịnh”. Hai câu này nói lên sự mê lầm của con người, cứ chạy theo mùi thơm tạm bợ mà không biết được điều quí báu thanh tịnh lâu bền. Chính vì lâu bền nên gọi là chân hương.

Lan xông xạ ướp, chỉ thích tìm tòi;
Giới định hương huân, chưa từng để mũi.

Chỉ thích tìm tòi mùi thơm của hoa lan, của xạ mà không huân tập hương giới, hương định. Đối với giới định chưa bao giờ để ý lưu tâm, nên nói chưa từng để mũi.
Trầm đàn thiêu đốt, đặt trước Phật đài;
Nghểnh cổ hít hơi, trộm hương phẩy khói.

Nếu đốt hương trầm hoặc hương chiên-đàn cúng Phật, thì nghểnh cổ hít khói xông lên khen là hương thơm quá. Hương cúng Phật, đâu phải cho mình mà ngửi, như vậy là trộm hương.
Theo dõi hương trần, Long thần chẳng nể;
Chỉ thích mùi xằng, trọn không chán mỏi.

Những mùi hương trần tục, dầu thơm thế mấy cũng là trần tục, có rồi mất, mà chúng ta lại thích ngửi trộm không sợ Long thần Hộ pháp quở. Chúng ta ưa thích, đuổi theo những mùi thơm xằng đó, không bao giờ biết chán, biết mỏi.
Mặt đào má hạnh, lôi kéo chẳng lìa;
Cây giác hoa tâm, xoay đi không đoái.

Thấy những người mặt đào má hạnh thì mắt đuổi theo dính chặt không rời. Cây giác hoa tâm là sự giác ngộ, là tâm thanh tịnh của con người, chúng ta xây mặt làm ngơ không màng, không để ý đến, lại đuổi theo những hình bóng tạm bợ bên ngoài.
Hoặc ra phố chợ, hoặc vào bếp sau;

Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.

Người đời đến chợ thấy thịt heo thịt bò để ngổn ngang trên thớt biết là nhớp, là tanh nhưng vì thích ăn nên lựa miếng này, miếng kia khen ngon chê dở. Những thứ nhơ như ruột, gan v.v... người ta hay dùng nấu cháo, lại cắt cổ các con vật, lấy máu làm thức ăn thành ra ăn thịt uống máu mà nhiều người thích lắm, nên ngài Trần Thái Tông chê: “Thấy bẩn thèm ăn, ưa nhơ kiếm nuốt.”

Chẳng ngại tanh hôi, không kiêng hành tỏi;
Mê mải không thôi, như lợn nằm ổ.

Chữ nằm ổ là tạm dịch chữ thỉ xí tức là hầm phân, như con lợn đi tới hầm phân, nghe bẩn quá nên phải dịch nhẹ đi.
Hoặc chảy nước mũi, hoặc hỉ đàm vàng;
Bôi cột quẹt thềm, làm nhơ đất sạch.

Chúng ta nghĩ mũi là quí nhưng khi mũi chảy nước hoặc ra đàm mà không có phương tiện để lau thì quẹt bừa vào cột làm nhơ nhớp.
Hoặc say nằm ngủ, điện Phật phòng Tăng;
Hai mũi thở hơi, xông kinh nhơ tượng.

Ngủ thì thở hơi hôi hám làm nhơ kinh, tượng.
Ngửi sen thành trộm, nghe mùi thành dâm;
Không biết không hay, đều do nghiệp mũi.

Ngửi sen thành trộm là do sự tích trong Sa-di Luật giải: Thuở xưa có một Tỳ-kheo đi dạo quanh bờ hồ sen, nghe mùi thơm hoa sen liền hít ngửi. Ngay khi ấy có một vị thần hiện ra quở: Tại sao ông trộm hương hoa sen của tôi? Vị Tỳ-kheo không biết nói sao. Khi đó có người lội xuống hồ bẻ hoa nhổ ngó làm cho sen ngã rạp, vị Tỳ-kheo hỏi: Tôi chỉ ngửi hương sen mà ông nói tôi trộm hương, nay người kia nhổ ngó bẻ hoa sao ông không quở họ? Vị thần bảo: Đó là kẻ thế tục không biết tội lỗi, ví dụ như chiếc áo đen dù cho có năm, mười vết mực lấm vào cũng không thấy, còn ông tu hành giống như chiếc áo trắng, chỉ một vết mực nhỏ cũng thấy rõ, nên tôi trách ông. Như vậy có những việc người thế gian làm được nhưng người tu không được làm. Người tu chỉ nhiễm mùi thơm là đã bị quở rồi trong khi người đời nhổ ngó, bẻ hoa mà không bị trách, đó là vì muốn cho người tu chúng ta hoàn toàn thanh tịnh. Thế nên người tu phải ráng dè dặt đừng so bì với người thế gian.

Nghe mùi thành dâm là do chuyện một Sa-di ở trong phòng, có vài cô thiếu nữ đi qua trước phòng, ông ngửi mùi dầu thơm nên sanh tâm dâm.

Không biết không hay, đều do nghiệp mũi.
Những điều đó chúng ta không biết, không hiểu nhưng sự thật là do nghiệp của mũi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên;
Sau khi mạng chung, đọa ba đường khổ.

Mũi tạo vô lượng vô biên tội, khi chết rồi thì rơi trong ba đường khổ.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được làm người;
Dù được làm người, quả báo bệnh mũi.

Tuy được làm người nhưng do dư báo nên mũi hay bệnh.
Nếu không sám hối, khó được tiêu trừ;

Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.
Đây là sám hối về căn mũi. Sáu căn là nhân tạo nghiệp thọ khổ, vì chúng hay phóng chạy ra ngoài đuổi theo sáu trần. Nay biết tu thì chúng ta phải kềm chế sáu căn đừng cho chúng chạy theo sáu trần nữa, đó là chúng ta biết sám hối, mới được hết tội lỗi.

CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật
Và chư Bồ-tát Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng,
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).

CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ,
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang thập địa nguyện sớm lên,
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm về Thánh chúng,
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh,
Nương thắng nhân này thành Chánh giác.

Những bài này đã giảng.
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện ra hết tà khí loạn,
Hai nguyện nhận vào tuệ hương huân,
Ba nguyện đóng thành cửa vô lậu,
Bốn nguyện ho tan trần hữu duyên.
Năm nguyện lôi về đường Tam Bảo,
Sáu nguyện ngáp nát xóm tứ sanh,
Bảy nguyện thở trừ chướng phiền não,
Tám nguyện ngửi được hoa giác tươi.
Chín nguyện thường thông giống các pháp,
Mười nguyện hằng lấp nhân ngũ tân,
Mười một nguyện kéo về dạo biển tánh,
Mười hai nguyện lôi ra khỏi bến mê.

Những nguyện mạnh này nhắm vào căn mũi.
“Một nguyện ra hết tà khí loạn”, tức là thở ra tưởng như hơi loạn hơi tà đều ra ngoài.
“Hai nguyện nhận vào tuệ hương huân”, nguyện khi hít vào thì huân được hương trí tuệ.
“Ba nguyện đóng thành cửa vô lậu”, tức là đóng cửa vô lậu, không cho rơi trong tam giới nữa.
“Bốn nguyện ho tan trần hữu duyên.” Chữ ho dùng cho hợp vận, đúng nghĩa phải là chữ ách xì. Một cái nhảy mũi, tất cả hữu duyên ở thế gian tan hết, vì khi hắt hơi thì hơi ra nên tưởng như các hữu duyên thế gian tan hết không còn dính với mình.
“Năm nguyện lôi về đường Tam Bảo”, tức là lôi mọi thấy, nghe, ngửi, nếm, trở về đường Tam Bảo.
“Sáu nguyện ngáp nát xóm tứ sanh”, tứ sanh là bốn loài: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, nghĩa là ngáp tan hết không còn dính trong tứ sanh nữa, tức là không rơi vào loài người, loài vật sanh bằng thai, không rơi vào loài sanh bằng trứng, loài sanh chỗ ẩm ướt, loài do hóa sanh hiện ra.
“Bảy nguyện thở trừ chướng phiền não”, nghĩa là khi thở tất cả chướng phiền não đều trừ hết.
“Tám nguyện ngửi được hoa giác tươi”, luôn luôn mũi ngửi được hoa giác ngộ xinh tươi.
“Chín nguyện thường thông giống các pháp”, nghĩa là nguyện mũi ngửi biết tất cả pháp không lầm, biết nhân của nó rõ ràng.
“Mười nguyện hằng lấp nhân ngũ tân.” Ngũ tân là ngũ vị tân, nghĩa là không ưa mùi ngũ vị tân.
“Mười một nguyện kéo về dạo biển tánh”, tức là kéo về dạo biển Thể tánh hay biển giác.
“Mười hai nguyện lôi ra khỏi bến mê”, nghĩa là nguyện không còn kẹt trong bến mê nữa.
KỆ VÔ THƯỜNG THỜI NÀY
Cảnh giục trời gác núi,
Tấc bóng có tiếc chăng?
Chỉ chạy theo ý ngựa,
Tâm khỉ chịu dừng đâu?
Mặt trời mọc rồi lặn,
Thân nổi trở lại chìm.
Già đến ngu cùng trí,
Chết đi xưa và nay.
Chẳng khỏi vô thường đến,
Hạn lớn tránh được nào?
Mỗi nên đi đường chánh,
Chớ để vào nẻo tà.

Ngài nhắc chúng ta:
Cảnh giục trời gác núi,
Tấc bóng có tiếc chăng?

Cảnh thúc đẩy mặt trời gác núi tức đã lặn. Vậy chúng ta có tiếc từng tấc bóng, hay có tiếc từng giờ, từng phút không? Nhiều khi còn mong mau tối để xem ngày mai có đẹp hơn không. Ai cũng tưởng tượng hão huyền là ngày mai thế nào cũng đẹp hơn nên hôm nay chưa hết lại mong đến mai, tháng này chưa hết lại mong tháng sau, năm này chưa hết lại mong năm tới. Mong để làm gì? Để mà chết, nghĩa là mong hết ngày, hết tháng, hết năm rồi chết!

Chúng ta không tiếc từng ngày, từng phút, không nghĩ một ngày qua đã làm được gì. Thiền sư Y Am mỗi chiều qua, ôn lại thấy chưa được gì, Ngài nhìn mặt trời lặn mà sa nước mắt. Chúng ta hiện nay như thế nào? Ngày giờ thật là quí báu để nó qua mất rất đáng tiếc. Từ sớm đến chiều kiểm lại xem chúng ta mê nhiều hay tỉnh nhiều? Nếu cảm thấy mê thì tủi thân, buồn trách mình sao quá dở, chớ không phải ngắm mặt trời lặn rồi vui chơi, không tiếc thời gian đã trôi qua.

Chỉ chạy theo ý ngựa,

Tâm khỉ chịu dừng đâu?
Tâm khỉ ý ngựa dịch chữ tâm viên ý mã. Ý giống như ngựa chạy sải, tâm như vượn khỉ chuyền cây. Chúng ta chạy theo tâm ý lăng xăng không biết dừng.
Mặt trời mọc rồi lặn,
Thân nổi trở lại chìm.

Buổi sáng mặt trời mọc, chiều đến mặt trời lặn, mặt trời có mọc thì có lặn, thân người cũng vậy, có sanh phải có tử. Nó hiện có rồi sẽ mất đi. Tại sao chúng ta không biết quí tiếc, để dùng nó vào chỗ lợi ích cho mình, cho chúng sanh mà thả trôi thì giờ quí báu?
Già đến ngu cùng trí,
Chết đi xưa và nay.

Cái già bình đẳng đến với tất cả mọi người, dù ngu hay trí chớ không phải dành riêng cho ai. Cái chết cũng vậy. Người xưa chết người nay cũng phải chết. Khi cái chết đến dù già dù trẻ dù muốn dù không cũng phải chịu, ai ai cũng phải đến chỗ đó. Thế nên ngày còn sống là ngày quí báu để làm được chút gì cho đạo, cho mình chớ không phải sống để chờ chết.
Chẳng khỏi vô thường đến,
Hạn lớn tránh được nào?

Không ai tránh khỏi vô thường, không ai tránh được cái chết. Hạn lớn là chỉ cho khi chết.
Mỗi nên đi đường chánh,
Chớ để vào nẻo tà.

Tức là mỗi người phải ráng tu hành, đừng để bị lôi cuốn vào đường tà quấy. Đây là lời khuyên về vô thường vào buổi mặt trời lặn. Ngài cảm hứng nên khuyên thêm hai bài kệ.
KỆ KHUYÊN CHÚNG BUỔI HOÀNG HÔN
Cảnh giục nương dâu tối,
Non tây ô lặn rồi.
Ngày giờ đâu dừng mãi,
Già bệnh dễ kề người.
Chết đến ai hay giữ,
Hạn lại sao cấm ngăn.
Mọi người nên để mắt,
Hôn tán chớ vương tâm.
Cảnh giục nương dâu tối,
Non tây ô lặn rồi.
Cảnh thúc đẩy, nhìn lại bờ dâu đã tối, vầng ô đã chìm xuống núi phía tây.
Ngày giờ đâu dừng mãi,
Già bệnh dễ kề người.
Ngày giờ không dừng lại một chỗ thì già, bệnh sớm muộn gì cũng đến với chúng ta, không ai tránh được.
Chết đến ai hay giữ,
Hạn lại sao cấm ngăn.

Không ai giữ được cái chết chẳng đến với mình; hạn là chết, cũng là nạn. Khi những chuyện không tốt xảy đến, không ai ngăn cản được. Thế nên:
Mọi người nên để mắt,
Hôn tán chớ vương tâm.

Hôn tán là hôn trầm và tán loạn. Chúng ta nên nhớ cảnh vô thường dồn dập đến không tha mình, vậy khi tu phải làm sao đuổi được con ma hôn trầm và chận được con quỉ tán loạn, không cho chúng quấy nhiễu, thì đường tu mới xứng đáng. Vậy chúng ta tu là phải thắng ma quân đó. Nếu người nào ngồi thiền bị hôn trầm mãi sanh chán, nghĩ thà ngủ một giấc còn hơn liền xả thiền nằm xuống ngủ, đó là rất dở. Tại sao? Ngồi gục còn tha thứ được vì thua mà vẫn cố gắng tranh đấu, nếu chuồi xuống ngủ là kéo cờ đầu hàng, nên không tha thứ được. Hiểu như vậy nên ai duỗi ra nằm ngủ là tôi không chấp nhận. Có nhiều giám thiền cũng từ bi, thấy gục tội quá liền bảo thôi nằm xuống ngủ đi. Như vậy là nguy hiểm, vì như thế cả Thiền đường sẽ ngủ hết. Chúng ta phải nghịch hạnh từ bi, bằng cách đánh một trượng cho họ giựt mình, đuổi được con ma hôn trầm, đó là cứu họ. Nhìn người đi giám thiền cầm cây trượng, thấy hơi bất nhẫn, nhưng thật ra cây trượng là đuổi ma chớ không phải đánh người. Đừng quan niệm người giám thiền tàn nhẫn rồi nổi sân, đó là chưa biết tu. Đánh là đuổi ma hôn trầm chạy, lẽ ra mình phải chấp tay cám ơn vì lúc đó mình say rồi, không tự chủ nên phải nhờ đánh mạnh mình mới tỉnh, ma hôn trầm mới chạy xa, đánh nhẹ quá, người giám thiền đi qua khỏi nó trở lại nữa. Hiểu như thế mới biết ý nghĩa của việc giám thiền.

KỆ TÁM KHỔ
Sanh đến thành người thân khổ nhọc,
Già sang lụ khụ ý mê mờ,
Bệnh xâm thân thể đau khôn nhẫn,
Chết đọa ba đường nghiệp dễ lôi.
Ân ái xa lìa buồn khó tả,
Oán thù gặp lại giận không cùng.
Ngàn cầu chẳng được thêm phiền não,
Năm ấm tranh nhau đấu sức hùng.

Chỉ có tám câu, Ngài diễn tả được tám khổ (bát khổ): sanh, lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc và ngũ ấm xí thạnh khổ.

“Sanh đến thành người thân khổ nhọc”, từ khi sanh đến lúc thành người thân phải trải qua nhiều khổ nhọc. Đọc sử đức Phật chúng ta thấy Thái tử Tất-đạt-đa theo vua cha ra đồng dự lễ hạ điền, tức là lễ cho dân bắt đầu cày ruộng. Khi vua cha xem người cày, Thái tử đến ngồi bên gốc cây, Ngài nhìn thấy trên luống cày những con trùng bị đứt trồi lên giãy giụa, các con cưỡng, con sáo liền sà xuống mổ nuốt. Thấy cảnh đó Ngài nói: Chúng sanh sanh trong đau khổ. Nghe như thế, chúng ta không quan tâm, nhưng nay xét kỹ lại, sanh quả là khổ, không ai chối cãi được. Tại sao? Nếu để ý chúng ta sẽ thấy những con chim sâu nhảy chuyền trên các cành cây để tìm mồi, khi thấy con sâu, nó dùng mỏ nhọn gắp nhanh, quật qua quật lại con sâu run bây bẩy rồi chim nuốt. Một ngày sống nó phải nuốt bao nhiêu sâu, mà mỗi con sâu bị nuốt đau khổ vô cùng. Đến con người, ngày xưa tôm cá nhiều, mỗi bữa ăn đem vài con cá ra đập đầu, chúng giãy giụa run run. Như thế cuộc sống của chúng ta do những con vật nhỏ yếu cung cấp. Một ngày chúng ta sống là một ngày khổ của chúng sanh. Lại như muốn được sung túc, kẻ khôn hiếp kẻ dại, người mạnh hiếp người yếu. Tất cả cuộc sống đều là tranh giành lấn áp làm khổ cho nhau chớ đâu có an vui. Sống trong đau khổ mà chúng ta không thấy, có khi thấy cũng làm ngơ. Như những người cắt cổ gà vịt, khi bị giết, chúng kêu la giãy giụa, người giết tỏ ra từ bi, tụng chú vãng sanh cho đời sau chúng đừng làm gà vịt nữa. Đó thật là đạo đức giả. Giả sử có ai cầm gươm kề cổ chúng ta nói: anh sống khổ quá để tôi đâm anh chết, rồi tụng chú vãng sanh cầu cho anh hết khổ, chúng ta bằng lòng không? Hay vừa lạy vừa van xin cho tôi sống, đừng cầu vãng sanh làm chi! Nếu thật tình thương, chúng ta không nỡ làm khổ chúng sanh để ngon miệng mình. Thế nên cuộc sống là đau khổ, có mấy người đem lại an lạc cho nhau.

“Già sang lụ khụ ý mê mờ”, già đến thì lưng còng chân yếu thân thể mỏi mệt, ý cũng mù mịt mờ tối.

“Bệnh xâm thân thể đau khôn nhẫn”, khi cơn bệnh xâm nhập, thân đau đớn nhẫn chịu không nổi.

“Chết đọa ba đường nghiệp dễ lôi”, chết đọa trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh là chuyện dễ. Tại sao? Phật dạy nếu chúng ta giữ tròn năm giới (không giết hại, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu), bảo đảm người đó được trở lại làm người. Nếu trong năm giới mà phạm một, hai điều thì không bảo đảm. Kiểm lại ở thế gian, bao nhiêu người giữ đủ năm giới? Vậy trở lại làm người là việc khó, rơi trong ba đường ác là việc dễ. Vì thế người ta thường nói lên núi khó xuống núi dễ. Chúng ta ráng giữ đủ tư cách một con người tốt thì khó, buông lung tạo nghiệp xấu ác thì rất dễ.

“Ân ái xa lìa buồn khó tả”, người thương mến mà phải xa lìa thì buồn khôn kể xiết, nhưng đâu có ai tránh khỏi điều đó. Một là vì đi nơi này, nơi khác làm ăn nên phải xa nhau. Hai là vì kẻ còn người mất. Sống xa lìa gọi là sanh ly, chết xa lìa gọi là tử biệt, cả hai trường hợp đều buồn khổ. Khổ vì chết phải lìa nhau, theo thời gian cũng khuây khỏa, khổ vì sống mà lâu lâu mới biết tin tức nhau thì khổ này dài hơn.

“Oán thù gặp lại giận không cùng”, người mình oán ghét mà cứ ở trước mắt làm sao chịu nổi! Ở thế gian chưa bao giờ chúng ta thương tất cả mọi người. Trong trăm người, thân lắm chỉ độ vài ba mươi, ghét chắc cũng vài ba mươi. Như vậy người ghét cũng tương đương với người thương. Xa lìa người thương đã khổ, gặp mãi người ghét cũng khổ, vậy lúc nào hết khổ? Chỉ khi hết thương hết ghét. Thế nên Phật dạy tu là dứt tâm thương ghét. Làm sao ai cũng là người mình quí kính, không ghét thù ai cũng không trói buộc với ai, thế mới là hết khổ.

“Ngàn cầu chẳng được thêm phiền não.” Đây là cầu bất đắc khổ. Vì sao lại nói ngàn cầu? Vì sự mong cầu của chúng ta quá nhiều. Tỉ dụ chưa có tiền, muốn có tiền, có tiền rồi muốn có xe, có nhà v.v... sự ham muốn không cùng. Mong cầu cả ngàn thứ mà chỉ được hai, ba thì chưa vừa ý nên lúc nào cũng phiền não.

“Năm ấm tranh nhau đấu sức hùng.” Năm ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc ấm là chỉ cho thân, bốn ấm sau là chỉ cho tâm. Nay chúng ta nhìn từng ấm một thử xem chúng tranh nhau như thế nào? Thứ nhất là Sắc ấm. Sắc ấm là do sự tụ họp của đất, nước, gió, lửa. Bốn thứ họp lại có hòa thuận nhau không? Lửa đang cháy phừng lấy nước dội liền tắt, nước để trong nồi đốt lửa một lúc bốc hơi khô hết. Như vậy lửa nước chống đối nhau. Nhưng trong người chúng ta thiếu thứ nào cũng không được. Nếu thiếu nước thì thân khô khan, thiếu lửa thì thân bị lạnh. Lửa nước thù địch nhau, nay điều hòa chúng là việc không phải dễ. Khi nghe nóng phải tìm thức ăn cho mát, khi lạnh lại tìm thức uống cho ấm, cứ như thế mà phải tìm kiếm thức ăn thức uống để bồi bổ cho quân bình thì thân mới an ổn. Đến đất với gió, khi gió thổi mạnh bụi đất bay tung mù mịt. Trong thân chúng ta cũng vậy, lâu lâu có một trận gió xuông vào cả mình đau nhức. Vậy gió thổi thì đất rung rinh không nghi ngờ. Như thế tứ đại lúc nào cũng tranh hùng, chúng ta phải ráng điều hòa chúng, thì thân mới được bình an.

Đến phần thọ, tưởng, hành, thức lại càng lăng xăng hơn nữa. Thọ là những cảm giác, tưởng là những tưởng tượng, hành là suy tư, thức là phân biệt. Cảm giác thích được vừa ý, tưởng tượng thức này ngon món kia dở... suy tư phân biệt lăng xăng trong nội tâm, bốn thứ đó lúc nào cũng dao động bất an.

Tóm lại sắc uẩn là tứ đại, chúng tranh giành nhau không dừng, tâm là thọ tưởng hành thức cũng lăng xăng dao động. Thân và tâm đều giả hợp mà chúng ta lại bảo vệ nó. Đã là giả hợp có lúc phải tan, đủ duyên thì còn, thiếu duyên thì mất, không bền chắc lâu dài. Thế nên ai nghĩ gìn giữ thân này còn mãi là si mê. Biết như vậy phải lợi dụng nó để tinh tấn tu hành, đó mới là người sáng suốt khôn ngoan.

DÂNG HƯƠNG BUỔI ĐẦU HÔM

Cúi mong, lửa đom đóm điểm không, đèn thuyền chài rọi nước. Bạn tịnh trên đàn đều tới, trong lò mới thắp tín hương. Hương này, sản phẩm chẳng ở Lạc sơn, chủng loại không phải trầm thủy. Đâu bởi Thần Long dâng cúng, chính do Bồ-tát cất dành. Trong rừng Ngưu Đầu khó so bì, nơi vườn Kê Thiệt suy tôn bậc nhất. Gươm tuệ chặt, vót bằng đao giới rất mực thanh kỳ; nước định rửa, lửa tam-muội đốt mùi thơm ngào ngạt. Đâu chỉ đàn tràng ngửi được, mọi nơi khắp chốn đều thơm. Một nén hương xông nhiều đời nghiệp sạch. Nay buổi đầu hôm, đốt hương cúng dường.

“Cúi mong, lửa đom đóm điểm không, đèn thuyền chài rọi nước.” Tối đến đom đóm bay chớp chớp trên không, các thuyền chài thắp đèn, ánh sáng rọi xuống nước.

“Bạn tịnh trên đàn đều tới, trong lò mới thắp tín hương.” Bạn tịnh là dịch chữ phạm lữ. Lữ là bạn, phạm là thanh tịnh, nghĩa là những người xuất gia vừa đến trước đàn tràng, là chùa hoặc Thiền đường, khi ấy mới bắt đầu thắp hương cúng dường cắm trên lò hương. Ngài tán thán hương:

“Hương này, sản phẩm chẳng ở Lạc sơn, chủng loại không phải trầm thủy.” Lạc sơn là chỉ những ngọn núi ở ngoài biển tương tự như núi Bồng lai, tức là những ngọn núi có hương quí. Chủng loại của hương này vượt hơn hương trầm thủy.
“Đâu bởi Thần Long dâng cúng, chính do Bồ-tát cất dành.” Hương này không phải do các vị thần, rồng dâng cúng mà do trong kho của Bồ-tát cất dành sẵn.

“Trong rừng Ngưu Đầu khó so bì, nơi vườn Kê Thiệt suy tôn bậc nhất.” Rừng Ngưu Đầu tức Ngưu Đầu chiên-đàn, là cây chiên-đàn rất thơm, sản xuất trên núi Ngưu Đầu, một ngọn núi ở miền Nam Ấn Độ. Trong kinh Chính Niệm Xứ chép: Đỉnh núi này giống như đầu con trâu và núi sản sanh cây chiên-đàn nên gọi là Ngưu Đầu chiên-đàn. Hương chiên-đàn ở núi Ngưu Đầu rất thơm nhưng so với hương dâng cúng Phật còn thua kém. “Nơi vườn Kê Thiệt suy tôn bậc nhất.” Kê Thiệt cũng là tên (kê thiệt là lưỡi gà). Tìm trong sử thì thấy tên nhưng không thấy diễn tả là vườn hay núi... Hương Kê Thiệt là một thứ hương rất thơm nhưng cũng không bằng nên gọi là suy tôn bậc nhất. Vậy hương này là tâm hương nên chỉ có ở kho của Bồ-tát.

“Gươm tuệ chặt, vót bằng đao giới rất mực thanh kỳ.” Vì là tâm hương nên chặt bằng gươm trí tuệ, vót bằng đao giới luật nên rất mực thanh kỳ, tức là thơm tho kỳ đặc.

“Nước định rửa, lửa tam-muội đốt mùi thơm ngào ngạt.” Khi vót thành cây hương liền lấy nước định rửa, dùng lửa tam-muội đốt. Tam-muội là âm chữ Phạn, dịch nghĩa là chánh định. Mùi thơm hương này do trí tuệ biết, không phải như các loại hương thế gian do mũi ngửi được.

“Đâu chỉ đàn tràng ngửi được, mọi nơi khắp chốn đều thơm.” Mùi thơm của hương này không chỉ ở trong chùa mà tỏa khắp nơi. Đây là tâm hương, do giới, định, tuệ hun đúc thành, nên không phải do mũi ngửi mà do trí người trọng đạo đức biết nó thơm quí.

“Một nén hương xông nhiều đời nghiệp sạch”, nghĩa là xông được nén hương này thì tất cả nghiệp nhiều đời theo đó sạch hết. “Nay buổi đầu hôm đốt hương cúng dường.”

KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

KỆ DÂNG HOA
Đất tâm mở ra hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.

PHÁT NGUYỆN
Nguyện mây hương hoa này,
Khắp cả mười phương cõi,
Cúng dường tất cả Phật,
Tôn Pháp, chư Bồ-tát,
Vô lượng chúng Thanh văn
Và tất cả Thánh Hiền.
Vừa rời đài Quang minh,
Qua cõi nước vô biên,
Trong vô biên cõi Phật,
Nhận dùng làm Phật sự.
Xông khắp các chúng sanh
Đều phát tâm Bồ-đề.
Đây là lời phát nguyện sau khi dâng hương, dâng hoa.
TÂU BẠCH

Kính bạch: Mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư, mở rộng đèn tuệ chư Phật, soi khắp nhà tối quần sanh.

Kính mong chư Phật mở rộng đèn trí tuệ để soi khắp nhà tối của chúng sanh.

Trộm nghe (hay thầm nghe): kèn lầu vừa thổi, trống cấm mới truyền, nhà nhà đèn sáp sáng trưng, chốn chốn mỡ rồng cháy rực.

Đây là dẫn giải theo lối xưa, chữ kèn là gượng dịch, nguyên là chữ giác tức là sừng, thường gọi là tù và. Tiếng tù và thổi là báo hiệu đã tối, trống cấm trong thành vua được lệnh đánh, nhà nhà đều đốt đèn cầy sáng trưng. Mỡ rồng cũng là mỡ rắn, thường thuở xưa người ta hay lấy mỡ những con rắn lớn thắng làm dầu đốt, cũng như ở quê đốt dầu phộng dầu mù u, tối đến mỗi nhà đốt các dĩa dầu cháy rực.

Ngựa báu thôi hí ngoài ngõ tía, cá vàng ngưng nhảy dưới ao trong.

Ngõ tía tức là đường quan. Những con ngựa hay chở đưa người đi chơi ngoài đường quan, tối rồi ngưng không còn hí nữa. Cá ban ngày được người cho ăn, nhảy đớp bọt, tối đến im lặng không nhảy nữa. Đó là hai hình ảnh rất nên thơ.

Lưa thưa mặt nước đom đóm bay, lấp ló đầu non ngậm vầng nguyệt.

Trên mặt hồ lưa thưa đom đóm bay lập lòe, lúc đó mặt trăng sắp lặn.

Bên đài Phượng hoàng say sưa tiệc rượu liên hoan, trước lầu Anh vũ tham đắm mê hoa thủ lạc.

Đài Phượng hoàng và lầu Anh vũ chỉ cho những lầu đài cất gần đền vua ở Trung Hoa thuở xưa. Đó là chỗ vui chơi của vua quan, nên bên đài Phượng hoàng say sưa tiệc rượu liên hoan, trước lầu Anh vũ tham đắm mê hoa thủ lạc. Mê hoa tức là ham chơi thích thú theo những dục lạc thế gian.

Hoặc vịnh trăng cợt gió, hoặc thổi sáo đánh đàn.

Hoặc nhìn trăng đùa gió rồi làm thơ vịnh hoặc đánh đàn thổi sáo v.v...

Người người chăm chăm duyên trước mắt, kẻ kẻ đâu quên việc sau thân.

Người đời mải ham chơi mê đuổi theo những việc trước mắt, nhưng đâu thể quên được việc sau thân. Sau thân là việc gì? Mai kia thân này già nua lụn bại, nên ai cũng phải biết còn có việc sau thân. Đến đây Ngài đánh thức:

Các Phật tử! Phải tỉnh đường trước khó tiến tới, chớ tham gối cao mặc ngủ say.

Người tu hành phải luôn luôn nhìn trước mình, mỗi ngày mỗi bước tiến lên không được chần chờ, không được dừng nghỉ. Muốn tiến tới luôn luôn như vậy thật là khó, chúng ta phải nỗ lực. “Chớ tham gối cao mặc ngủ say”, tối nằm trên gối ngủ một giấc ngon tới sáng, đó là gối cao nệm ấm ngủ say sưa, quên đường trước mà không chịu tiến.

Lên giường khó bảo đảm xuống giường, đêm nay đâu thể biết đêm mai.

Câu này đánh thức chúng ta. Như vừa rồi tại một thất ở sau Thường Chiếu có một cô xuất gia, cô Huệ Toàn, chiều còn nói chuyện vui với huynh đệ như thường, tối ngủ đến sáng không thấy mở cửa, những người hàng xóm chạy đến nạy cửa vào thấy cô nằm yên không còn thở nữa. Thật đúng như câu: “Lên giường khó bảo đảm xuống giường.” Như vậy mà có ai nhớ đâu, cứ nghĩ sáng thì xuống, không ngờ có khi lên mà không xuống được. “Đêm nay đâu thể biết đêm mai”, đêm nay còn sống, chưa chắc đêm mai còn. Đó là những câu cảnh tỉnh cho chúng ta thấy cuộc đời mỏng manh tạm bợ, ngày nay khỏe mạnh chớ chưa bảo đảm ngày mai được khỏe. Nếu ai nhớ luôn luôn như vậy thì tu hành đâu có dám bê trễ. Trái lại, cứ tin ngày mai mình vẫn khỏe, vẫn làm việc như thường, nên ngày nay tu thiếu, để dành mai tu bù không có gì phải lo. Nếu biết rằng ngày nay chưa bảo đảm ngày mai thì ngày nào khỏe phải tu ngay, chớ không thể chần chờ.

Cửa đệ nhất nghĩa nên thẳng vào, nơi ba đường ác chớ tiến bước.

Cửa đệ nhất nghĩa là dịch từ "đệ nhất nghĩa môn" là cửa có một nghĩa thôi, đó là cửa không dính hai bên. Quí vị đang tiến vào cửa đệ nhất hay cửa đệ nhị? Nếu là đệ nhị thì kẹt hai bên. Cửa đệ nhất thì không có hai bên, tức là không có hơn thua, tốt xấu, phải quấy. Đó cũng gọi là đệ nhất nghĩa đế, nơi cửa đó phải ráng thẳng vào. Còn ba đường ác địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, đừng tiến bước vào vì sẽ khổ. Như vậy người biết tu phải luôn luôn đi thẳng vào cửa đệ nhất nghĩa, tức là nơi không còn đối đãi, không còn phân biệt, đó là nơi an định, giải thoát khỏi vòng sanh tử.

Quay đầu nhận về gia hương mình, mở mắt chớ ham mộng phù thế.

Gia là nhà, hương là làng xã nơi nhà mình ở, đó là nghĩa đen. Theo nghĩa ở đây gia hương là chỗ cố hương mình có từ thuở nào. Nay chúng ta có phải là những người đang phiêu bạt không? Người rời khỏi cố hương là kẻ phiêu bạt! Như vậy nếu chưa về được gia hương mình là còn đang phiêu bạt.

Ngài Trần Thái Tông bảo chỉ quay đầu nhận về gia hương! Vậy gia hương khác với phiêu bạt ở chỗ quay đầu lại hay phóng mắt nhìn ra. Quay đầu lại, từ chuyên môn nhà Thiền gọi là “Hồi đầu thị ngạn” nghĩa là quay đầu là bờ , bờ ấy là gia hương. Trái lại nếu phóng mắt ra ngoài, đó là phiêu bạt. Buông sáu căn chạy theo sáu trần đó là phiêu bạt. Xoay sáu căn trở lại nơi bản quán của nó, là quay đầu về cố hương, quay đầu về là bờ giác. Bờ giác xa hay gần? Gần nhưng đi mãi không đến nên thành xa! Xa mà không phải xa, chỉ cần quay đầu lại, nhưng vì cứ phóng ra nên trở thành xa! Như vậy tự kiểm điểm lại xem một ngày chúng ta quay lại được bao lâu, chắc chắn nhất là sáu tiếng. Chúng ta còn như thế, huống là người thế gian mải đi theo con đường phiêu bạt hẳn khó kiếm được một tiếng đồng hồ quay trở lại. Thế nên chúng ta thấy kinh Pháp Hoa diễn tả hay đáo để. Người cùng tử bỏ nhà đi không biết từ thuở nào, chỉ thấy đang lang thang, nay giựt mình, quay trở về quê hương tìm cha mẹ. Khi trở về buổi đầu được cha trao cho công tác tầm thường như hốt phân, dần dần được gần cha và cuối cùng cha trao hết gia tài cho. Biết trở về là như vậy, còn nếu không biết thì suốt kiếp làm cùng tử lang thang. Nếu tủi nhục cho đời cùng tử thì chúng ta phải mau quay về. Hiện nay chúng ta cũng giống như chàng cùng tử đang làm chuyện hốt phân sống qua ngày vậy.

Mở mắt chớ ham mộng phù thế.

Mộng phù thế là gì? Con phù du ở trên mặt nước, sớm mai có mặt, chiều tối chết, cuộc đời tạm bợ giống như đời con phù du. Cuộc sống của chúng ta là giấc mộng trong cõi tạm. Thế thì có gì đáng ưa thích. Nhưng chúng ta đang mê, mở mắt thì ham mộng phù thế nên Ngài nhắc chúng ta đừng say mê cái tạm bợ, cái mộng ảo trên thế gian này. Chỉ hai câu này đủ nhắc nhở chúng ta tu, “quay đầu nhận về gia hương mình, mở mắt chớ ham mộng phù thế”. Tới lui, xuống bếp, ra vườn cứ ngâm hai câu đó chớ đừng ca những câu khác.

Đệ tử chúng con kính tưởng giờ này, lấy làm khóa lễ đầu hôm.
SÁM HỐI TỘI CĂN LƯỠI
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay;
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

NGHIỆP CĂN LƯỠI LÀ:
Tham đủ mọi mùi, thích xét ngon dở;
Nếm hết các thứ, biết rõ béo gầy.

“Tham đủ mọi mùi, thích xét ngon dở.” Lưỡi chúng ta thích đủ mùi. Vị bùi béo thì ưa, chát đắng thì không thích, để vào lưỡi thì khen món này ngon chê món kia dở. Nhiều khi trên mặt xã giao có những trường hợp nếu không làm giống người thì thấy quê, mà làm theo người thì thấy xấu hổ. Thí dụ như có nhiều Phật tử nấu thức ăn ngon cúng dường quí thầy, họ hỏi: Thầy dùng món này được không? Theo thế tình muốn vui lòng người làm bếp thì phải nói: À ngon quá! Như vậy mình đã theo vị rồi. Còn nếu chỉ làm thinh hoặc gật đầu một chút thì thấy thiếu lịch sự. Thế nên việc xã giao làm con người xa lần với đạo lý, nghĩa là muốn được lòng người cúng dường thì phải khen, mà khen thì phải nghĩ tới ngon dở, nhưng chúng ta thấy lỗi của lưỡi là “tham đủ mọi mùi, thích xét ngon dở”.

“Nếm hết các thứ, biết rõ béo gầy”: Thức gì cũng ưa nếm, cũng ăn qua cho biết, nên nhiều người vì nghe quán này nấu khéo, quán kia nấu ngon liền rủ nay đi ăn quán này, mai đi ăn quán kia để cho biết hết các thứ và “biết rõ béo gầy”. Thức ăn có mỡ thì biết đó là con vật béo mập, còn thức ăn không mỡ thì biết đó là gầy nên những bệnh của lưỡi kể ra cũng nhiều.

Sát hại sanh vật, nuôi dưỡng thân mình.

Một con vật chết là nuôi cho mình được một bữa ăn. Đó là nói những con vật khá lớn, còn những con vật nhỏ thì một bữa ăn sát hại không biết bao nhiêu con.

Quay rán cá chim, nấu hầm cầm thú.
Cá hay chim thì đem quay, đem rán, cầm thú thì đem nấu hầm. Tất cả những thứ đó là cái ngon miệng, cái sở thích của người đời.

Thịt tanh béo miệng, hành tỏi ruột xông.

Có thứ thịt nào chưa xào nấu mà không tanh đâu. Nhưng xào nấu rồi thì ăn béo miệng. Lại muốn cho nó được thơm thì thêm hành tỏi. Tanh thì ngon miệng, thơm thì xông trong ruột, khi vô thì thơm đến khi ra thì hôi chịu không nổi.

Ăn rồi đòi nữa, nào thấy no lâu.

Món gì ngon thì để dành lại, nếu trưa chiều mà không dọn lên thì hỏi: Món hồi sáng đâu rồi? Đó là diễn tả sở thích ăn thịt cá hoặc các loài vật, chim chóc v.v... Đến hoàn cảnh bắt buộc phải đi chùa ăn chay thì:

Hoặc đến đàn chay, cầu thần lễ Phật;

Cố cam bụng đói, đợi lúc việc xong.

Phải đi chùa để cầu cúng theo lệnh của cha mẹ, ông bà thì ráng tới, tới thì cam bụng đói để đợi xong việc đặng về nhà ăn cho ngon chớ ở chùa ăn không được.

Sáng sớm ăn chay, cơm ít nước nhiều;

Giống hệt người đau gắng nuốt thuốc cháo.
Ăn chay thì gượng ăn thôi, nuốt cơm không trôi, chỉ húp một chút canh cho đỡ dạ, nên cơm ít nước nhiều. Ăn chay giống như là uống thuốc không có gì ngon, vì vậy mà ăn lếu láo để về nhà ăn lại.

Mắt đầy mỡ thịt, cười nói hân hoan,

Rượu chuốc cơm mời, nóng thay nguội đổi.

Bữa nào thấy những thức ăn có thịt cá tươi ngon đầy bàn thì cười nói hân hoan, cho nên đến bàn ăn mà vui vẻ là nhờ những thức ăn vừa ý đầy bàn. Nếu đến bàn ăn thấy toàn là những thứ không thích hẳn là không vui chút nào. Trong các bữa tiệc luôn luôn là mời ăn mời uống, đem món nóng lên, đổi món nguội xuống v.v...

Bày tiệc đãi khách, cưới gả cho con,

Giết hại chúng sanh, vì ba tấc lưỡi.

Nghĩa là giết lợn bò, gà vịt để làm tiệc, đều gốc từ cái lưỡi ba tấc này (nói theo tấc ta ngày xưa). Đó là diễn tả lỗi thích ăn ngon, không ưa dở của lưỡi.

Tiếp đến là lỗi hay nói của lưỡi:

Nói dối bày điều, thêu dệt bịa thêm,

Hai lưỡi bỗng sanh, ác khẩu dấy khởi.

Hoặc nói dối bày điều tức là nói không có lẽ thật, hoặc chuyện như thế này mà thêu dệt tô điểm thành thế khác, hoặc nói hai lưỡi, tới người này thì chê gièm người kia, tới người kia thì chê gièm người này làm cho người hờn giận nhau, hoặc nói những lời dữ, lời hung ác. Từ lưỡi sanh ra bốn tội nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác khẩu.

Chửi mắng Tam Bảo, nguyền rủa mẹ cha;
Khinh khi Hiền Thánh, lừa dối mọi người.

Đây là chỉ những đứa con bất tiếu không kể gì cha mẹ, không kể gì Phật pháp nên có những lời nói dữ, khinh chê Hiền Thánh, lừa dối mọi người.
Chê bai người khác, che giấu lỗi mình;
Bàn luận cổ kim, khen chê này nọ.

Bệnh của chúng ta là bệnh chê người khen mình, hoặc giấu lỗi mình, bươi móc lỗi người. Dù ai hay mấy mà người ta khen trước mặt mình, mình cũng khó chịu, nên có lần tôi nói một câu mà tôi còn nhớ: Nghe người khen bạn mình trước mặt, mà mình không đổi sắc, đó là người can đảm. Thí dụ hai người bạn cùng làm một việc mà người xa lạ lại khen bạn mình nức nở, mà không nói đến mình, mình phải can đảm lắm mới giữ được sắc mặt bình tĩnh. Trái lại nếu họ khen mình, chê bạn thì chắc mình dễ chịu hơn! Giấu cái dở của mình và bươi móc lỗi người thì người tức bươi lại lỗi mình rốt cuộc cả hai đều xấu. Con người mê muội dễ có hai bệnh này.
Khoe khoang giàu có, lăng nhục người nghèo;
Xua đuổi Tăng Ni, chửi mắng tôi tớ.

Nếu mình khá giả thì tới đâu cũng khoe, thấy ai nghèo hèn hơn thì khinh chê, lăng nhục họ. Đối với Tăng Ni thấy chỉ có ăn hại, không có lợi gì, nên tới nhà là đuổi đi. Tôi tớ làm gì không vừa ý thì chửi mắng.
Lời gièm thuốc độc, nói khéo tiếng đàn;
Tô vẽ điều sai, nói không thành có.

Lời gièm pha là một thứ thuốc độc. Còn lời nói khéo nói xảo, vuốt ve nghe như đàn êm tai. Những điều đúng phải mà tô vẽ thành trái quấy, việc không mà nói thành có, đó là lối nói tạo cho người hiểu lầm lẽ thật.
Oán hờn nóng lạnh, phỉ nhổ non sông.
Trời nóng quá cũng tức, lạnh quá cũng không ưa, không biết chuyện thời tiết nóng lạnh là lẽ thường. Phỉ nhổ non sông là có khi mình cũng bực bội tức tối cả núi sông.
Tán dóc tăng phòng, ba hoa Phật điện.
Lẽ ra tối đến về liêu phòng im lặng ngủ, nhưng hai ba người dụm lại tán dóc đủ chuyện. Điện Phật là chỗ cung kính trang nghiêm, mà lên đó còn ba hoa nói chuyện ồn náo.
Những tội như thế, vô lượng vô biên;
Ví như cát bụi, đếm không thể cùng.

Tội của lưỡi quá nhiều! Từ ăn uống đến nói năng, lưỡi tạo đủ các tội nhiều như cát bụi đếm không thể hết. Thế nên mỗi ngày đêm chúng ta phải ráng tu hành cho bớt tội lỗi của nghiệp lưỡi.
Sau khi mạng chung, vào ngục Bạt Thiệt;
Cày sắt kéo dài, nước đồng rót mãi.

Sau khi chết rơi xuống địa ngục tên Bạt Thiệt, nơi đó lưỡi bị kéo dài ra, rồi bị cày bằng sắt cháy đỏ cày lên trên, lại bị nước đồng sôi rót vào trong miệng. Ăn uống như vậy để bù lại vị ngon và lời nói sai quấy ở thế gian.
Quả báo hết rồi, muôn kiếp mới sanh;
Dù được làm người, lại bị câm bặt.

Quả báo ở địa ngục hết rồi, phải trải qua bao nhiêu kiếp mới được sanh trở lại làm người. Dù được làm người, do dư báo vẫn bị bệnh câm ngọng. Vì lỗi của lưỡi mà phải chịu khổ trong địa ngục, đến khi trở lại làm người vẫn còn bị khổ ở thế gian.
Nếu không sám hối, khó được tiêu trừ;
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

Hôm nay thành tâm sám hối những lỗi lầm do lưỡi tạo ra cho được sạch hết, và phải luôn nhớ không còn nói những lời tổn phước, tổn đức, gây đau khổ cho người và vật.

CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật,
Và chư Bồ-tát Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng,
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).

CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ,
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang thập địa nguyện sớm lên,
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm về Thánh chúng,
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh,
Nương thắng nhân này thành Chánh giác.

Những bài này đã giảng.
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện ăn no vị vô thượng,
Hai nguyện nhả hết vị trần tanh,
Ba nguyện biện tài trừ các hoặc,
Bốn nguyện thích nói độ quần sanh.
Năm nguyện đọc hết kho vô tận,
Sáu nguyện sông pháp uống cạn khô,
Bảy nguyện sớm nhận Đại Ngu nói,
Tám nguyện nhanh đồng Lâm Tế thanh.
Chín nguyện lưỡi dài cùng Phật phủ,
Mười nguyện trong sạch như trời xanh,
Mười một nguyện thế gian không câm ngọng,
Mười hai nguyện địa ngục hết trâu cày.

“Một nguyện ăn no vị vô thượng.” Vị vô thượng là pháp vị. Nghe kinh học đạo đầy đủ gọi là ăn no vị vô thượng.
“Hai nguyện nhả hết vị trần tanh”, nghĩa là phải nhả sạch những vị hôi hám của trần tục. Đó là nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói hung ác, khinh chê cha mẹ, khinh chê Tam Bảo, nói những lời lỗi lầm v.v..., tất cả những vị trần tanh đó phải nhả ra hết.

“Ba nguyện biện tài trừ các hoặc”, nguyện được biện tài vô ngại để trừ các mê lầm cho chúng sanh.
“Bốn nguyện thích nói độ quần sanh.” Nguyện thích nói pháp để độ quần sanh, chớ không phải được biện tài vô ngại rồi vào núi ở một mình, vì như vậy là tiêu nha bại chủng.
“Năm nguyện đọc hết kho vô tận”, là nguyện đọc hết Tam tạng giáo điển không thiếu sót.
“Sáu nguyện sông pháp uống cạn khô”, giáo pháp Phật như con sông lớn, nguyện uống cạn hết giáo pháp.
“Bảy nguyện sớm nhận Đại Ngu nói.” Nhân nghe một câu mà nhận được chỗ đại cơ đại dụng của người xưa.
“Tám nguyện nhanh đồng Lâm Tế thanh”, ngài Lâm Tế hét một tiếng mà ngộ được là căn cơ nhanh chóng, nên nguyện mình được nhanh như tiếng hét của Lâm Tế, vừa hét là ngộ.
“Chín nguyện lưỡi dài cùng Phật phủ.” Đức Phật le lưỡi phủ hết mặt. Theo tinh thần trong kinh dạy: Người không nói dối thì được tướng lưỡi rộng dài. Sở dĩ lưỡi đức Phật le ra phủ tới mí tóc tức là phủ hết mặt vì ba đời Ngài chưa từng nói dối. Lưỡi chúng ta ngắn quá chắc là ít có nói thật. Chín nguyện được như Phật lưỡi rộng dài phủ trùm tới mí tóc.
“Mười nguyện trong sạch như trời xanh”, nguyện tâm hồn mình trong sạch như bầu trời trong xanh không gợn mây.
“Mười một nguyện thế gian không câm ngọng.” Đây là lợi tha. Biết tu về lưỡi rồi thì nguyện cho tất cả mọi người thế gian cùng biết tu để hết nghiệp nói gian dối, đời sau không mang bệnh câm ngọng.
“Mười hai nguyện địa ngục hết trâu cày”, tức là nguyện không còn ai nói dối nói ác độc để phải đọa vào địa ngục Bạt Thiệt bị trâu cày trên lưỡi.
Điểm đặc biệt của ngài Trần Thái Tông là nói về căn nào thì có nguyện của căn ấy. Nói về tai có nguyện của tai, nói về mũi có nguyện của mũi, nói về lưỡi thì cũng nguyện cho mình và mọi người được lưỡi như thế nào, khỏi những cái khổ về lưỡi v.v...

KỆ VÔ THƯỜNG THỜI NÀY
Ngày sáng mất rồi đêm tối đến,
Đường đêm mờ mịt lại mịt mờ.
Uổng công đốt đuốc cho người khác,
Chẳng chịu mồi đèn chính nhà mình.
Chầm chậm vầng ô vừa khuất núi,
Từ từ bóng thỏ biển đông lên.
Chết sống xoay vần đều như thế,
Sao chẳng qui y Phật Pháp Tăng.

Qua bốn câu đầu bài kệ Ngài nhắc:
Hết sáng đến tối, trên đường mờ mịt lại thêm trời tối mịt mờ. Hai lớp mờ tối, lại lo đốt đuốc cho người mà không chịu mồi đèn nhà mình cho sáng. Kinh Minh Tâm Bảo Giám có câu nói tương tự: “Nhân nhân tự tảo môn tiền tuyết, Bất vị tha nhân ốc thượng sương.” Mỗi người tự quét tuyết trên cổng của mình, đừng nghĩ tới sương đóng trên nhà người. Chúng ta có bệnh ngược lại, muốn quét sương trên nhà người mà không chịu quét tuyết trên cổng nhà mình. Thế nên ngài Trần Thái Tông bảo mỗi người hãy ráng đốt đèn nhà mình cho sáng đừng lo đốt đuốc nhà người. Chúng ta không thấy rõ được cái hay dở, tốt xấu của chính mình, nhưng lại có thói quen nhìn người khác để phê bình. Tại sao không chịu khó nhìn lại mình? Biết được cái hay dở tốt xấu của mình có lợi là để chúng ta tu tập. Còn chuyện của người dù thấy nhưng chưa chắc chúng ta làm được gì cho họ. Vậy từ nay chúng ta chịu khó mồi đèn nhà mình, đừng thắp đuốc nhà người nữa.

Chầm chậm vầng ô vừa khuất núi,
Từ từ bóng thỏ biển đông lên.
Chết sống xoay vần đều như thế,
Sao chẳng qui y Phật Pháp Tăng.

Mặt trời từ từ khuất núi, mặt trăng từ từ lên, tức là sáng rồi chiều, chiều rồi tối. Như vậy ngày qua đêm lại, hết tháng hết năm. Ngày tháng xoay vần đều đều thì sự vô thường già chết đuổi gấp tới một bên, còn gì nữa mà chần chờ, sao không hướng về Phật Pháp Tăng qui y để tu hành? Đó là lời nhắc nhở của Ngài.

DÂNG HƯƠNG NỬA ĐÊM

Cúi mong, đồng hồ canh ba chuyển, muôn tiếng nhạc lặng im. Chúng tăng hòa hợp trước nghiêm đàn, một nén hương thơm trùm pháp giới. Hương này trời đất sanh thành, công vun trồng chẳng phải một đời, do trăm thần bảo hộ mà được. Cội rễ tốt tươi, mãi nhờ mưa pháp thấm nhuần. Thể chất thanh cao, hằng được mây từ che mát. Giống lạ, chớ đem cây thường so sánh, mùi thơm nào phải kẻ phàm hay. Lư vàng nâng lên, mảnh mảnh vừa châm vào ngọn lửa, kết thành lọng báu tầng tầng, bay thẳng tận mây ngàn. Dùng làm lễ nghi trước Phật, mong nêu lòng tin kẻ phàm. Nay lúc nửa đêm, thắp hương cúng dường.
Trong bài dâng hương này, ngài Trần Thái Tông diễn tả hương kỳ đặc của tâm thanh tịnh, không phải hương thường của thế gian.

“Đồng hồ canh ba chuyển, muôn tiếng nhạc lặng im. Chúng tăng hòa hợp trước nghiêm đàn, một nén hương thơm trùm pháp giới.” Đồng hồ đã điểm canh ba, tất cả tiếng nhạc bên ngoài đều im lặng, khi ấy chúng tăng hòa hợp trước điện Phật thắp hương cúng dường. Nén hương này thơm trùm pháp giới, ở thế gian không có hương nào thơm hơn, đây là chỉ hương của tâm thanh tịnh.

“Hương này trời đất sanh thành, công vun trồng chẳng phải một đời, do trăm thần bảo hộ mà được.” Hương này là hương của tâm thanh tịnh do trời đất sanh thành, phải nhờ sự ủng hộ của chư thần trong nhiều đời nhiều kiếp mới được.

“Cội rễ tốt tươi, mãi nhờ mưa pháp thấm nhuần. Thể chất thanh cao, hằng được mây từ che mát.” Cội rễ của cây hương sở dĩ được tươi tốt là nhờ mưa pháp thấm nhuần. Chính trong khi học kinh nghe pháp là lúc được mưa pháp thấm nhuần, nên hương này thể chất thanh cao, hằng được mây từ che mát.

“Giống lạ, chớ đem cây thường so sánh, mùi thơm nào phải kẻ phàm hay.” Cây hương này là giống lạ, không thể đem so sánh với những loại cây thường. Mùi thơm của hương người phàm không ngửi được, chỉ có những bậc Thánh Hiền mới ngửi được. Vì sao? Vì hương này phát nguồn từ tâm thanh tịnh.

“Lư vàng nâng lên, mảnh mảnh vừa châm vào ngọn lửa, kết thành lọng báu tầng tầng, bay thẳng tận mây ngàn.” Khi thắp cây hương, vừa châm vào lửa, có những tầng khói bay lên tận mây ngàn. Hương này dùng làm gì?

“Dùng làm lễ nghi trước Phật, mong nêu lòng tin kẻ phàm.” Về sự là thắp hương cúng dường Phật, về lý là thắp hương của nội tâm, hương của tâm hồn trong sáng thanh tịnh. “Nay lúc nửa đêm thắp hương cúng dường.”

KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

KỆ DÂNG HOA
Tâm địa mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa, vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.

HIẾN DÂNG HƯƠNG HOA RỒI BẠCH

em>Nguyện mây hương hoa này, khắp cả mười phương cõi, cúng dường tất cả Phật, tôn Pháp chư Bồ-tát, vô lượng chúng Thanh văn và tất cả Thánh Hiền; vừa rời đài Quang minh, qua cõi nước vô biên, trong vô biên cõi Phật, nhận dùng làm Phật sự, xông khắp các chúng sanh, đều phát tâm Bồ-đề.

Cúng dường rồi, chí tâm qui mạng lễ mười phương Vô thượng Tam Bảo.
Những đoạn này đã giảng ở trước.
TÂU BẠCH
(Lại niêm hương quì bạch)

Kính bạch, mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư. Duỗi tay vàng tiếp độ quần sanh, phóng sáng ngọc soi cùng các cõi. Trộm nghe, giờ vừa sang tý, đêm đã nửa rồi. Ngọn đèn dĩa bạc đã hầu tàn, đường sá trong thành đều lắng bụi. Mấy trận gió mây sanh muôn dặm, một vầng trăng sáng rọi canh ba. Lưa thưa rừng trúc rây vàng, lấp lánh hoa sân vờn ngọc. Hạc oán lặng thinh nơi trướng tuệ, vượn buồn kêu mãi chốn rừng tùng. Xa xôi Sâm, Đẩu trải Ngân hà, vắng vẻ quỉ thần khóc đồng nội. Cuốc kêu thống thiết, mộng điệp say mê. Thân huyễn lẻ loi trong rừng rậm, mộng hồn rong ruổi ngàn dặm trường. Cam chịu ma ngủ quấy rầy luôn, đâu biết đuốc trí hằng sáng rực. Ngoài nhà thần phách lạc hồn bay, trong hang quỉ tròng che mắt nhắm. Chỉ thích tham mê ngủ nghỉ, đâu biết nếm vị Chân như. Ham ưa một giấc ngon đến sáng, nào ngại trăm năm cơn chết chờ.
Các Phật tử! Phải nhớ bốn rắn bức bách, chớ quên hai chuột gặm mòn. Luân hồi ba cõi chừng nào thôi, quanh quẩn bốn loài bao giờ hết? Đường vãng sanh nên bước, cần vin xe dẫn ra. Nào là chỗ lao quan, quyết định đêm nay phá vỡ. Đệ tử chúng con, kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ nửa đêm.

Bài tâu bạch này rất hay về văn chương lẫn ý nghĩa.

“Kính bạch, mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư. Duỗi tay vàng tiếp độ quần sanh, phóng sáng ngọc soi cùng các cõi.” Đây là lời tâu bạch với đức Phật, đấng Đại Giác, Đại Hùng, Đại Lực. Đức Phật duỗi cánh tay vàng để tiếp độ quần sanh. Như chúng ta thường thấy tượng Phật Di-đà đứng trên đám mây duỗi tay xuống để cứu vớt chúng sanh đang lặn hụp trong biển khổ. Phật Thích-ca và tất cả chư Phật cũng vậy, các ngài lúc nào cũng duỗi tay tiếp đón mà chúng sanh cứ mải mê ngụp lặn không chịu đưa tay.

Khi thuyết pháp, Phật thường phóng hào quang chỗ sợi lông trắng ở giữa chặng mày, gọi là bạch hào, soi sáng tất cả cõi, để nhắc nhở chúng sanh mau thức tỉnh trở về. Duỗi tay vàng là thể hiện lòng từ bi tiếp độ, phóng sáng ngọc là phóng ánh sáng trí tuệ soi đường cho mọi người được tỏ rạng. Đó là tinh thần từ bi cứu khổ của đức Phật.

“Trộm nghe giờ vừa sang tý, đêm đã nửa rồi. Ngọn đèn dĩa bạc đã hầu tàn, đường sá trong thành đều lắng bụi.” Giờ tý canh ba là nửa đêm. Đêm đã về khuya, ngọn đèn bằng dĩa bạc thắp trong nhà sang trọng lần lần tàn lụi. Ngoài đường ngựa xe đều nghỉ nên đường sá lắng bụi.

“Mấy trận gió mây sanh muôn dặm, một vầng trăng sáng rọi canh ba. Lưa thưa rừng trúc rây vàng, lấp lánh hoa sân vờn ngọc.” Mấy trận gió thổi mây bay đi muôn dặm, nhìn lên trời chỉ thấy một vầng trăng sáng rọi xuống lúc canh ba. Rừng tre rừng trúc có những chỗ thưa hở, ánh trăng xuyên qua giống như rây những tia vàng rơi xuống. Ngoài sân ánh sáng trăng lấp lánh, gió đùa hoa như vờn ngọc. Đây là cảnh nửa đêm trăng sáng có vườn trúc lung lay, hoa sân vờn ngọc.

“Hạc oán lặng thinh nơi trướng tuệ, vượn buồn kêu mãi chốn rừng tùng.” Con hạc không biết oán hận ai mà đêm khuya lặng thinh không kêu nữa, trong màn trướng người người đều yên giấc. Các con vượn buồn ai mà kêu mãi trong rừng tùng. Đây là diễn tả cảnh buồn đêm khuya.

“Xa xôi Sâm, Đẩu trải Ngân hà, vắng vẻ quỉ thần khóc đồng nội.” Trên trời cao, sao Sâm sao Đẩu trải dài trên dải Ngân hà. Sâm tức là tên một ngôi sao trong nhị thập bát tú (hai mươi tám vì sao). Đẩu là tên một chùm sao gồm có: Nam Đẩu (sáu ngôi sao), Bắc Đẩu (bảy ngôi sao), Tiểu Đẩu (năm ngôi sao), gọi sao Đẩu phần nhiều là để chỉ sao Bắc Đẩu. Ngoài đồng nội vắng vẻ đìu hiu dường như quỉ thần đang khóc.

“Cuốc kêu thống thiết, mộng điệp say mê. Thân huyễn lẻ loi trong rừng rậm, mộng hồn rong ruổi ngàn dặm trường.” Chim cuốc kêu thống thiết ngoài lùm bụi, nơi phòng người đang say mê trong giấc điệp. Thân huyễn hóa nằm một mình nơi thôn xóm, mà hồn mộng đi xa ngoài ngàn dặm. Thí dụ như đêm khuya thân nằm trên núi, mà mộng hồn đi tới thành phố Sài Gòn.

“Cam chịu ma ngủ quấy rầy luôn, đâu biết đuốc trí hằng sáng rực. Ngoài nhà thần phách lạc hồn bay, trong hang quỉ tròng che mắt nhắm.” Chúng ta cam chịu ma ngủ quấy rầy làm cho say mê, đâu biết rằng ngay khi mê đuốc trí hằng sáng rực nơi mình. Muốn chiến thắng ma ngủ, chúng ta phải thắp lên ngọn đuốc trí, nghĩa là phải chịu khó ngồi dậy đi rửa mặt, tréo chân ngồi kiết-già, không được nằm ì nhắm mắt, ma ngủ sẽ làm cho mình mê say tăm tối, hồn phách tản mát dạo chơi. Khi bị tối tăm, nhà thiền gọi là ở trong hang quỉ. Giả sử đang ngồi thiền nhắm mắt, lâu lâu gật một cái, lúc đó tuy ngồi tại Thiền đường, nhưng chúng ta đang sống trong hang quỉ, nên nói: “trong hang quỉ tròng che mắt nhắm”, nghĩa là khi mắt nhắm tròng mắt bị che bít nên ngủ say sưa như ở trong hang quỉ. Lúc đó chúng ta không còn đàng hoàng tỉnh táo, không còn khôn ngoan làm chủ được mình, thật là đáng buồn. Chúng ta đi tu ai cũng muốn được giác ngộ thành Phật. Vậy chúng ta phải chiến thắng ma ngủ, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, quyết ra khỏi hang quỉ mê mờ u tối.

“Chỉ thích tham mê ngủ nghỉ, đâu biết nếm vị Chân như.” Nếu chỉ ham thích ngủ nghỉ, thì không nếm được vị Chân như. Được ngồi yên tỉnh táo, hoàn cảnh chung quanh đều im lặng, chính khi ấy chúng ta mới nếm được vị Chân như. Còn nằm nhắm mắt ngủ khò, đó là vị say của ma ngủ.

“Ham ưa một giấc ngon đến sáng, nào ngại trăm năm cơn chết chờ.” Câu này thật là buồn. Chúng ta ham mê ngủ nghỉ, nằm xuống đánh một giấc ngon tới sáng, thật là thích thú, nhưng nào ngờ cơn chết đang chực sẵn bên mình. Thế nên ngủ ít, ngủ thiếu để lo giải quyết chuyện sanh tử, nếu mê ngủ hoài thì ai giải quyết cho mình? Đó là lời nhắc nhở để đánh thức chúng ta không nên mê nữa.

“Các Phật tử! Phải nhớ bốn rắn bức bách, chớ quên hai chuột gặm mòn.” Đây là điển tích trong nhà Phật. Bốn rắn bức bách tức là “tứ xà đồng niếp”, nghĩa là bốn con rắn nhốt chung trong một cái chậu. Trong kinh Niết-bàn, đức Phật nói: Ngày xưa có một người nuôi bốn con rắn độc chung trong một chậu lớn, chúng không ưa nhau nên cắn lộn mãi, người nuôi phải đem đủ thức ăn và phải điều hòa chúng. Cứ như thế mà lo cho đáo để, đến một hôm cái chậu ngã lăn, mấy con rắn chạy tứ tán, mỗi con một nơi, người nuôi chới với kiếm bốn con rắn khác nuôi nữa. Cứ nuôi như vậy một lần, hai lần đến cả trăm ngàn lần, thật là đáng thương cho người đó vì họ làm việc của dã tràng, ra công sức để làm, kết quả hoàn tay không. Người thích nuôi bốn rắn đó là ai? Là người mê hay tỉnh, ngu hay sáng? Nếu là người sáng suốt, khi bốn con rắn không ưng ở chung mỗi con muốn đi mỗi ngả, mình chỉ cười thôi, cười vì hết nợ, không còn ra công nuôi nấng nhọc nhằn và can ngăn để giảng hòa chúng nữa. Bốn con rắn ấy là: rắn hổ đất, rắn nước, rắn hổ lửa, rắn hổ mây; nếu nhốt chung lại một chỗ, chúng nó cắn lộn lấn áp lẫn nhau cho nên chúng ta phải kiếm đất bỏ vào, lấy nước tưới vào... cả ngày cực khổ, cứ như thế làm suốt đời, suốt kiếp. Thế mà khi bốn rắn sắp ly tán chúng ta lại than van khóc tiếc, thật là dại khờ. Đức Phật dùng thí dụ này để chỉ trong cuộc sống nếu chúng ta cứ theo đuổi giữ gìn thân tứ đại thì uổng đi một kiếp không có lợi ích gì.

“Chớ quên hai chuột gặm mòn.” Đây là câu chuyện trong kinh, Phật dùng để thí dụ: Có người tử tội, nhà vua cho quân lính áp dẫn ra rồi thả hai con voi tới để giày xác, người ấy cắm đầu chạy, hai voi đuổi nà theo. Bất chợt bên đường ông thấy một cái giếng cạn nên vội nhảy xuống để trốn. Dưới đáy giếng có ba con rồng đang phun lửa, ông hoảng sợ vội chụp sợi dây bìm bìm thòng xuống gần bên và phăng lần lên. Khi còn đeo lơ lửng giữa chừng thì chung quanh thành giếng có bốn con rắn độc thè lưỡi ra chực đớp ông. Hết lối thoát ông chỉ còn cách đeo sợi dây chờ chết. Trong khi đó, ở trên miệng giếng lại có hai con chuột, một trắng một đen, chạy qua chạy lại gặm nhấm sợi dây, thật nguy hiểm biết chừng nào! Thế mà bất thần có bầy ong mật bay ngang qua làm rớt năm giọt mật, người tử tội liếm được mật thích quá, say mê quên cả nguy hiểm đang chực sẵn bên mình.

Qua thí dụ trên đức Phật muốn nói lên điều gì? Tất cả chúng ta sanh ra có phải là những người mang án tử hình không? Có sanh thì nhất định có tử, cho nên người tử tội là dụ cho án tử hình của mỗi người chúng ta. Hai con voi đuổi theo là dụ cho hành khổ và hoại khổ. Hành khổ tức là khổ vì vô thường, từng sát-na thay đổi. Hoại khổ tức là khổ vì tan hoại. Hai khổ này theo đuổi thân chúng ta, nên Phật dụ hai con voi rượt đuổi người tử tội. Khi chạy trốn hai voi, người tội lại nhảy xuống giếng gặp ba con rồng đang phun lửa. Ba con rồng là dụ cho tam độc (tham sân si) đang thiêu đốt chúng ta. Muốn tránh ba độc, phải phăng sợi dây leo lên. Đang ở nửa chừng giếng có bốn rắn ló đầu ra chực cắn. Bốn rắn là dụ cho tứ đại, lúc nào cũng tranh giành chống trái lẫn nhau. Người tử tội chỉ còn đeo sợi dây, dụ cho sanh mạng hay tuổi thọ của mình. Hai con chuột chạy qua chạy lại gặm nhấm sợi dây là dụ cho ngày và đêm, ngày qua đêm lại, tuổi thọ của mình mòn dần, đến một hôm nào sợi dây đứt thì rớt xuống giếng tan thân mất mạng. Nhưng lúc đó bất thần có mấy con ong làm rơi năm giọt mật, người tử tội liếm mật say mê quên hết khổ sở hiểm nguy. Năm giọt mật là dụ cho ngũ dục, theo nghĩa thông thường thế gian ngũ dục là tài, sắc, danh, thực, thụy, tức là tiền của, sắc đẹp, danh vọng, ăn ngon, ngủ kỹ. Theo nhà Phật, ngũ dục là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Năm dục làm cho chúng ta say mê quên lửng mình đang sống trong nguy hiểm cơ cực tột cùng. Chúng ta phải quyết tâm thoát khỏi hiểm nguy cho kỳ được, đó mới là người thức tỉnh.

Thí dụ trên cho chúng ta thấy cuộc sống của mình lúc nào cũng bất an, hiểm nguy đang chực sẵn, mà ít người nhớ tới. Khi cơn vô thường chợt đến, chúng ta than khóc khổ đau. Nếu là người sáng suốt thì vô thường là chuyện đương nhiên, không có gì phải than van nuối tiếc.

“Luân hồi ba cõi chừng nào thôi, quanh quẩn bốn loài bao giờ hết?” Nếu chúng ta say mê theo năm giọt mật thì luân hồi trong ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới không biết lúc nào thôi, lên xuống trong lục đạo địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời đến bao giờ mới dứt? Đây là câu hỏi làm cho chúng ta thức tỉnh.

“Đường vãng sanh nên bước, cần vin xe dẫn ra.” Đường vãng sanh không phải hiểu theo nghĩa vãng sanh Tịnh độ, mà ở đây muốn nói đến con đường giải thoát, đường này chúng ta phải gấp bước. “Cần vin xe dẫn ra” là nhắc đến phẩm Thí dụ trong kinh Pháp Hoa. Trong căn nhà lửa đang cháy hừng hực, các con ông Trưởng giả không hề hay biết, cứ say mê vui chơi đùa giỡn, không chịu chạy ra. Ông Trưởng giả thương xót mới tìm phương tiện dẫn dụ các con, đặt ra ba chiếc xe là xe dê, xe hươu, xe trâu. Nhờ ham xe nên chúng nó chạy ra khỏi nhà lửa. Nhưng khi các con chạy ra khỏi, ông Trưởng giả chỉ cho xe trâu trắng trang hoàng lộng lẫy, màn trướng phủ che, tôi tớ hầu hạ... quá sự mơ ước của các con. Đây là để nói chúng ta đang quanh quẩn trong nhà lửa tam giới, muốn thoát ra phải nương ba xe dụ cho ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Thật ra chỉ Phật thừa là cứu kính, được tượng trưng bằng xe trâu trắng.

“Chỗ lao quan đó, quyết định đêm nay phá vỡ.” Lao quan là chỗ ngục tù giam hãm, ngay trong đêm nay chúng ta quyết phá vỡ để vượt ra. Trong nhà Thiền, tông Lâm Tế thường nói đến Tam quan, tức là: Tổ sư quan, trùng quan và lao quan, nghĩa là chúng ta tu hành cốt phải vượt khỏi tất cả cửa ải trở ngăn để đến chỗ giác ngộ viên mãn. Đây là ngài Trần Thái Tông muốn nhắc ngay trong đêm tối đang ngủ ngon này, chúng ta phải gan dạ thức dậy tu hành để vượt khỏi những trói buộc giam hãm chúng ta trong ngục tù tam giới.

“Đệ tử chúng con, kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ nửa đêm.”
SÁM HỐI TỘI CĂN THÂN
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,  
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

Đây là lời sám hối tổng quát của các căn để nhắc rằng từ thuở nào đến giờ chúng ta đã quên mất bản tâm, không biết con đường chánh, vì vậy mà lẩn quẩn trong ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Sở dĩ như thế là vì sáu căn chúng ta sai lầm tạo nghiệp. Nay chúng ta phải sám hối những lỗi trước đã làm, mới có thể tránh được những lỗi sau này.

NGHIỆP CĂN THÂN LÀ:
Tinh cha huyết mẹ, chung hợp nên hình;
Năm tạng trăm hài, cùng nhau kết hợp.
Chấp cho là thật, quên mất Pháp thân;
Sanh dâm, sát, trộm, bèn thành ba nghiệp.

Thân hình chúng ta do tinh cha huyết mẹ hợp thành, trong đó năm tạng trăm hài kết lại cùng nhau. Năm tạng là: tâm, can, tì, phế, thận, trăm hài là chỉ các đốt xương. Thật ra khi ngồi tu, chúng ta nhìn lại thân này thật buồn cười. Nó chỉ là một cái sườn bằng xương, cột dính lại bằng những sợi gân, rồi tô đắp bằng máu thịt, bên ngoài bọc một lớp da, gọi đó là thân. Thân người là sự kết hợp như vậy, lại “chấp cho là thật, quên mất Pháp thân”. Vì chấp thân mình là thật, nên sanh ra các tội, nào là dâm, sát và trộm tạo thành ba nghiệp.

NGHIỆP SÁT SANH LÀ:
Luôn làm bạo ngược, chẳng khởi nhân từ;
Giết hại bốn loài, đâu biết một thể.

Chúng ta luôn luôn làm những điều bạo ngược mà không khởi lòng nhân, thường giết hại bốn loài, đâu biết chúng cùng một thể. Bốn loài là: thai sanh, noãn sanh, thấp sanh, hóa sanh, tất cả những loài đó chúng ta đều giết hại, đâu biết rằng về mặt vật chất, chúng cũng từ tứ đại hợp thành không khác gì chúng ta.

Lầm hại cố giết, tự làm dạy người;
Hoặc tìm thầy bùa, đem về ếm đối.
Hoặc làm thuốc độc, để hại sanh linh;
Chỉ cốt hại người, không hề thương vật.

Tâm ác độc của con người luôn luôn là cố hại. Hoặc là giết lầm, hoặc là cố ý, có khi tự mình giết hay dạy người giết, bằng cách này hay cách khác. Làm bùa làm chú hoặc làm thuốc độc, chỉ cốt hại người cho được, không hề thương tưởng.

Hoặc đốt núi rừng, lấp cạn khe suối;
Buông chài bủa lưới, xuýt chó thả chim.
Thấy nghe tùy hỉ, niệm dấy tưởng làm;
Cử động vận hành, đều là tội lỗi.

Có khi đốt rừng đốt núi làm cho những con vật bị chết thiêu, hoặc lấp cạn các khe suối làm cho tôm cá chết khô. Ở thế gian khi còn mê lầm, mỗi một ngày sống của chúng ta là mỗi một ngày sát hại sanh linh, nghĩa là chúng ta bồi bổ mạng sống của mình bằng thể xác của những con vật. Trong một bữa ăn dù nhà nghèo đi nữa, nếu chúng ta mua những con cá nho nhỏ, ít ra cũng vài ba chục con để dùng cho ngon miệng. Ngày nào cũng như ngày nấy, đều đều như vậy, thì chừng bao nhiêu con vật đã chết vì mình? Thế là chúng ta chỉ nghĩ tới sự sống của bản thân mà không nhớ đến nỗi khổ đau của chúng. Đó là nói về tội sát sanh.

NGHIỆP TRỘM CẮP LÀ:
Thấy tài bảo người, thầm khởi tâm tà;
Phá khóa cạy then, sờ bao mò túi.
Thấy của Thường trụ, lòng dấy khởi tham;
Trộm của nhà chùa, không sợ thần giận.
Không những vàng ngọc, mới mắc tội to;
Ngọn cỏ cây kim, đều thành nghiệp trộm.

Chẳng những trộm của thế gian, mà của chùa nhiều khi những người tham cũng muốn lấy cắp, không sợ các Long thần Hộ pháp quở rầy. Mắc tội trộm, không phải lấy của nhiều mới là trộm, dù cho một cây kim, một trái ớt, không xin mà lấy, cũng là mang tội.

NGHIỆP TÀ DÂM LÀ:
Lòng mê nhan sắc, mắt đắm phấn son;
Chẳng đoái liêm trinh, riêng sanh lòng dục.
Hoặc nơi đất Phật, Chánh điện phòng tăng;
Cư sĩ gái trai, đụng chạm đùa giỡn.
Tung hoa ném quả, đạp cẳng kề vai;
Khoét ngạch trèo tường, đều là dâm nghiệp.
“Cư sĩ gái trai” là chỉ những người cư sĩ nam, cư sĩ nữ, tiếng Trung Hoa gọi là Cận sự nam, Cận sự nữ, dịch từ chữ Phạn Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
Như vậy mê sắc đẹp, không những ở ngoài thế gian, có khi đến chùa những người cư sĩ còn đùa giỡn, có những ý niệm đắm mê nhan sắc, nên tạo nhiều tội lỗi.
Những tội như thế, vô lượng vô biên;
Đến lúc mạng chung đều vào địa ngục.
Gái nằm giường sắt, trai ôm cột đồng;
Muôn kiếp tái sanh, lại chịu tội báo.

Khi sống do thân này mà tạo ba nghiệp: sát sanh, trộm cướp, tà dâm, gây nên bao nhiêu tội lỗi. Đến khi chết phải đọa vào địa ngục, người nữ thì nằm giường sắt nóng, người nam thì ôm cột đồng cháy đỏ. Khi hết tội, được sanh làm người, lại chịu các quả báo dư thừa.

Nếu không sám hối, khó được tiêu trừ;
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.

Những lỗi lầm do thân tạo ra, chúng ta đều phải thành tâm sám hối để tiêu trừ ba nghiệp.
CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật,
Và chư Bồ-tát Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng,
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia (giác).

CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ,
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang thập địa nguyện sớm lên,
Bồ-đề Chân tâm không lui sụt.

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm về Thánh chúng,
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh,
Nương thắng nhân này thành Chánh giác.

Những đoạn này đã giảng trong các bài trước.
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện mạng căn chóng thành tuệ,
Hai nguyện thể tướng biến thành chân,
Ba nguyện gieo mình cầu đại pháp,
Bốn nguyện vào lửa ngộ thâm nhân.
Năm nguyện đốt thân đền Phật đức,
Sáu nguyện chẻ tủy đáp ơn thầy,
Bảy nguyện xin đầu trọn chẳng tiếc,
Tám nguyện móc mắt cũng là thân.
Chín nguyện thoa hương không
ưa thích,
Mười nguyện cắt thịt chẳng sanh sân,
Mười một nguyện đời đời không đắm trước,
Mười hai nguyện kiếp kiếp lìa tục trần.
Mười hai nguyện này chúng ta đọc lên để thử xem có thành tựu được hay không?
“Một nguyện mạng căn chóng thành tuệ.” Chúng ta nguyện cho mạng căn được chóng thành trí tuệ, gọi là giới thân tuệ mạng, tức là lấy trí tuệ làm mạng, chớ không phải lấy cuộc sống làm mạng.

“Hai nguyện thể tướng biến thành chân.” Nguyện thân tướng vô thường tạm bợ này biến thành thể chân thật, tức là Pháp thân.
“Ba nguyện gieo mình cầu đại pháp.” Đây là dẫn sự tích trong kinh Vị Tằng Hữu Thuyết Nhân Duyên, kể lại chuyện Bồ-tát đi học đạo. Người hứa dạy đạo bảo: Nếu muốn được dạy
pháp Phật thì phải hi sinh thân mình, nhảy xuống dưới hố ta sẽ dạy cho. Bồ-tát vì cầu đại pháp mà chấp nhận xả thân không kinh sợ.
“Bốn nguyện vào lửa ngộ thâm nhân.” Bảo nhảy vào lửa cũng nhảy để ngộ được nhân sâu xa.
“Năm nguyện đốt thân đền Phật đức.” Vì đền ơn đức Phật nên dù đốt thân mình cũng không tiếc.
“Sáu nguyện chẻ tủy đáp ơn thầy.” Chỉ cần biết ơn thầy lo tu hành cũng là khó rồi, huống nữa là chẻ tủy. Người xưa phát nguyện mạnh như vậy, chúng ta ngày nay chỉ đọc lời nguyện thôi, chưa chắc làm được.
“Bảy nguyện xin đầu trọn chẳng tiếc.” Dù cho người ta xin cái đầu cũng chẳng tiếc. Như câu chuyện Tổ Sư Tử cho đầu: Vua nước Kế-tân, tay cầm kiếm bén đến hỏi: Ngài thấy năm uẩn đều không chưa? Tổ đáp: Phải, tôi thấy năm uẩn đều không. Vua hỏi: Nếu năm uẩn đều không, cho tôi cái đầu được chăng? Tổ bảo: Năm uẩn đều không, sá gì cái đầu. Tổ cho đầu mà chẳng tiếc.
“Tám nguyện móc mắt cũng là thân.” Dù móc con mắt của mình cũng là thân chớ không có thù. Trong kinh kể lại: Có một vị Tỳ-kheo nguyện xả thân, ai muốn xin phần nào trong thân ngài cũng cho. Một vị trời hiện thân làm người ngoại đạo tới nói: Tôi muốn xin tròng con mắt của Ngài về làm thuốc. Vị Tỳ-kheo liền móc con mắt đưa cho, người ấy cầm tròng mắt quăng xuống đất, lấy chân chà lên. Vị Tỳ-kheo liền nổi sân, tưởng đâu cho mắt làm thuốc, mà lại chà đạp lên. Người ngoại đạo liền hiện thân trời Đế Thích nói: Như vậy là Ngài chưa thật cho mà không tiếc. Dù móc mắt cho cũng là thân chớ đừng nổi sân.
“Chín nguyện thoa hương không ưa thích.” Dù cho đem hương thoa thân cũng không thích. Nếu thoa chất gì nhơ nhớp thì chúng ta không bằng lòng, còn đem hương thơm thoa mình, rất khó mà không thích.
“Mười nguyện cắt thịt chẳng sanh sân.” Dù bị cắt thịt nguyện cũng không sân hận. Nhưng chúng ta bây giờ chỉ đụng đau một chút là kêu la, huống nữa là cắt da thịt, làm sao chịu nổi.
“Mười một nguyện đời đời không đắm trước.” Đối với tất cả sắc, thanh, hương, vị, xúc, nguyện không bao giờ đắm trước.
“Mười hai nguyện kiếp kiếp lìa tục trần.” Nguyện kiếp kiếp không dính với những gì trần tục.
Đây là mười hai nguyện đối với thân, nếu chúng ta gan dạ nguyện và làm được như vậy, quả là người siêu phàm.
KỆ VÔ THƯỜNG THỜI NÀY
Muôn tiếng vừa im bặt,
Canh ba trống điểm hồi,
Chim cuốc kêu thảm thiết,
Giấc mộng mãi mê say.
Cam trong hòe làm kiến,
Trở thành cá trên ao.
Không thể xem trăng mọc,
Chỉ luyến ái trong hoa.
Quên mất nhà muôn dặm,
Còn tham giấc ngủ thừa.
Chẳng biết thân là huyễn,
Mê muội đến bao giờ.
Bốn câu đầu diễn tả cảnh nửa đêm lúc canh ba.
“Cam trong hòe làm kiến”, tức là cam làm con kiến trong cây hòe. Sự tích như sau: Ngày xưa ở Trung Hoa, có ông Thuần Vu Phần, ngủ trưa dưới gốc cây hòe. Ông nằm mơ thấy mình đến nước Đại Hòe An, làm Thái thú quận Nam Kha hai mươi năm. Ông được vua nước Đại Hòe An gả Công chúa và sanh được năm trai, hai gái, cực kỳ vinh hiển. Sau ông đánh giặc bị thua, Công chúa chết, vua Đại Hòe An đuổi về quê. Ông chợt tỉnh dậy, thấy mình nằm dưới gốc cây hòe, trên cành hòe phía nam có một tổ kiến. Vì thế nên nói “cam làm kiến trong hòe”. Chúng ta cam say mê trong giấc mộng không chịu thức tỉnh. Cuộc đời chỉ là một giấc mộng dài, không có gì thật, cũng như chàng Thuần Vu Phần hưởng lạc thú trong giấc mộng, giựt mình tỉnh giấc thấy mình nằm dưới gốc cây. Đây là hình ảnh rất buồn. Điển tích này trích trong Nam Kha ký của Lý Công Tá.
“Trở thành cá trên ao.” Tức là muốn trở thành con cá trên ao. Đây là một sự tích khác.
Không thể xem trăng mọc,
Chỉ luyến ái trong hoa.

Nghĩa là chỉ thích làm con sâu trong cái hoa, chớ không muốn được tự do thong thả bên ngoài, cũng như chỉ thích làm kiến trong cây hòe, làm cá trong ao. Vì mê lầm chúng ta đắm trước trong những điều tạm bợ không ra gì, cho nên không thấy được cái đẹp đẽ, cao quí như mặt trăng.

Quên mất nhà muôn dặm,
Còn tham giấc ngủ thừa.
Chẳng biết thân là huyễn,
Mê muội đến bao giờ.


Chúng ta đã đi xa muôn dặm quên mất gia hương, lại mải say sưa trong giấc ngủ, không chịu thức tỉnh. Chẳng biết thân này là tạm bợ huyễn hóa, lại mê muội chấp cho là thật.
Bao nhiêu phiền não dấy khởi đều do chấp thân và cảnh là thật. Vì thế ai chạm tới thân thì bực bội oán thù, ai tước đoạt cảnh mình ưa thích thì giận hờn tức tối. Nếu biết rõ thân chúng ta mấy mươi năm rồi cũng tan hoại, cảnh bên ngoài là tạm bợ giả dối thì phiền não không còn, ba nghiệp dẹp sạch, thế mới là người tỉnh giác.
Đây là lời nhắc nhở của Phật và Tổ, tất cả chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ thực hành để đường tu của mình được trong sáng và tươi đẹp cho đến ngày giác ngộ viên mãn.

DÂNG HƯƠNG CUỐI ĐÊM

Cúi mong, sao Bắc Đẩu chuyển về phương Bắc, dải Ngân hà nghiêng hẳn về Tây. Bên gối giấc mộng còn say, trên lầu tiếng sừng vừa dứt. Chúng Tỳ-kheo họp nơi chiếu phạm, trước đức Phật dâng nén hương tin. Hương này giống từ cung nguyệt đem về, trong non rễ quấn chằng chịt. Dáng hình khác tục, thể chất phi phàm. Vượt xa Tước Đầu ở nước Ngô, cao hơn Qui Giáp ở Quế Lâm. Nơi đốt không dung lửa sân, khói bay bèn nhờ gió từ. Nào phải hương phàm hạ phẩm, hẳn là vị lạ thượng phương. Mỏng mỏng tơ bay kết thành điềm tốt, ngạt ngào khí lạ tụ hội duyên lành. Nghi ngút trước ngôi tòa báu, phảng phất ngoài bức rèm châu. Quay đầu tìm biết, quang minh ngay đó tự nhiên sanh. Thấy mặt ngửi huân, tịch diệt do đây chứng được. Nay lúc cuối đêm, đốt hương cúng dường.

“Sao Bắc Đẩu chuyển về phương Bắc, dải Ngân hà nghiêng hẳn về Tây. Bên gối giấc mộng còn say, trên lầu tiếng sừng vừa dứt.” Đây là chỉ lúc gần sáng, còn đang gối đầu ngủ say thì trên lầu tiếng sừng tức là tiếng tù và vừa dứt. Ngày xưa, gần sáng người ta thổi tù và trong thành phố cho mọi người thức dậy, cũng như ngày nay có tiếng kèn trong trại lính. Giờ đó:
“Chúng Tỳ-kheo họp nơi chiếu phạm, trước đức Phật dâng nén hương tin.” Phạm là thanh tịnh. Nghĩa là ở trước Phật trải chiếu, chúng Tỳ-kheo tụ hội lại chuẩn bị tụng kinh, tọa thiền, trước Phật dâng nén hương gởi gấm tất cả lòng tin. Tỳ-kheo hay Bí-sô, Bí-su là phiên âm từ chữ Phạn Bhiksu, nhưng sau này dùng chữ Tỳ-kheo làm chánh. Tỳ-kheo có ba nghĩa: khất sĩ, bố ma và phá ác. Nghĩa thông dụng nhất là khất sĩ, tức là kẻ ăn mày. Một là ăn mày lương thực của Phật tử, hai là ăn mày chánh pháp của Phật. Vì người tu cần giữ cho thân khỏe mạnh nên phải ăn mày lương thực để có phương tiện nuôi thân. Nhưng không phải chỉ ăn để sống, mà còn phải tu nên chúng ta phải ăn mày chánh pháp của Phật để nuôi dưỡng trí tuệ, trong nhà Phật gọi là Giới thân tuệ mạng, để trở thành con người giải thoát.

Bố ma là ma sợ. Trong kinh điển, người tu thọ giới Tỳ-kheo rồi thì ma sợ. Tại sao? Chúng ta đâu có bùa chú gì để ma sợ, nhưng Tỳ-kheo là người tu hạnh giải thoát, quyết ra khỏi tam giới, nên Ma vương hay Thiên ma sợ ra khỏi vòng kiểm soát của nó, vì thế thấy ai tu gần giải thoát là nó phá triệt để. Có những Tỳ-kheo ngồi thiền quán vô thường, thấy quả đất rung chuyển, vì thế ma thấy như quả đất của nó bị tan vỡ. Tu là làm lành nghĩ tốt, vượt khỏi tam giới để giáo hóa chúng sanh, lẽ ra ma đang ở trong cảnh khổ nó phải thương giúp mình, tại sao lại phá? Nhưng sự thật khi một người vuợt khỏi tam giới thì thế giới ma bị tan nát, nên tu ít nó phá ít, tu nhiều nó phá nhiều. Đức Phật khi thành đạo ma đến phá đủ cách, đến khi hoàn toàn không được nó mới hoảng sợ. Vậy đã là Tỳ-kheo thì không được sợ ma, nếu sợ ma là làm trái ngược những gì đang lãnh thọ, đang thực hành.
Phá ác tức là tất cả những phiền não ác độc chúng ta dẹp hết không còn thừa. Một Tỳ-kheo không thể nói tôi tức quá, tôi giận quá. Tức giận là điều ác mà ôm ấp, lại khoe với người, đó là còn nuôi cái ác, vậy chưa phải là Tỳ-kheo. Thật là khó! Nhiều vị muốn thọ giới cao, làm người lớn, mà không hiểu ý nghĩa thọ rồi phải làm gì cho xứng đáng. Vậy được thọ Tỳ-kheo phải hăng hái vươn lên làm đúng ý nghĩa đó.

Tóm lại chữ Tỳ-kheo, nghĩa thông dụng nhất là khất sĩ, tức là khất thực để có cơm ăn. Lại có nghĩa là xin giáo pháp của Phật để nuôi dưỡng Giới thân tuệ mạng. Nghĩa thứ hai là bố ma là ma sợ chúng ta, chớ chúng ta không được sợ ma. Nghĩa thứ ba là phá ác, tất cả tam độc chúng ta phải thắng chớ không nuôi dưỡng chúng. Như vậy mới xứng đáng là Tỳ-kheo, trái lại nếu không xứng đáng có gọi Tỳ-kheo cũng chỉ là tên suông, không có giá trị thật.

“Hương này giống từ cung nguyệt đem về, trong non rễ quấn chằng chịt.” Hương này ở trên cung trăng đem về, không phải tầm thường, gốc nó từ trong rừng núi.
“Dáng hình khác tục, thể chất phi phàm.” Hương này hình dáng khác với thế tục, thể chất không phải theo phàm tình.

“Vượt xa Tước Đầu ở nước Ngô, cao hơn Qui Giáp ở Quế Lâm.” Ở Trung Hoa, vùng sông Dương Tử, nếu từ trên nguồn đi xuống thì nước Ngô ở phía tay mặt, còn từ biển đi lên thì ở phía tay trái, nên ngày xưa gọi là Giang tả, cũng gọi là Đông Ngô, vùng đó có loại hương Tước Đầu thơm nhất. Quế Lâm là một tỉnh ở Trung Quốc, nơi đó người ta tinh luyện quế hương để trang sức, hình nó giống như mai rùa nên gọi là hương Qui Giáp. Hai loại hương này thơm quí nhất ở Trung Hoa, nhưng hương cúng Phật còn vượt xa hơn.

“Nơi đốt không dung lửa sân, khói bay bèn nhờ gió từ.” Hương này lửa sân không đốt được mà phải lửa thanh khiết. Thường chúng ta nóng giận thì gọi là lửa sân, hương này đốt lên lửa sân phải tiêu. Khói hương bay không do gió thường thổi mà phải là ngọn gió từ bi.

“Nào phải hương phàm hạ phẩm, hẳn là vị lạ thượng phương.” Hương này không phải như hương thường ở thế gian thuộc hạ phẩm mà hẳn là hương lạ ở cõi trên. Ngài diễn tả làn hương bay:

“Mỏng mỏng tơ bay kết thành điềm tốt, ngạt ngào khí lạ tụ hội duyên lành, nghi ngút trước ngôi tòa báu, phảng phất ngoài bức rèm châu.” Làn khói hương mỏng mỏng kết thành điềm tốt, mùi thơm ngạt ngào của khí lạ tụ hội thành duyên lành. Hương đốt trước ngôi tòa báu của Phật, mùi thơm phảng phất ngoài bức rèm châu.
“Quay đầu tìm biết, quang minh ngay đó tự nhiên sanh. Thấy mặt ngửi huân, tịch diệt do đây chứng được.” Ai biết quay đầu lại tìm biết hương này thì ánh sáng ngay đó tự nhiên sanh. “Quay đầu tìm biết” mang ý nghĩa thiền, xoay đầu nhìn lại mình thì khi ấy ánh sáng tự nhiên của mình được phát ra. “Thấy mặt ngửi huân” là thấy được mùi hương mình ngửi, huân được mùi hương thanh tịnh thì chứng quả Niết-bàn tịch diệt. “Nay lúc cuối đêm, đốt hương cúng dường.”
KỆ DÂNG HƯƠNG
Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức,
Chiên-đàn, vườn tuệ đã vun trồng,
Đao giới vót thành hình non thẳm,
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dâng.

KỆ DÂNG HOA
Tâm địa mở ra, hoa nở rộn,
Trời có mưa hoa, vẫn kém thơm.
Cành cành đóa đóa dâng cúng Phật,
Gió nghiệp muôn đời thổi chẳng rơi.
HIẾN DÂNG HƯƠNG HOA RỒI BẠCH

Nguyện mây hương hoa này, khắp cả mười phương cõi, cúng dường tất cả Phật, tôn Pháp chư Bồ-tát, vô lượng chúng Thanh văn và tất cả Thánh Hiền, vừa rời đài Quang minh, qua cõi nước vô biên, trong vô biên cõi Phật, nhận dùng làm Phật sự, xông khắp các chúng sanh, đều phát tâm Bồ-đề.
Cúng dường rồi, chí tâm qui mạng lễ mười phương Vô thượng Tam Bảo.

TÂU BẠCH

Kính bạch mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư; rót cam lồ cứu đàn đói khát, cầm thần châu gieo chỗ tối tăm. Trộm nghĩ: Trùng thúc năm dạo, gà giục ba hồi. Bóng đuốc tiệc hoa vừa tàn lụi, dải sao Ngân hà sắp lặn chìm. Giấc bướm lại quay về thế mộng, chuông chùa phá vỡ chốn âm u. Đầu non biếc ngậm nửa trăng mờ, mặt biển xanh vầng hồng chưa hiện. Vách cũ dế kêu từng chập, đường quan vó ngựa nhịp đều. Đầu thành làn khói nhạt bao quanh, ngoài trời màn sương sớm che phủ. Chính là lúc đạo sĩ luyện tu, cũng là thời chư Tăng hành đạo. Đường đời mờ mịt, quần sanh rối bời. Tuy sợ đang đêm ôm gối ngủ, chưa tỉnh trọn đời mở mắt mê.
Chư Phật tử! Nếu mặc suốt đêm theo dục lạc, bèn khiến trọn ngày chịu tâm mê. Đến nỗi trói buộc một đời, đều bởi “tán hôn” hai chữ . Vì ngươi mở thẳng một con đường, để lại mai sau tác gia ngắm. Nên biết, mạng người khó thường, chớ để thời này qua rỗng. Nhìn lấy Tịnh độ trước mắt, nhận ra trong tâm Di-đà. Nếu hay ưa vui gánh vác, liền được trong ấy hiện ra. Đệ tử chúng con, kính tưởng thời này, lấy làm khóa lễ cuối đêm.
“Kính bạch mười phương Đại Giác, ba đời Hùng Sư”, nói gọn là mười phương ba đời tất cả chư Phật.
“Rót cam lồ cứu đàn đói khát, cầm thần châu gieo chỗ tối tăm.” Phật rót nước cam lồ để cứu đàn con dại đang lang thang đói khát, cầm hạt châu sáng gieo vào chỗ tối tăm cho những người đang ở chỗ u minh tìm được đường đi, thấy được lối ra.
“Trộm nghĩ trùng thúc năm dạo, gà giục ba hồi.” Lúc canh năm các côn trùng dế ve... kêu từng chập, gà đã gáy ba đợt.

“Bóng đuốc tiệc hoa vừa tàn lụi, dải sao Ngân hà sắp lặn chìm.” Nơi cung điện đèn đuốc trong những buổi tiệc hoa vừa tàn, nhìn lại dải sao Ngân hà sắp lặn.
“Giấc bướm lại quay về thế mộng, chuông chùa phá vỡ chốn âm u.” Giấc bướm là giấc điệp hay mộng điệp. Qua một đêm ngủ say bao nhiêu giấc mộng dồn dập, nay thức giấc, tất cả đều là mộng của thế gian, không có thật. Bỗng tiếng chuông chùa vang lên phá vỡ chỗ âm u tăm tối. Buổi khuya chuông chùa gióng lên báo hiệu gần sáng, mọi người chuẩn bị lo buổi sáng. Câu này trong phần chữ Hán có từ ngữ bồ lao, do tích: Thuở xưa tại một hòn đảo ở Ấn Độ có con cá kình, mỗi khi nó ngửng đầu nổi trên mặt nước, nước dâng lên thành lụt nên dân trên đảo rất sợ. Khi cá kình trồi lên, con bồ lao thấy hét lên một tiếng, cá kình sợ lặn xuống, dân trên đảo khỏi bị ngập lụt. Thế nên về sau trong chùa làm chuông chạm hình bồ lao, dùi chuông đóng chạm hình cá kình, chày đóng vào chuông tượng trưng tiếng hét con bồ lao cứu dân hết khổ. Vì thế khi nghe tiếng chuông mọi người đều giảm khổ đau trong cuộc đời này và trong cõi địa ngục u minh.

“Đầu non biếc ngậm nửa trăng mờ, mặt biển xanh vầng hồng chưa hiện.” Trên đầu non xanh, vầng trăng đã khuất phân nửa. Trên biển xanh mặt trời hồng chưa hiện.
“Vách cũ dế kêu từng chập, đường quan vó ngựa nhịp đều.” Trong những vách cũ rêu phong tiếng dế kêu từng chập. Trên đường quan chân ngựa bắt đầu nhịp đều.
“Đầu thành làn khói nhạt bao quanh, ngoài trời màn sương sớm che phủ.” Đầu thành phố có những làn khói nhạt bao quanh, sáng sớm sương khói mờ mờ che phủ.
“Chính là lúc đạo sĩ luyện tu, cũng là thời chư Tăng hành đạo.” Đây là giờ những đạo sĩ tu tiên bắt đầu thức dậy luyện tập, cũng là giờ chư Tăng tụ hội tụng kinh tọa thiền.
“Đường đời mờ mịt, quần sanh rối bời.” Đường đời đủ các thứ dụ dỗ lôi cuốn làm cho con người phải mê lầm chìm đắm quay cuồng trong đó không tìm được lối ra.
“Tuy sợ đang đêm ôm gối ngủ, chưa tỉnh trọn đời mở mắt mê.” Tối kê đầu trên gối ngủ đó là mê. Người biết tu sợ ngủ là mê, nhưng nếu thức mà chưa tỉnh giác thì dù đi lại nói năng cũng vẫn là kẻ mê, mở mắt mà mê. Ngủ mê là do nhắm mắt, còn thức mê là do trí chưa mở, tuy mở mắt mà vẫn mê, đây là lời nhắc nhở rất chí thiết.
“Chư Phật tử! Nếu mặc suốt đêm theo dục lạc, bèn khiến trọn ngày chịu tâm mê.” Nếu trong đêm tối cứ chạy theo dục lạc, rượu chè đàn hát, say sưa theo “tửu sắc tài khí” thì khiến trọn ngày chịu tâm mê. Người đời ban ngày đi làm có tiền để ban đêm đi chơi thỏa mãn dục lạc, nên ban ngày họ cũng bị chìm đắm trong mê.
“Đến nỗi trói buộc một đời đều bởi tán hôn hai chữ.” Cả đời bị trói buộc đều tại hai chữ tán và hôn. Tán là tán loạn, hôn là hôn trầm. Đối với người đời, tán là thả mình theo dục lạc, hôn là say sưa với mùi trần tục, chớ không phải chỉ nói tán loạn hôn trầm của người tu thiền.

“Vì ngươi mở thẳng một con đường để lại mai sau tác gia ngắm.” Ngài muốn nói các ông đang say mê, vì thương các ông tôi chỉ rõ một con đường cho các ông đi, con đường đó những người đạt đạo sau này sẽ thấy. Chữ tác gia, trong kinh A-hàm có kể rằng sau khi ngộ đạo đức Phật nói: “Ta từ nay mới thấy được người làm nhà.” Người làm nhà là chỉ người chủ động gây nên luân hồi sanh tử, rồi cũng chủ động trở về giác ngộ. Trong nhà Thiền, hàng tác gia mắt sáng là chỉ những Thiền sư đã ngộ đạo, làm mẫu mực cho người. Thế nên Ngài muốn nói rằng Ngài vạch ra một con đường mà hàng sáng mắt sẽ thấy.

“Nên biết, mạng người khó thường, chớ để thời này qua rỗng.” Trước hết Ngài nhắc phải thấy mạng người vô thường, nay còn mai mất không gì bảo đảm, vậy đừng để một đời qua suông, đừng để thân vô thường sống ngày qua ngày rồi chờ chết mà không làm gì lợi ích, không tạo được những việc hay tốt, cao quí.

Ngài lại chỉ xa hơn: “Nhìn lấy Tịnh độ trước mắt, nhận ra trong tâm Di-đà.” Chúng ta quan niệm Tịnh độ là ở Tây phương. Tây phương Cực lạc cách đây bao nhiêu vạn cõi Phật. Nay Ngài muốn chỉ thẳng cho chúng ta biết Cực Lạc ở ngay trước mắt, đừng tìm Cực Lạc ở đâu xa, ngay trước mắt chúng ta tâm tịnh thì độ tịnh. Lúc nào tâm chúng ta lăng xăng, rối loạn là khổ, tâm thanh tịnh là lạc. Quí Phật tử thử nhớ buổi tối nằm lại nhắm mắt ngủ nhưng trong đầu cứ rối bời, muốn buông để ngủ mà không được, lúc đó thật là khổ. Trái lại nếu buông và ngủ được thì rất khỏe. Như vậy tâm loạn là khổ, nên tâm loạn là Ta-bà; tâm tịnh là vui nên tâm tịnh là Cực Lạc. Ta-bà, Cực Lạc ngay trước mắt chúng ta.

“Nhận ra trong tâm Di-đà” tức là tự tánh Di-đà, nghĩa là nhận ra Di-đà ngay trong tâm mình. Di-đà là tiếng Phạn, dịch nghĩa theo chữ Hán là Vô lượng thọ, Vô lượng quang. Vô lượng thọ là sống lâu không thể tính kể. Vô lượng quang là ánh sáng cũng không thể tính kể. Thân này có sanh có diệt nhưng tánh giác không sanh diệt tức là Vô lượng thọ. Vọng tưởng điên đảo là mê, còn tánh giác là hằng giác, hằng sáng, tức là Vô lượng quang. Như vậy Di-đà là ở ngay tự tánh mình. Nếu quên tự tánh là mê, ngộ tự tánh là giác, nhớ quay lại tự tánh mình, sống với tánh giác, đó là sống với Phật Di-đà. Thế nên tu thì phải làm sao cho tâm được thanh tịnh, đó là Cực Lạc, nhận ra tánh giác của mình đó là Phật Di-đà. Trong kinh Di-đà có câu: “Nếu một ngày hai ngày đến bảy ngày nhất tâm bất loạn thì khi lâm chung vừa nhắm mắt liền thấy Phật Di-đà và Thánh chúng hiện ngay trước mặt.” Nhất tâm bất loạn là tâm thanh tịnh, thì tánh giác hiện ra, không phải đợi về Cực Lạc mới ra mắt đức Phật Di-đà. Trong kinh nói rõ nhưng vì không hiểu nên chúng ta chấp sự mà không đạt được lý. Ở đây ngài Trần Thái Tông muốn chỉ thẳng lý “Tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ”. Tâm tịnh thì độ tịnh, nên Tịnh độ ngay trước mắt và đức Phật Di-đà ngay tự tánh của mình.
“Nếu hay ưa vui gánh vác liền được trong ấy hiện ra.” Nếu người nào ưa vui nhận và hành được lẽ này thì liền ngay trong đó thấy Phật hiện rõ ràng.
“Đệ tử chúng con kính tưởng thời này lấy làm khóa lễ cuối đêm.
Tâu bạch rồi, chí tâm qui mạng lễ mười phương Vô thượng Tam Bảo.”
SÁM HỐI TỘI CĂN Ý
Chí tâm sám hối,
Chúng con từ vô thủy kiếp đến nay,
Bỏ mất bản tâm, không biết chánh đạo.
Rơi ba đường khổ, bởi sáu căn lầm,
Không sám lỗi trước, khó tránh hối sau.

NGHIỆP CĂN Ý LÀ:
Nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng;
Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng.
Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền;
Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh;
Não loạn tâm thần, đều do ba độc.

 
Trong ý căn, chúng ta “nghĩ vơ nghĩ vẩn, không lúc nào dừng”, chuyện đâu đâu không đáng mà cũng nhớ cũng nghĩ.
“Mắc mứu tình trần, kẹt tâm chấp tướng”, dính kẹt với sáu trần lại thêm chấp tướng. Chấp tướng là kẹt về hình thức bên ngoài, tức là lời nói và việc làm bám chặt vào hình thức mà không nhận được ý nghĩa thâm trầm bên trong. Thí dụ thấy hoa này khen đẹp, hoa kia chê xấu, người này đẹp, người kia xấu, người dễ thương, người dễ ghét, bao nhiêu việc căn cứ trên hình thức để khen chê thương ghét, đều là chấp tướng, nên đều là khổ. Nếu không chấp tướng thì hết cả khen chê, thương ghét và cũng hết khổ. Thế nên còn mắc mứu tình trần kẹt tâm chấp tướng là còn khổ. Khổ đó như thế nào?
“Như tằm kéo kén, càng buộc càng bền”, như tằm nhả tơ kết thành kén, tằm kẹt luôn trong đó, rồi bị bỏ vào chảo nước sôi, khổ không sao tả hết!
“Như bướm lao đèn, tự thiêu tự đốt.” Ban đêm mùa hè chúng ta đốt ngọn đèn dầu, các con bướm ở ngoài thấy đèn liền đáp vào, nên tự thiêu tự đốt. Người đời đuổi theo dục lạc thế gian, tưởng rằng hưởng được dục lạc là hạnh phúc, nhưng nếu ai có nhiều tiền lắm của, ngày đêm đều vào tửu điếm trà đình, lầu xanh thì cũng giống như bướm lao vào đèn. Đó là tự mình tìm cái chết, tự thiêu tự đốt.
Hôn mê chẳng tỉnh, điên đảo dối sanh,
Não loạn tâm thần, đều do ba độc.

Vì mê không thức tỉnh nên điên đảo sanh ra. Tâm thần rối loạn đều do tham sân si. Đây là gốc mà ý căn tạo nên tội. Tham sân si là gì?

TỘI KEO THAM LÀ: Keo tham là keo kiệt, tham lam.

Âm mưu ghen ghét, keo cú vét vơ;
Mười vốn ngàn lời, còn cho chưa đủ.

Âm mưu ghen ghét người, bao nhiêu cũng keo cú vét vơ đem về cho mình. Vốn có mười đồng mà bán lời được một ngàn đồng vẫn cho chưa đủ, muốn lời ngàn rưỡi, hai ngàn, đó là bệnh tham của con người.
Của chứa tợ sông, lòng như hũ chảy;
Rót vào lại hết, nên nói chưa đầy.

Của thì nhiều như sông nhưng lòng như hũ chảy, rót vô bao nhiêu cũng chảy hết, cũng không đủ nên nói chưa đầy.
Tiền mục lúa hư, không cứu đói rét;
Lụa là chất đống, nào có giúp ai.

Do keo kiệt nên có tiền lúa chứa nhiều để hư mục không dám cho người đói rét. Lụa vải chất đống để lên mốc meo không giúp người rách rưới.
Được người mấy trăm, chưa cho là nhiều;
Mất mình một đồng, tưởng như hao lớn.

Người cho mình mấy trăm cũng chưa nói là nhiều, còn mình mất một đồng thì cho là hao lớn, nghĩa là được bao nhiêu cũng không vừa, mất một chút thì tiếc rẻ.
Trên từ châu báu, dưới đến tơ gai;
Kho đụn chất đầy, chưa từng bố thí.

Nào là châu báu, nào là tơ gai v.v... chất đầy kho đụn nhưng không bao giờ bố thí cho ai.
Bao nhiêu sự việc, ngày tính đêm lo;
Khổ tứ lao thần, đều từ tham nghiệp.

Bao nhiêu sự việc ngày đêm lo tính mãi, khổ tứ lao thần cũng từ tham mà ra.

TỘI NÓNG GIẬN LÀ:

Do tham làm gốc, lửa giận tự thiêu;
Quắc mắt quát to, tiêu tan hòa khí.


Bao nhiêu niệm sân dấy khởi đều gốc từ tham. Thí dụ do tham được danh tốt, được mọi người khen, nay lại có người chê liền nổi giận. Tại sao? Chê là mạ nhục nên nổi giận, đó là vì thích danh. Muốn được quyền lợi để nếp sống được sung túc, nay có người ngăn chặn không cho, chúng ta cũng nổi giận. Lại như thấy người đẹp mình thương, nay không cho thương cũng giận. Ở thế gian nhiều kẻ tự tử cũng do nổi sân, tưởng là gan, nhưng không ngờ đó là liều mạng, là sân chớ không phải là gan. Thế nên từ tham sanh ra sân. Khi sân thì có những hiện tượng gì? “Quắc mắt quát to”, miệng la, mắt trợn làm hòa khí trong gia đình không còn nữa.

Không riêng người tục, cả đến thầy tu;
Kinh luận tranh giành, cùng nhau công kích.


Tưởng đâu sân chỉ có nơi người thế gian, không ngờ trong giới thầy tu cũng có, đem kinh luận ra tranh hơn thua rồi công kích lẫn nhau.

Chê cả Sư trưởng, nhiếc đến mẹ cha;
Cỏ nhẫn héo vàng, lửa độc rực cháy.


Khi đã sân rồi, thầy không kể, cha mẹ không màng, nói nặng nói nhẹ đều được hết. Người tu theo Phật là phải tập hạnh nhẫn nhục, khi nổi sân thì cỏ nhẫn bị héo khô vì lửa sân cháy rực.

Buông lời hại vật, cất tiếng hại người;
Không nhớ từ bi, chẳng theo luật cấm.


Nói lời nào cũng làm cho người đau khổ, cất tiếng gì cũng làm hại người. Khi sân rồi có nhớ từ bi không? Giận thì không có thương, thương thì không có giận. Thế nên khi nổi sân thì giới luật lòng từ đều quên mất. Như Phật dạy chúng ta phải sống với tinh thần lục hòa, thế mà khi nổi giận, thì không nhớ khẩu hòa vô tránh.

Bàn thiền tợ Thánh, trước cảnh như ngu;
Dầu ở cửa không, chưa thành vô ngã.


Hai câu này chính là nhắc chư Tăng, nói lý Thiền thì hay lắm, thấy như thành Phật dễ dàng, nhưng gặp cảnh thì như ngu. Lúc bình tĩnh sáng suốt nói đạo rất hay, nhưng gặp ai nói trái tai, hành động trái mắt thì trí tuệ bay đâu mất, toàn thốt lên những lời si mê. Tỉ dụ như khi tỉnh nói Phật dạy người tu phải luôn luôn sáng suốt, những gì người thế gian say mê mình phải xem là thường, là giả dối. Nhưng có nhiều thầy tu kha khá khi gặp những người nữ đẹp nói ngọt vài câu thì thấy cái gì cũng thật, quên mất thế gian là huyễn hóa. Dầu ở cửa không mà chưa thành vô ngã, nhà Phật nói cửa Thiền là cửa không (không môn), nhưng gặp cảnh thì ngã còn rõ ràng, nên chưa thành vô ngã.
Như cây sanh lửa, lửa cháy đốt cây;
Những tội trên đây, đều do nghiệp giận.

Chúng ta dùi cây ra lửa, khi lửa cháy thì cây bị đốt trở lại, cũng như vậy nơi tâm sanh ra nóng giận, sự nóng giận đó trở lại hại chúng ta. Như vậy những tội lỗi đó là do nghiệp sân.

TỘI NGU SI LÀ:

Căn tánh đần độn, ý thức tối tăm;
Chẳng hiểu tôn ti, không phân thiện ác.


Người ngu si là do căn tánh đần độn, ý thức tối tăm. Tôn là bực lớn, ti là kẻ nhỏ, ai đáng quí, ai đáng trọng cũng không biết, ai ngang bằng hoặc thấp hơn cũng không hay, tức là không phân biệt kẻ trên người dưới, không thấy rõ ràng việc nào thiện, việc nào ác, đó là do gốc ngu si.

Chặt cây hại mạng, giết gấu gãy tay;
Mắng Phật chuốc ương, phun trời ướt mặt.

Chặt cây hại mạng giết gấu gãy tay, hai câu chuyện này ở trong truyện cổ Việt Nam.

Thuở xưa có người nhà quê ngu ngốc, một hôm đi mé cây, có một nhánh lớn chia hai, anh cầm búa lên mé nhánh, thấy đứng phía trong gần thân cây khó chặt, anh ra ngồi phía ngoài xây vào chặt phía trong, nhánh gãy anh té chết, nên chặt cây hại mạng là nói sự ngu si đó. Giết gấu gãy tay là nói một người cũng ngu si như vậy. Anh vào rừng một tay cầm rựa, một tay đánh đòng xa chợt có con gấu nhảy ra cắn tay anh, nhưng chưa trúng, anh lấy rựa chặt cánh tay rớt xuống cho gấu khỏi cắn trúng tay. Nếu người khôn thì giựt tay lên không chặt tay. Đó là hai hình ảnh người ngu đáo để. “Mắng Phật chuốc ương”, khi muốn cầu điều gì, xin Phật ban ơn xuống phước cho nhưng cầu mãi không được nên chê bai Phật không linh... đó là chuốc tai ương. “Phun trời ướt mặt”, ngày xưa có những người làm ruộng, đến mùa gặt lúa, đập lúa xong đem ra sân phơi, bỗng trời mưa ào xuống, tức quá họ ngửa mặt lên trời chửi, càng chửi càng phun nước miếng cho dơ trời, không ngờ nước miếng rớt xuống dơ mặt.
Quên ơn quên đức, bội nghĩa bội nhân;
Không tỉnh không xét, đều do si nghiệp.

Người có ơn sanh thành dưỡng dục hoặc có ơn giúp đỡ mình trong khi khốn khổ mà không nhớ là quên ơn bội nghĩa. Không tỉnh không xét đều do nghiệp si.
Những tội như thế, rất nặng rất sâu;
Đến lúc mạng chung, rơi vào địa ngục.
Trải ngàn muôn kiếp, mới được thọ sanh;
Dù được thọ sanh, lại mắc ngu báo.

Những tội đó là tội đọa địa ngục. Đến khi hết nghiệp ở địa ngục được lên làm người, nhưng do dư báo nên cũng lại ngu ngốc nữa.
Nếu không sám hối, đâu được tiêu trừ;
Nay trước Phật đài, thảy đều sám hối.
CHÍ TÂM KHUYẾN THỈNH
Khuyến thỉnh mười phương ba đời Phật
Và chư Bồ-tát Thánh Hiền Tăng.
Mở rộng tâm từ bi vô lượng,
Đồng độ chúng sanh lên bờ kia.

CHÍ TÂM TÙY HỈ
Nay con theo Phật sanh hoan hỉ,
Hôm sớm kính thành sám lỗi lầm.
Thềm thang Thập địa nguyện sớm lên,
Bồ-đề chân tâm không lui sụt.

CHÍ TÂM HỒI HƯỚNG
Chúng con hồi tâm về Thánh chúng,
Chí thành đầu lễ đức Từ Tôn.
Nguyện đem công đức đến quần sanh,
Nương thắng nhân này thành Chánh giác.

Những bài này đã giảng.
CHÍ TÂM PHÁT NGUYỆN
Một nguyện nguồn linh thường trong lặng,
Hai nguyện tạng thức dứt lăng xăng,
Ba nguyện khối nghi đều tan nát,
Bốn nguyện trăng định mãi tròn đầy.
Năm nguyện pháp trần không khởi diệt,
Sáu nguyện lưới ái lìa buộc ràng,
Bảy nguyện suy nghĩ hành Thập địa,
Tám nguyện nghe suốt bỏ Tam thiên.
Chín nguyện tâm vượn thôi nhảy nhót,
Mười nguyện ý ngựa dứt cương yên,
Mười một nguyện mở lòng nghe Phật dạy,
Mười hai nguyện mến thích Tổ sư Thiền.

“Một nguyện nguồn linh thường trong lặng.” Nguồn linh là chỉ cho nguồn giác. Nguyện nguồn giác sẵn có của chúng ta thường trong lặng, đừng bị phiền não làm nhơ đục.
“Hai nguyện tạng thức dứt lăng xăng”, tức là trong kho tạng thức dứt hết, không còn dung chứa các pháp trần làm cho nó lăng xăng.
“Ba nguyện khối nghi đều tan nát.” Khối nghi ở đây có nghĩa là những người tu thiền khi đã dồn tâm thành khối, không còn niệm khởi, chỉ còn một khối nghi, khi khối nghi nát ra thì ngộ đạo. Chúng ta cũng tu thiền nhưng không dùng thoại đầu, không có khối nghi nhưng chúng ta cũng có nghi. Thí dụ chúng ta thấy chư Phật dạy phải đạt được tánh giác hay chân tâm, mà khi chưa đạt chân tâm, chưa ngộ tánh giác chúng ta cũng nghi không biết chân tâm, tánh giác như thế nào. Khi tâm lặng rồi, bỗng một lúc nào cái nghi của chúng ta tan nát, liền ngộ được chân tâm, thấy được tánh giác, đó là tan được khối nghi.
“Bốn nguyện trăng định mãi tròn đầy”, tức là trăng thiền định luôn luôn tròn đầy.
“Năm nguyện pháp trần không khởi diệt.” Pháp trần tức là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân tiếp xúc, mỗi trần đều có bóng dáng dồn chứa vào trong kho Tàng thức. Thí dụ ra chợ thấy cái gì đẹp chúng ta thích, về nhà ngồi yên bỗng dưng nhớ lại những hình ảnh ngoài chợ, hoặc nghe tiếng gì hay, một lúc sau ngồi yên nhớ lại tiếng đó, tức là những bóng dáng qua rồi mà còn chứa đựng trong tâm, đó gọi là pháp trần.
“Sáu nguyện lưới ái lìa buộc ràng.” Ái có ba thứ, ái ngã là một, dứt được ái ngã không phải là dễ. Đến ái người thân, những người mình thương mến. Thứ ba là ái cảnh, tạo được cảnh vừa ý, chúng ta ái cảnh đó. Nay nguyện tất cả những lưới ái đều không còn buộc ràng được mình.
“Bảy nguyện suy nghĩ hành Thập địa.” Nguyện thường nhớ nghĩ thực hành cho được Thập địa Bồ-tát.
“Tám nguyện nghe suốt bỏ tam thiên.” Tam thiên là ba cõi trời: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Nguyện nghe thấu suốt được pháp giải thoát của Phật, không còn kẹt trong tam thiên nữa.
“Chín nguyện tâm vượn thôi nhảy nhót.” Tâm vượn tức tâm viên trong từ ngữ “tâm viên ý mã”. Nguyện tâm viên này được yên lặng không còn nhảy nhót.

“Mười nguyện ý ngựa dứt cương yên.” Ý ngựa (ý mã) không còn gì ràng buộc cột trói nữa. Tâm ý như con vượn, con ngựa lăng xăng. Nay làm thế nào cho ngựa thuần, ngựa thuần rồi
thì không cần dây cương; khỉ nhảy nhót thì phải nhốt trong lồng, khi hết nhảy mới thả được. Như vậy đây là lời nguyện cho tâm ý được lặng lẽ, trong sáng.

“Mười một nguyện mở lòng nghe Phật dạy.” Nguyện tâm mình mở rộng để đón nhận những lời dạy của Phật, lời nào cũng thấm nhuần, thấu đáo.
“Mười hai nguyện mến thích Tổ sư Thiền.” Nghe lời dạy của chư Tổ về Thiền tông, chúng ta ưa thích chớ không sợ, không chán.
KỆ VÔ THƯỜNG THỜI NÀY
Tiếng pháp khua tan mộng thế trần,
Chuông chùa phá vỡ điếc ngu mông.
Còn ưa gối đầu trong tối ngủ,
Chẳng quản trời đông đã rạng ngời.
Mù mịt đêm dài thì có sáng,
Lờ mờ đường tối lại khó thông.
Ngày nay nếu chẳng siêng hành đạo,
Khi khác làm sao gặp Thế Tôn.

“Tiếng pháp khua tan mộng thế trần.” Chúng ta sống trên thế gian, tuy bảy, tám mươi năm, nhưng đến tuổi sắp mãn cuộc đời, nhớ lại những gì chúng ta đã tạo, chẳng khác nào như giấc mộng, giấc mộng trần gian. Muốn tan giấc mộng, chỉ nhờ tiếng pháp của Phật chúng ta mới tỉnh thức, không còn mê lầm nữa.

“Chuông chùa phá vỡ điếc ngu mông.” Ngu mông là kẻ ngu mê, mù tối. Tiếng pháp, tiếng chuông của đạo làm cho người điếc, người ngu và mê mờ đều sớm thức tỉnh.

Còn ưa gối đầu trong tối ngủ,
Chẳng quản trời đông đã rạng ngời.


Chúng ta còn kê đầu trên gối mê ngủ trong tối mà không nhớ phương Đông mặt trời đã rạng ngời.

Mù mịt đêm dài thì có sáng,
Lờ mờ đường tối lại khó thông.


Mù mịt nên nói là đêm dài nhưng thật ra có đêm thì sẽ có ngày, tối rồi sẽ sáng. Tuy nhiên đã sống trong đêm dài mù mịt thì đường trước lờ mờ, mù tối khó thông.

Ngày nay nếu chẳng siêng hành đạo,
Khi khác làm sao gặp Thế Tôn.


Ngài nhắc chúng ta ngày nay đang trong cảnh mờ mịt tối tăm phải ráng thức tỉnh cố gắng tu hành thì ngày khác chúng ta mới được gặp Phật.
Tổng kết lại, Lục thời Sám hối của vua Trần Thái Tông có những ý nghĩa đặc biệt mà chúng ta phải học, phải hành. Trong các kinh A-hàm, đức Phật luôn luôn dạy chúng ta phải thu nhiếp sáu căn, từ hành động đến ý nghĩ lúc nào cũng phải gìn giữ, đừng buông lung sáu căn chạy theo sáu trần. Thuở xưa Phật dạy các thầy Tỳ-kheo khi ra đường không được nhìn hai bên chỉ nhìn trước mấy thước tây thôi, vì e thấy cảnh rồi dính mắc về ngồi thiền khó an nên phải hạn chế. Đến phần giới luật, cũng là thu nhiếp sáu căn. Không sát sanh, không trộm cướp là nhiếp thân căn, giới nói dối thuộc về miệng (khẩu), cấm uống rượu thuộc về lưỡi. Trong giới Sa-di cấm xoa hương thuộc về mũi v.v..., như vậy là tạo điều kiện cho chúng ta thu nhiếp sáu căn. Đức Phật nói rõ rằng Phật khác hơn người thường ở điểm người thường thả sáu căn chạy theo sáu trần, trái lại đối với sáu trần Phật không dính nhiễm, Ngài được giải thoát. Lại như trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A-nan hỏi Phật: “Cái gì là căn bản của Bồ-đề Niết-bàn, cái gì là căn bản của phiền não sanh tử?” Không phải chỉ đức Phật Thích-ca mà mười phương chư Phật đồng trả lời: “Sáu căn của ông là căn bản của phiền não sanh tử, sáu căn của ông là căn bản của Bồ-đề Niết-bàn.” Như vậy sáu căn là cội gốc của trầm luân sanh tử, cũng chính là cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn. Thế nên chúng ta phải nương nơi sáu căn mà tu, ngăn không cho sáu căn ô nhiễm, dính mắc các trần.
Đến các Thiền sư thì thế nào? Có người hỏi ngài Huệ Hải: “Thế nào là giải thoát?” Ngài đáp: “Căn trần không dính nhau là giải thoát.” Như vậy gốc cũng là sáu căn. Gần nhất ngài Sơ tổ Trúc Lâm, trong bài Cư Trần Lạc Đạo, câu kệ cuối Ngài nói: “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền.” Đối cảnh là gì? Là mắt đối với sắc, tai đối với thanh, mũi đối với hương, lưỡi đối với vị, thân đối với xúc, nghĩa là năm căn đối với năm trần, tâm không dính mắc thì đừng hỏi thiền nữa vì đó là thiền. Tóm lại ngay sáu căn khéo đừng dính mắc sáu trần đó là gốc của Thiền, cũng là gốc của Kinh, gốc của Phật dạy.

Như vậy ngài Trần Thái Tông dùng sáu thời sám hối để sám hối sáu căn, điều đó thật là chí thiết đối với sự tu hành. Đọc Lục thời Sám hối chúng ta thấy Ngài khéo dùng ngôn ngữ vừa thực tiễn vừa văn chương để nhắc nhở sách tấn chúng ta. Đứng về mặt giáo lý, bài này là pháp tu căn bản cho người học Phật, đứng về mặt văn chương, đây là những áng văn có giá trị. Ngài đã có một cái nhìn tường tận thấu đáo, lại khéo diễn tả, thật đáng cho chúng ta cảm phục. Là một vị vua cai trị muôn dân, việc triều chính đa đoan mà Ngài vẫn có ngày giờ nghiên cứu kinh điển, viết những áng văn hay để chỉ dạy người sau, thật là việc hi hữu. Chúng ta hiện nay chỉ làm trụ trì với năm bảy mươi đệ tử mà không rảnh, vì thế chúng ta phải noi gương Ngài, gương cần mẫn, gương cố gắng tu hành, gương thương người sau. Người xưa làm được, ngày nay chúng ta cũng làm được, chỉ cần phải cố gắng. Thế nên chúng tôi đem sáu thời sám hối này để dạy Tăng Ni ứng dụng tu hành. Mỗi đêm tụng một lần, không phải tụng cho tiêu nghiệp chướng, rồi vẫn để sáu căn chạy theo sáu trần. Không phải tụng suông mà tụng để nhớ rồi ứng dụng tu, như thế mới có lợi. Đó là lời nhắc nhở của tôi.
Tác giả bài viết: HT Thích Thanh Từ
Nguồn tin: Thiền viện thường chiếu
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 48
  • Khách viếng thăm: 47
  • Máy chủ tìm kiếm: 1
  • Hôm nay: 3655
  • Tháng hiện tại: 1717239
  • Tổng lượt truy cập: 59370172

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile