Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Đã chết mà sống - Phần 4

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 11:28 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Đã chết mà sống - Phần 4

Đã chết mà sống - Phần 4

Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ

Đã chết mà sống - Phần 4

*****

Càng không thể ngồi yên lặng lẽ,

Nhà tu nên mạnh mẽ đứng lên;

Dùng đủ lời khéo léo nhủ khuyên,

Khiến nhiều ít người nghiêng theo đạo.

Được nhiều kẻ phụng hành chánh giáo,

Sẽ bớt nhiều thảm não trong đời;

Hiểu phận mình chớ phút nào ngơi,

1700. Rất mong các tăng sư được thế.

Nhiều khi chỉ một vài câu kệ,

Mà lấp qua được bể sầu đời;

Khách thiền môn há nỡ tiếc lời,

Không cứu giúp những người mê khổ.

Mỗi bát cơm mỗi đầy công khó,

Ăn không lo thì nó chẳng tiêu;

Nợ không tròn thì đạo chẳng siêu,

Há ngồi mãi trong liêu đợi chết.

Lời của đây mới vừa nói hết,

1710. Sư tiếp lời rằng thật đúng thay;

Nếu tăng sư từ trước đến nay,

Làm như thế đâu ai hờn ghét.

Nhưng rất tiếc ít nơi đoàn kết,

Và ít ai lo việc hoằng khai;

Kệ kinh ai cũng tụng mỗi ngày,

Nhưng nghĩa lý ít ai xét tới.

Kẻ xét biết làm thinh không nói,

Người nói thì vụ lợi nọ kia;

Phần nhiều là mượn Phật làm bia,

1720. Để gạt gẫm người mê lấy của.

Chính tôi cũng đau lòng đòi bữa,

Như lời tôi vừa đã thưa qua;

Từng để chơn đến các thiền gia,

Nhận lời phải thấy ra ít kẻ.

Thành thử vẫn còn nhiều tập tệ,

Theo lối tu bệ vệ phần đông;

Suốt ngày lo ăn luống ngồi không,

Không thí một chút công cho chúng.

Chẳng dám nói là phường vô dụng,

1730. Cứ thế là đời sống ra gì;

Thường tụng kinh trước tượng từ bi,

Sao chẳng nhớ hành vi của Phật.

Phật đâu phải là người ẩn dật,

Và cũng không ngồi suốt trong liêu;

Vừa rồi ông đã dạy mấy điều,

Điều nào cũng cao siêu tất cả.

Thấy những hạng tu hành dối giả,

Tự thấy tôi trong dạ xốn xang;

Lấy làm thương Đức Phật Tây phang,

1740. Bị kẻ ở thế gian lợi dụng.

Luật giới chẳng hề làm cho đúng,

Cũng xưng là Hòa Thượng Yết Ma;

Thấy việc người bắt ngại phận ta,

Vì là cũng đồng nhà sư cả.

Cũng tại họ làm điều man trá,

Nên người đời nghi cả các sư;

Nếu họ không cải sửa thói hư,

Chùa lần lượt không người đến viếng.

E rằng những người đang tinh tiến,

1750. Vì đó mà thối chuyển biết đâu;

Như thế là tai nạn rất sâu,

Còn ai nối được câu Phật pháp.

Ta liền chận lời sư nói gấp,

Đuốc từ bi không tắt chớ nao;

Hạng giả tu đông đến mực nào,

Đạo Phật vẫn làu làu sáng tỏ.

Thời thạnh suy do người tạo nó,

Chơn lý thì vẫn có một đường;

Ai biết theo là phước khôn lường,

1760. Ai trái lại là vương đầy họa.

Xưa nay vẫn cứ như thế cả,

Và từ đây cũng chả đổi dời;

Biết tu là người biết sống đời,

Không tu ấy là người tự sát.

Tu tôi nói tùng lương cải ác,

Bỏ đường mê nẻo giác tìm qua;

Biết ngăn ngừa ý tưởng xấu xa,

Biết cương quyết làm ra việc phải.

Đó là nghĩa của người tu cải,

1770. Chẳng phải tu theo lối ngồi không;

Tu cần trau sửa cả ngoài trong,

Việc riêng đến việc chung đều sửa.

Hại biến lợi lòng không lần lựa,

Dữ đổi lành trí để nhớ luôn;

Tâm không cho ngoại vật làm cuồng,

Lúc nào cũng chủ thân được cả.

Tu như thế sẽ trừ được họa,

Phẩm bậc nào dù khó cũng lên;

Mỗi người tu theo ý tôi khuyên,

1780. Chẳng toại nguyện tôi xin chịu đọa.

Sư rằng: lời của ông đúng cả,

Nếu người tu như thế không thành;

Thân tôi dù muôn thác cũng đành,

Trong lòng vẫn tưởng tin triệt để.

Ông vừa bảo thạnh suy do thế,

Chơn lý là một thể không hai;

Từ ngàn xưa cho đến những nay,

Phật pháp chẳng bị ai làm mất.

Đã là Phật trước sau vẫn Phật,

1790. Tự nên không phải vật tạo nên;

Vì vậy mà vẫn được vững bền,

Không bị cuộc nổi chìm làm hoại.

Thật là lời của ông rất phải,

Giúp lòng tin tôi lại mạnh thêm;

Kể từ đây tôi chẳng ngồi êm,

Quyết nỗ lực khêu lên đuốc thiện.

Kết liên với người đồng quan niệm,

Để làm cho phát triển đạo thiền;

Cho người đời thấy rõ tục tiên,

1800. Không còn nói đạo chuyên lừa dối.

Chính mình phải làm cho được trổi,

Để cho hàng tu dối nhìn vào;

Sẽ thẹn lòng sửa chữa phần nào,

Cũng gián tiếp giúp vào họ được.

Mong Phật giúp tôi nên nguyện ước,

Ân đức này dù chết chẳng quên;

Ta rằng: trời chẳng phụ người hiền,

Ý nguyện tốt sẽ nên có thuở.

Giữa đường dẫu xảy ra dang dở,

1810. Mong sư đừng lấy đó ngã lòng;

Ví dụ làm hiện kiếp không xong,

Nguyện kiếp khác nối luôn chớ bỏ.

Làm việc lớn có nhiều khăn khó,

Cứ làm luôn chớ có hẹn ngày;

Đem tấm lòng cứng rắn dẻo dai,

Đối phó mọi chông gai cản trở.

Được như thế mới xong nần nợ,

Và đạo mầu cũng sẽ tựu thành;

Để tà ma làm rối đức tin,

1820. Việc chi cũng tan tành tất cả.

Phải tin tưởng phải bền chặt dạ,

Nhứt định là đạo quả sẽ nên;

Tôi cũng từng gặp lắm truân chuyên,

Nhưng vẫn giữ lòng nguyền như một.

Và từ đấy đến ngày kết cuộc,

Cảm thấy còn nhiều khúc gay go;

Nhưng trong lòng chẳng chút sợ lo,

Ý chí mạnh thắng qua tất cả.

Nếu không mở thông đường thiên hạ,

1830. Nguyện chẳng ưng cất giá lên vai;

Mắt nếu còn thấy kẻ nàn tai,

Lòng quyết chẳng quên ngày giải thoát.

Quản chi nỗi khổ đau thân xác,

Miễn làm sao sớm đạt ý nguyền;

Chẳng những đời mình hết não phiền,

Mà kẻ khác cũng yên lạc nghiệp.

Châu ngọc há để cho phủ líp,

Phải vẫy vùng cho sắc chói chan;

Nếu chẳng thay được khắp nhơn gian,

1840. Cũng rán được một làng một nước.

Nghĩa là phải làm cho nên được,

Không để ngơ qua cuộc đời tàn;

Luôn đấu tranh với mọi thời gian,

Cũng chẳng để ai làm dừng bước.

Chẳng riêng tạo để mình hưởng phước,

Mà lo cho người được lây duyên;

Bụi hồng trần sớm gội cho yên,

Cùng được thấy nhà Tiên cảnh Phật.

Việc trước hết ngay trên quả đất,

1850. Đồng nhau chung hưởng cuộc thái bình;

Chẳng còn nghe ai muốn chiến chinh,

Cũng không kẻ nào sanh kế bạo.

Giữa ai cũng lấy lòng hòa hảo,

Biết xử phân theo đạo công bằng;

Không riêng mình muốn được no ăn,

Nỡ ỷ mạnh lấy ngang của kẻ.

Ai cũng biết nói lời nhỏ nhẹ,

Không ai dùng lời lẽ cộc cằn;

Biết xét lòng và biết ăn năn,

1860. Người nào cũng có tâm tự trị.

Sống nề nếp sống theo cương kỷ,

Ai cũng tôn đạo lý làm trên;

Mặt mỗi người đều lộ vẻ hiền,

Ngày ấy mới Thần Tiên tại thế.

Người tu niệm phải nên lập thệ,

Làm sao cho được thế mới thôi;

Sống chưa làm xong xả sự đời,

Chết đâu được về ngồi thượng cảnh.

Sư nghe đến lời đây nhấn mạnh,

1870. Khiến mắt thêm nhìn thẳng vào đây;

Và nói rằng ở giữa thời nay,

Tư tưởng ấy ít ai có được.

Vừa siêu nhiên vừa nên thích hợp,

Nếu phần đông người được thế ni;

Sự khổ đau nhơn loại mất đi,

Cõi Cực Lạc tức thì hiện đến.

Lời ông khiến lòng tôi quá mến,

Chính ấy là bờ bến siêu sinh;

Khách hồng trần lấy đó làm tin,

1880. Tất sẽ được đưa mình khỏi tục.

Kẻ nào biết tầm trong lánh đục,

Nghe lời ông sớm dứt nợ đời;

Chẳng bao lâu đến mức tuyệt vời,

Đáng con Phật đáng người yêu kính.

Ta rằng: mọi việc do chữ tín,

Lời nói dù chơn chính dường bao;

Không chịu đem lòng tưởng tin vào,

Chơn chánh ấy làm sao thành được .

Vì thế nên lòng tin làm trước,

1890. Có lòng tin các cuộc sẽ nên;

Cũng nhờ tin khổ mấy cũng quên,

Lòng tin giúp người thêm bền chí.

Mọi việc chi sau khi xét kỹ,

Nếu chánh chơn đặt chí tin vào;

Rồi cứ lo dù chậm hay mau,

Không chán nản miễn sao được việc.

Điều nầy rất muốn ai cũng biết,

Để tránh điều hối tiếc nơi tâm;

Sư rằng: lòng tin cũng dễ lầm,

1900. Nhưng xét trước rồi tin đúng lắm.

Mỗi lời ông tôi đều suy gẫm,

Thấy rằng đâu đó cũng khít khao;

Mỗi câu đều mỗi có rấp rào,

Chỗ nào cũng dồi dào ý tứ.

Tôi xin nguyện để lòng ôm giữ,

Làm sao cho khỏi phụ lòng ông;

Sớm nên người yêu của đại đồng,

Được thế mới là không hổ phận.

Trong mấy tiếng đồng hồ học vấn,

1910. Hơn mấy mươi năm tụng kinh suông;

Giúp tôi thêm biết rõ chánh đường,

Công đức ấy khó lường sao hết.

Có lẽ ông cũng đà mỏi mệt,

Đêm đã khuya trời rét thế này;

Xin ông vui lòng ngủ lại đây,

Mai rồi sẽ hồi qui chẳng muộn.

Ta nhận lời của sư vừa muốn,

Bước theo sư vào chốn hậu liêu;

Vừa nằm vừa suy nghĩ đủ điều,

1920. Việc sư cụ cũng đeo ý nghĩ.

Ấy cũng một cuộc đời kỳ bí,

Cảnh giúp người duyên đẩy xô người;

Ắt có duyên với Phật lâu đời,

Nên mới được có trời báo mộng.

Nếu chẳng vậy người đang thân sống,

Khó thấy người nơi chốn tiêu dao;

Còn việc ta cũng lạ làm sao,

Đêm khuya vắng đi vào chùa miễu.

Sư chẳng trách lại còn mến tríu,

1930. Ắt cũng duyên chi khéo tạo nên;

Người gặp nhau trong lúc đầu tiên,

Mà thông cảm là duyên muôn thuở.

Ta cứ nghĩ thế lòng không hở,

Rồi bỗng nhiên đã ngủ hồi nào;

Vừng hào quang liền chói ánh vào,

Một vị Phật ngồi cao mấy trượng.

Trông thấy Phật ta liền quì xuống,

Mở miệng ra vừa muốn thưa lên;

Thì Phật ngài đã nói trước liền,

1940. Rằng trước đây độ bát bá niên.

Cũng ở nơi một cái chùa thiền,

Có một vị tu hiền rất chính;

Thường tập hợp nữ nam thiện tín,

Dạy những điều đạo hạnh cho nghe.

Độ được nhiều người khỏi bến mê,

Khiến bá tánh gần xa đều mến;

Hạng dân dã vua quan đều đến,

Thường do lai sáng kiến nhà sư.

Khiến cảnh chùa lui tới chật người,

1950. Phật pháp cũng một thời hưng thạnh;

Một hôm nọ vào khuya vắng lặng,

Có một tên ăn trộm vào chùa.

Tên trộm đang khi vác khuân đồ,

Trong khi ấy nhà sư trông thấy;

Sư liền bảo nhỏ tên trộm lại,

Hỏi tại sao đi lấy của chùa.

Trộm rằng vì con vợ chẳng no,

Cho nên phải làm nghề ăn trộm;

Cảnh sống của gia đình rất khốn,

1960. Con thì đông vợ cũng quê mùa.

Không đủ ăn quần áo te tua,

Cực chẳng đã mới thò tay cắp;

Trong lúc ấy nhà sư bảo gấp,

Nên bỏ đi nghề nghiệp bất lương.

Vì nó không khiến một ai thương,

Bị bắt gặp chịu đường tù tội;

Vậy ngươi phải từ đây cải hối,

Lo làm ăn theo lối lương hiền.

Nói xong sư vào lấy gói tiền,

1970. Cho tên trộm bảo đi ra gấp;

Trộm vừa xá vừa run lập cập,

Lãnh tiền rồi chạy gấp về nhà.

Trộm chừng khi mở gói tiền ra,

Bắt hốt hoảng vì là nhiều quá;

Trộm vừa sợ vừa mừng khôn tả,

Vừa biết ơn sư có chi bằng.

Cho sư là một vị chơn tăng,

Trong lòng thấy nảy sinh kính phục;

Từ ngày ấy bắt đầu tin Phật,

1980. Số tiền kia giao hết vợ con.

Rồi lánh mình vào chốn núi non,

Bỏ nghề trộm xả thân tu niệm;

Trở nên một nhà tu hạnh kiểm,

Sau được nhiều người mến đến danh.

Vị sư kia con có biết chăng,

Chính là cái tiền thân con đó;

Còn tên trộm ở vào thuở nọ,

Chính là sư hiện ở chùa này.

Người với con duyên rấm sâu dầy,

1990. Cho nên khiến hôm nay tái ngộ;

Nếu kiếp trước không nhờ con độ,

Thì người đâu hối ngộ nơi tâm.

Tuy trải qua ước tám trăm năm,

Duyên ấy cũng vẫn còn khắn chặt;

Nay người đã nên sư thiền đức,

Con cũng là nối Phật tu hành.

Càng khiến cho duyên ấy thêm lành,

Nên người mới gặp con là mến;

Duyên ấy gợi cho lòng nhớ đến,

2000. Chớ nào đâu phải chuyện vô căn.

Vì muốn cho con rõ nguyên nhân,

Nên Phật mới hiện thân đến nhắc;

Ta cúi mình tạ ơn Đức Phật,

Rằng còn chi từ trước đến nay.

Nhờ Phật luôn sẵn dạ chỉ bày,

Ân đức rộng đất trời khó sánh;

Khi hữu sự hoặc trong khổ cảnh,

Có Phật ngài hiện đến dắt dìu.

Lời lành cho nghe biết bao nhiêu,

2010. Không nhờ Phật con đâu nên đạo;

Mọi việc chi cũng nhờ Phật bảo,

Tâm hồn con Phật tạo đấy ư!

Nếu không nhờ Phật dạy nên hư,

Con khó biết rõ nơi tà chánh.

Tuy nhiên đối với đường đạo hạnh,

Học bao nhiêu cũng chẳng thấy cùng;

Xin Phật vì sự lợi ích chung,

Dạy thêm nữa cho con được hiểu.

Phật rằng con khéo tìm đạo diệu,

2020. Đạo tuy sâu sức hiểu cũng dài;

Đạo không trong mà cũng chẳng ngoài,

Nơi bổn tánh của người sẵn có.

Nếu như ai muốn tìm thấy nó,

Lấy mắt thường thì khó thể trông;

Phải lấy lòng mới thấy được lòng,

Có chẳng được mà không chẳng được.

Còn một chấp niệm nào thúc phược,

Là vẫn còn bó buộc trong lòng;

Sự não phiền không thể nào không,

2030. Còn như thế là còn luân lạc.

Từ bi chẳng từ bi vướng mắc,

Ấy mới là chơn thật từ bi;

Không bận tâm ở một sự gì,

Dù việc ấy hữu vi hay chẳng.

Không nghiêng trệ mới là bình đẳng,

Chẳng buộc ràng mới đặng tự do;

Con lấy đây làm thước để đo,

Siêu hay đọa cứ do theo đấy.

Ta liền chấp hai tay cúi lạy,

2040. Xin đội ơn Phật dạy cho con;

Không riêng con hứa sẽ làm tròn,

Còn nguyện giúp xa gần xong điệu.

Phật dạy chỉ những lời cao diệu,

Con dám đâu để hiểu một mình;

Xin truyền ra cho chúng làm tin,

Để trở lại nẻo lành sáng tỏ.

Có một việc con xin thưa rõ,

Xin Phật Ngài vẹt mở gút mây;

Hiện xác con đang sống nơi đây,

2050. Thân bịnh lại gặp ngày trắc trở.

Nhiều chướng ngại cản đường hóa độ,

Lắm chông gai trên lộ từ bi;

Muốn bước mau nhưng khó nổi đi,

Đường Phật giáo nhiều khi nghẹt lối.

Muốn đâu cũng mây lành bủa tới,

Ngặt gió phàm cứ thổi mãi lên;

Ý nguyện này chẳng được sớm nên,

Lòng con thấy muôn nghìn đau đớn.

Nhiều lúc quá buồn cho thời vận,

2060. Muốn chết không muốn sống trên đời;

Nhưng nặng tình với khắp mọi người,

Đến nay vẫn còn ngồi dương thế.

Phật liền nhẹ lời rằng ớ trẻ,

Vận đen chưa phải lẽ chết thân;

Đã nặng duyên với khách hồng trần,

Phải dắt họ đến chừng hết khổ.

Càng chướng ngại càng nên hóa độ,

Không chông gai sao rõ từ bi;

Khó bước mau thì chậm cũng đi,

2070. Chớ ngại lối nhiều khi bị nghẹt.

Mây cứ bủa mặc tình gió quét,

Cố làm sao che mát chúng sanh;

Con chớ buồn chưa toại nguyện lành,

Nguyện lành ấy sẽ thành tựu được.

Dù hoàn cảnh khắt khe trái ngược,

Vẫn bình tâm chờ cuộc thuận xuôi;

Phật biết con lòng chẳng thấy vui,

Nhưng chết cũng chưa nguôi được dạ.

Nên sống để rộng khai đạo cả,

2080. Sống làm cho thong thả khắp nơi;

Không sống riêng mà sống cho đời,

Sống cho khắp mọi người hết khổ.

Vì bác ái vì câu hóa độ,

Cho nên cần phải có xác thân;

Sống cho mình chỉ có một phần,

Muôn phần để sống sanh cho thế.

Sống thì khó chết thì rất dễ,

Khó sống nhưng sống để cứu đời;

Cả chúng sanh chưa được thảnh thơi,

2090. Lòng từ muốn tắt hơi sao nỡ.

Chết thân cũng chưa xong được nợ,

Chết ấy càng khiến dở dang thêm;

Đến chừng nào biển lặng sóng êm,

Khi ấy sẽ nằm yên để chết.

Nước tịnh rửa bụi trần chưa hết,

Chết đi ai lau quét cửa thiền;

Rán chịu lì trong cuộc đảo điên,

Để đổi dữ ra hiền cho chúng.

Gió thổi mấy Trời không hề lụn,

2100. Nước xao bao Trăng cũng sáng choang;

Khổ thế nào con cũng chớ than,

Cứ lo tới cho đàng suôn sẻ.

Đêm đêm thấy thân con quạnh quẽ,

Phật lấy làm đau dạ lắm con;

Trong khó khăn giữ phận vẹn tròn,

Ai xem đến mà không kính mến.

Sẽ có gió xuôi chiều thổi đến,

Con chớ lo bờ bến khó kề;

Khi con về dắt chúng theo về,

2110. Phật nơi chốn liên huê luôn đợi.

Con rán chịu từ đây đến hội,

Cuộc trùng lai đền bội công lao;

Kẻ tu hành thỏa dạ khát khao,

Người nhơn đức phỉ câu mong ước.

Cảnh đau khổ tan như mây nước,

Cuộc lao lung sẽ được giải trừ;

Ấy là ngày thế giới an cư,

Con rán dắt cho người đến đó.

Từ nay dẫu còn nhiều khăn khó,

2120. Vì yêu dân chớ có nản lòng;

Mượn phàm thân cứu khách hồng trần,

Thói thường chết con đừng nghĩ nữa.

Có cái chết con cần nên lựa,

Nên chết lòng tưởng nhớ xấu xa;

Chết tánh tham và chết lòng tà,

Chết những việc gọi là bất thiện.

Chết mắt thấy sắc chi chẳng nghiện,

Chết tai nghe đủ tiếng không mê;

Chết mũi mùi chi chẳng khen chê,

2130. Chết lưỡi nếm vị gì không chấp.

Chết thân chẳng nhiễm khi đụng vật,

Chết tâm không vướng mắc sự nào;

Chết hết lòng ô nhiễm trần lao,

Chết cả tánh chấp câu nhơn ngã.

Chết hờn giận chết điều dối trá,

Và chết luôn lòng dạ ghét ghen;

Chết lời nhơ chết ý đê hèn,

Các việc quấy đều nên chết cả.

Được như thế tất là thong thả,

2140. Không lúc nào trong dạ buồn rầu;

Kẻ tu hành ở buổi ban đầu,

Làm theo đấy sẽ mau nên đạo.

Con khá nhớ để khi truyền giáo,

Nhắc cho đời được hiểu làm theo;

Cõi hồng trần còn lắm nạn eo,

Dân chúng sớm nên theo đạo lý.

Nói xong Phật hóa quang hồi vị,

Ta cúi đầu lạy tạ theo sau;

Tự thấy lòng vui biết chừng nào,

2150. Cám ơn Phật kể sao cho hết.

Kể từ ấy tâm trần đã chết,

Sự nhiễm ô tiêu diệt sạch không;

Tuy đeo mang thân xác cõi hồng,

Mà đã chẳng còn lòng mến tục.

Nơi nào cũng xông pha lẩn lút,

Tâm không hề trói buộc nơi đâu;

Vì muốn đời tỉnh giấc mê sầu,

Phải giả dạng đủ màu thế sự.

Muốn độ dữ vào trong đám dữ,

2160. Muốn cứu hiền dùng sự rất hiền;

Miễn sao cho người rõ tục tiên,

Mặc thân xác biến quyền nhơ sạch.

Mong ai cũng trắng đen khá vạch,

Để cho minh là Phật hay phàm;

Lời đây khuyên nếu chịu gìn kham,

Không nên đạo đây cam chịu tội.

Bởi thương mến nhân sanh vạn bội,

Nên đem lời Phật gọi kể ra;

Chuyện tăng sư ở chốn thiền gia,

2170. Cũng kể nốt để mà hiểu rõ.

Việc hiện hữu là điều thật có,

Còn duyên xưa chuyện đó ly kỳ;

Cõi thế gian bất luận việc gì,

Đều có hệ với khi trước cả.

Muốn già trẻ tin câu nhân quả,

Cho nên đây mới kể cạn lời;

Nếu xét qua tiền kiếp mọi người,

Sanh khắp chỗ không nơi nào chẳng.

Nợ vay trả với nhau nhiều chặng,

2180. Không một ai mà chẳng nợ ai;

Người ở Đông có nợ ở Tây,

Kẻ Nam lại đã vay nghiệp Bắc.

Quả đất rộng nhưng mà thấy chật,

Đừng tưởng xa không việc liên can;

Lời kể qua thật rất rõ ràng,

Nghiệp xưa với thân đang hiện sống.

Nếu sư chẳng nhờ lời trong mộng,

Việc trả vay đâu đặng hiểu ra;

Phật khó trông nhưng chẳng ở xa,

2190. Mọi việc của người ta đều biết.

Phật thấy rõ chúng sanh tạo nghiệp,

Tùy cơ duyên cứu vớt cho ra;

Lòng từ bi rộng lớn sâu xa,

Không hề để bỏ qua một kẻ.

Xin lớn nhỏ xét cho rốt lẽ,

Để khỏi đau lòng kẻ đại bi;

Nhớ kỹ rằng đây nói lời chi,

Dựa theo bóng huyền vi mà nói.

Xin rán đọc chớ nài mệt mỏi,

2200. Đọc để cho rõ mối chánh tà;

Xem ngàn lần mà chẳng hiểu ra,

Cũng đừng chán hãy mò đọc mãi.

Cố đọc riết có ngày sẽ thấy,

Chừng thấy ra chỉ khảy móng tay;

Nơi xa ngàn ta vẫn còn đây,

Việc không hiểu hỏi ngay chớ ngại.

Ngày nào cũng trông tin thơ lại,

Đêm vẫn luôn chờ thấy mộng lành;

Thấy ai người thật chí tu hành,

2210. Kể sao hết nỗi tình yêu mến.

Hồn ta vẫn thường hay lui đến,

Viếng thăm người tu luyện chơn thành;

Mỗi lần nghe có tiếng chim xanh,

Trong lòng thấy muôn nghìn náo nức.

Biết rằng có người chơn đạo đức,

Cành sen nơi cõi Phật nở ra;

Trên đầu kia có ánh sáng lòa,

Hương công đức bay ra thơm ngát.

Ngồi một chỗ có thần đem trát,

2220. Há không vui khi được tin lành;

Một thân nhưng chẳng sống riêng mình,

Sống với khắp nhân sinh thế giới.

Hỡi quê nhà rán chung một khối,

Cho hồn kia cảm tới lòng đây;

Trong tâm không để vắng một ngày,

Cùng biết nhớ cùng gây được việc.

Một ngày quên một ngày rất tiếc,

Giữ cho lòng khắng khít nhau luôn;

Vui cùng vui buồn hãy cùng buồn,

2230. Mượn bút mực thay cơn hội ngộ.

Một phen này khai cho nên lộ,

Để thông đường đây đó lại qua;

Ớ nữ nam lớn nhỏ quê nhà,

Khá nghiệm kỹ lời ta vừa nói.

Nơi xa xôi vài lời nhắn gởi,

Tạm gọi là giải nỗi nhớ thương;

Xin chúc lành khắp hết thôn hương,

2238. Khuyên rán giữ vẹn đường đạo đức.

Viết xong tại Đông Kinh

Thanh Sĩ.

(Ấn bản hiệu chính năm 2007)

 

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Cách gởi bài viết về Ban Biên Tập

Nội quy đăng bài viết :Bài viết trước khi đăng phải hội đủ các điều sau :- Thứ nhất : Trang web chỉ có một mục đích đó là Hoằng Dương Phật Pháp- Thứ hai : Nội dung thuần tuý chỉ có quan điểm, kinh điển, Luật, Luận chính thống của Nhà Phật- Thứ ba : không liên quan bất...

Thống kê

  • Đang truy cập: 43
  • Khách viếng thăm: 42
  • Máy chủ tìm kiếm: 1
  • Hôm nay: 201
  • Tháng hiện tại: 199227
  • Tổng lượt truy cập: 59639244

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile