Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Thần cơ thật luận - Phần 4

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 10:49 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Thần cơ thật luận - Phần 4

Thần cơ thật luận - Phần 4

Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ

Thần cơ thật luận - Phần 4

***

Việc chưa biết thì cần phải hỏi,

Điều còn nghi cứ bới cho ra.

Chớ ậm ừ nửa Phật nửa ma,

Đến rốt cuộc chẳng ra gì cả.

Càng gạn hỏi càng rành thật giả,

1610. Có nghi nan mới có đi sâu.

Nghi mới tìm thấy rõ đuôi đầu,

Hỏi mới biết lý mầu ráo rốt.

Dốt không hỏi bao lâu cũng dốt,

Nghi không tìm đến chết chưa thông.

Thật chánh tông hay thứ tà tông,

Cố gạn hỏi thì không lầm lạc.

Việc chi cũng phải cho đích xác,

Chớ nên tin một cách mù mờ,

Mặc dù là những việc thiên cơ,

1620. Nhưng cũng phải tin cho hữu lý.

Con người có kho tàng suy nghĩ,

Cứ dùng luôn không thể nào cùng.

Các bí huyền trong khoảng không trung,

Nó có sức phá tung ra được.

Giống người chẳng phải là nhu nhược,

Mà giống người tột bậc cang cường.

Nếu để tâm khảo cứu suy lường,

Có sức mở được đường Trời đất.

Người có thể đi Tây phương Phật,

1630. Người cũng đi địa-ngục dễ dàng.

Giống người là ở giữa chừng thang

Muốn đi xuống đi lên được cả.

Trí huệ của người là chìa khóa,

Có khả năng mở cả máy trời.

Nó sẵn nằm trong óc của người,

Người nào cũng tự moi ra được.

Người mà được hoàn toàn hạnh phước,

Người mà chung hưởng cuộc an vui,

Cũng là nhờ trí huệ của người,

1640. Biết phát triển nhằm nơi đúng chô.ù

Trí của Phật làm dài kiếp số,

Trí của phàm làm thọ mạng teo.

Nên chọn đường Phật trí mà theo,

Tránh khỏi nạn hiễm nghèo đưa lại.

Trí Phật rộng trùm bao sơn hải,

Trí phàm khoanh trong đãy hẹp hòi.

Phật ban vui cứu khổ cho đời,

Phàm chỉ tạo cho người khốn khổ.

Trí Phật muốn hòa bình khắp chỗ,

1650. Trí phàm lo gây gổ đó đây.

Trí Phật không phân biệt Đông Tây,

Muốn đâu cũng kết dây thân ái.

Trí của Phật ở ăn quảng đại,

Có tình yêu nhơn loại đại đồng.

Muốn mình cùng kẻ khác dung thông,

Hoàn toàn dứt sạch lòng ích kỷ.

Với bạn tác trọn tình hữu nghị,

Với đồng bào thành ý yêu thương.

Giá trị mình với kẻ tương đương,

1660. Lúc nào cũng chủ trương bình đẳng.

Xét xử rất công bằng ngay thẳng,

Đối với ai cũng chẳng vị tư.

Lòng trọng tôn luật pháp là sư,

Lấy đạo đức làm cơ tiến hóa.

Giữ hành động ngôn từ cao nhã,

Không để cho sa đọa tâm hồn.

Tự làm cho phát triển trí khôn,

Nhưng vẫn giữ khiêm cung tánh nết.

Vì chánh nghĩa coi thường cái chết,

1670. Vì phước chung bỏ hết lợi riêng.

Trọng nghĩa nhân hơn trọng bạc tiền,

Đặt công lý lên trên tình cảm.

Vẽ mặt vẫn vui tươi điềm đạm,

Cử chỉ luôn đoan chánh nhẹ nhàng.

Từ đáy lòng thành thật nghiêm trang,

Chớ chẳng phải sửa sang ngoài mặt.

Hứa với ai thì là giữ chắc;

Những lời thô tiếng ác không dùng,

Thường dùng lời đối đáp ung dung,

1680. Bảo vẹn một lòng trung đạo lý.

Đó là đại khái đường Phật trí,

Nói sao cùng hương vị thơm tho.

Thật hòa bình hạnh phúc ấm no,

Thật tốt đẹp thật là sáng suốt,

Thật cởi mở chớ không trói buộc,

Thật làm cho hết cuộc trầm luân,

Thật hoàn toàn khác trí phàm nhân,

Trí Phật vốn toàn chơn toàn thiện.

Thật chơn lý chớ không ngụy biện,

1690. Thật thoát ly các chuyện phàm trần,

Thật hoàn toàn tế thế độ dân,

Thật chẳng chút nào cần danh vọng.

Lo giúp kẻ được vui được sống,

Chẳng cần ai ca tụng đến mình.

Thật là đầy đức độ anh minh.

Trí phàm khó thể kình chống kịp.

Làm vui sống làm cho rảnh kiếp,

Đó là điều trí Phật thường hành.

Cõi Ta-bà tất cả chúng sanh,

1700. Cái trí Phật của mình rán kiếm.

Lúc đi đứng nằm ngồi suy nghiệm,

Tìm cho ra cái điểm linh quang.

Thấy được rồi quán liễu nhơn gian,

Cũng như Phật hồi ngàn xưa vậy.

Bị vô minh còn nhiều che đậy,

Làm cho người không thấy bổn tâm,

Mới có nhiều hành động sai lầm,

Do nơi các dục trần khêu gợi.

Vật ưa thích thì liền rớ tới,

1710. Không chịu suy có tội hay chăng.

Có nhiều khi biết tội làm càng,

Vì dục vọng không dằn nén được.

Bị đời kéo đi xuôi một nước,

Ít có ai đi ngược dòng đời.

Biết bữa nay sung sướng ăn chơi,

Chớ không biết ngày mơi khổ não.

Bị vô minh làm người khờ khạo,

Hồng trần là giả tạo cứ mê.

Cõi Lạc-Bang muốn thấy đường về,

1720. Vô minh ấy phải lo vén mở.

Được nhìn thấu không còn cản trở,

Mới biết là Tây lộ bên chân,

Mà bấy lâu cứ nói mẹo dần,

Chẳng ngờ nó sẵn gần sau ót.

Túi không đáy minh châu chẳng lọt.

Phút bỗng nhiên được móc lấy ra;

Xưa nay lo thèm của người ta,

Bây giờ mới biết nhà mình có.

Lời của Phật càng thêm nhận rõ,

1730. Phật tại tâm nào có xa xôi.

Không nên tìm chót lưỡi đầu môi.

Mà là phải tìm nơi tâm khảm.

Bị vô minh khiến lòng mờ ám,

Hết vô minh tất sáng tỏ ra.

Hãy định thần xét rõ lòng ta,

Vô minh diệt các tà niệm diệt.

Tà niệm diệt tất vô minh tiệt,

Hết vô minh cũng hết niệm tà.

Kẻ tu hành phải nhận định ra,

1740. Lòng chớ để các tà niệm khởi.

Mỗi khi chúng nó vừa mang tới,

Thì chận ngay chớ đợi đi sâu.

Hơi khó khăn ở buổi ban đầu,

Lần hồi tất dễ thâu chúng được.

Phải cứng cõi chớ lòng nhu nhược,

Thấy sái thì cương quyết trừ ngay.

Muốn cho rành việc đúng hay sai,

Hãy đo xét bằng cây thước luật.

Mười việc trúng hết mười không trật;

1750. Như là anh thợ mộc cất nhà,

Lấy mực xong rồi đục cắt ra,

Khi ráp lại thì là vừa vặn.

Phải nhứt quyết chớ nên dùn thẳng,

Y hành lời Phật dặn thì xong.

Rán tu cho đắc quả thành công,

Mới chẳng uổng đèn chong hương đốt.

Ngục trần thế rán lo mở chốt,

Ra ngoài xem gió mát trăng thanh,

Khác hơn mùi lao ngục hôi tanh,

1760. Của cái kiếp phù sanh tạm giả.

Được giải thoát mới là thong thả,

Còn trầm luân đâu có sướng vui.

Nếu kỳ này chẳng chịu rút lui,

Thì còn bị lằng ruồi đục khoét.

Bến mê khổ nếu không bị kẹt,

Phải mau chơn xuống chiếc thuyền từ.

Quyết xả thân học đạo Chơn Như

Thì khỏi được kiếp người đau khổ.

Tu hành phải làm cho tỏ ngộ,

1770. Mới là trông thấy rõ nhiệm mầu.

Phật xuất gia vì bởi nơi đâu,

Vì tỏ ngộ mà cầu học đạo.

Trong các giới tín đồ Phật giáo,

Nên nhớ rằng chữ đạo là đường.

Tỏ ngộ là được thấy hướng phương,

Không còn bị lạc đường mê nữa.

Chính mình đã ngục trần khỏi cửa,

Còn đủ năng lực độ chúng sanh.

Thế mới là đúng nghĩa tu hành.

1780. Không tỏ ngộ đâu thành chữ đạo.

Mới phút trước còn trong mộng ảo,

Kế phút sau đã đáo Tây phương.

Trí phàm nhơn không thể đo lường,

Trong khi được khai đường tỏ ngộ.

Ví như kẻ đã mù từ nhỏ.

Có một hôm bỗng tỏ sáng ra,

Thấy hoàn toàn hai cảnh khác xa,

Vui mừng ấy kể ra sao hết.

Bao nhiêu cái nặng nề mỏi mệt,

1790. Bỗng nhiên trong nháy mắt tiêu tan.

Tự thấy lòng trong suốt minh quang,

Tự thấy xác nhẹ nhàng phớn phở.

Ấy đại khái trong khi tỏ ngộ,

Không thể đem mô tả bằng lời,

Sự nhiệm-mầu huyền-bí tuyệt vời,

Ngoài người tỏ ngộ thời khó thấu.

Chim khôn lựa cây lành mà đậu,

Người tu tìm chánh đạo mà thờ.

Đừng học theo những thứ bá vơ,

1800. Mới có thể gặp cơ tỏ ngộ.

Đời mạt pháp quỉ ma rần rộ,

Tìm Phật Tiên đâu có dễ dàng.

Người muốn tu thì phải kiên gan,

Chịu khó lọc thau vàng cho kỹ.

Tìm cho gặp thật chơn đạo lý,

Thì ngày kia mới phỉ lòng mình.

Nếu để lầm lạc thứ tà tinh,

Chung cuộc sẽ làm mình thọ hại.

Tu được mở mang là tu phải,

1810. Tu trở nên ngu dại tu lầm.

Tà đạo làm sanh chúng mê tâm,

Người theo nó dễ làm cuồng tín.

Trong bá tánh phải nên bình tĩnh,

Kiếm tìm nơi đạo chánh mà nương.

Sẵn kệ kinh Thầy Tổ chỉ đường,

Cứ theo đó chủ trương không lạc.

Cũng không sợ bị ai lừa gạt,

Rất an tâm lo việc tu hành.

Đủ phương chăm để trở nên lành,

1820. Sẵn giới luật giúp mình trọn tốt.

Đời nguơn hạ có nhiều gió trốt,

Đạo phải xây kèo cột vững vàng.

Bằng không thì phải bị đổ ngang,

Chớ khó giữ cho an toàn được.

Có nhiều cảnh long trời vỡ nước,

Làm cho người hiền đức ngửa nghiêng.

Không lúc nào ngớt việc truân chuyên,

Tu mà thiếu nhẫn kiên thì ngã.

Sức kiên nhẫn vững như núi đá,

1830. Lòng từ bi rộng tợ biển to.

Không thể làm cho biển cạn khô,

Cũng không thể làm cho núi ngả.

Được như vậy mới nên đạo cả,

Chẳng sợ khi nhồi quả nặng nề.

Chúng sanh đang lạc giữa rừng mê,

Thiếu gươm trí khó ra cho khỏi,

Phải có đủ tinh thần cứng cỏi,

Mới giữ cho mình khỏi kinh hồn

Ở trong khi địa ám thiên hôn,

1840. Và trước cảnh thú hùm gầm thét.

Ngồi tại gốc Bồ Đề nghiệm xét,

Gặp rất nhiều yêu nghiệt thử lòng,

Nếu để cho tâm chí long đong,

Thì đâu được thành công đắc quả.

Lòng chẳng động trước tuồng lơi lả,

Lòng thản nhiên trước kẻ dữ dằn,

Lòng đại hùng đại lực vô ngằn,

Sức yêu quái không ngăn cản nổi.

Đạo mầu nhiệm được tìm thấy mối,

1850. Đã lưu danh dưới cội bồ đề.

Thuyết pháp mầu cứu chúng sanh mê,

Nền Phật giáo lập ra từ đấy.

Nếu kể lại từ thời đại ấy,

Cho đến nay đã mấy ngàn năm.

Có biết bao người đã phát tâm,

Nghe theo Phật tu hành đắc đạo.

Trong các giới tín đồ Phật giáo,

Soi gương xưa hành đạo thì nên.

Thật tâm tu và thật chí bền,

1860. Là hai việc phải nên gồm có.

Thật bền chí mới theo tột chỗ,

Thật tâm tu mới bỏ sự trần.

Muốn trở nên ngôi vị Phật Thần,

Mấy việc ấy phải cần chạm dạ.

Xưa nay đã nhiều người đắc quả,

Nhờ thật tu và có chí bền.

Người đời nay muốn được lập nên,

Thì cần phải theo nền móng ấy.

Đời mạt hạ nhiều người phá khuấy,

1870. Tu mà không nhẫn nại khó thành.

Thật tâm tu thì mới thật hành,

Thật hành được mới thành Phật được.

Cứ tiếc của mà mong có phước,

Phước làm sao có được cho mình.

Không chịu tu mà muốn được linh,

Linh không thể nào sinh ra được.

Cho nên muốn cho mình có phước,

Bố thí đi chớ tiếc đồng tiền.

Còn muốn cho mình được linh thiêng,

1880. Thì là phải tu hiền đúng đắn.

Thú vật biết tu còn linh đặng,

Người thật tu chắc chắn nhiệm mầu.

Phải dầy công tu luyện cho lâu,

Chớ lòng muốn cho mau không được.

Sấu tu phải nằm lâu dưới nước,

Mới thành rồng bay vượt lên mây.

Người tu thì nhịn việc trần ai,

Mới thành Phật ra ngoài sanh tử.

Cọp dữ lúc tu thì hết dữ,

1890. Người hung khi tu phải bỏ hung.

Đã tu mà còn tánh hung sùng,

Sánh với loại thú hùm còn kém.

Gánh trần tục hãy mau quăng ném,

Để rảnh tay gói ghém sự tu.

Nào vùa hương bát nước công phu,

Nào tịnh niệm A Di Đà Phật,

Các ô nhiễm tâm vô nhứt vật,

Chỉ một lòng phước đức vun bồi.

Nơi liên hoa cửu phẩm chưa ngồi,

1900. Thì nhứt định chưa thôi niệm Phật.

Lượn sóng khổ tuy là cao ngất,

Thuyền đạo tâm quyết lướt cho qua.

Thường hành câu Bồ tát ma ha,

Cố trì pháp tâm vô quái ngại,

Lòng cứu độ vô cùng quảng đại,

Sức tu hành mạnh mẽ vô biên.

Tuy sống trong thế giới ngửa nghiêng

Nhưng lòng chẳng đảo điên một mảy.

Thấy những kẻ mong lòng giết hại,

1910. Cố tìm phương hòa giải cho an.

Lăn lộn trong cảnh sống nhân gian,

Tùy tiện cứu người đang say đắm.

Lòng chẳng quảng chi thân bùn lấm,

Giống từ bi đem rắm khắp nơi,

Cho ngọn đèn Phật giáo sáng ngời,

Cho nhân loại bớt nơi đau khổ.

Tu thì phải ra tay tế độ,

Chớ tu ngồi bó rọ một nơi,

Thì sự tu mới ích cho đời.

1920. Như vậy mới đúng lời Phật dạy.

Tu độc thiện kỳ thân là sái,

Tu chấp nê tự ái là lầm.

Tu phải cần rộng bủa từ tâm,

Chữ tu mới không làm hẹp nghĩa.

Tu còn sợ người đời xoi xỉa,

Thì khó lòng trau trỉa sự tu.

Ví dù người có bảo rằng ngu,

Thì cũng chớ chút nào để ý.

Luôn nêu sáng gương nhà đạo sĩ,

1930. Đánh thức lòng của kẻ ngạo đời.

Hiện phong trào vật chất thạnh thời,

Không siêu việt hơn người khó thắng.

Người tu phải được như sen trắng,

Mọc trong bùn mà chẳng hôi bùn.

Tìm cách gần gũi kẻ dữ hung,

Để cứu độ mà không sợ nhiễm.

Có như vậy mới chơn hạnh kiểm,

Và cũng không hổ tiếng người tu.

Sở dĩ nền đạo pháp mờ lu,

1940. Bởi tăng chúng quá tu tiêu cực,

Của bá tánh thập phương thọ thực,

Chỉ tụng kinh niệm Phật hơ hà.

Không ra tay cứu độ bá gia,

Và cũng chẳng truyền ra kinh Phật.

Cứ lo việc chùa to xây cất,

Cạnh tranh nhau thâu thập cho nhiều.

Rồi ngồi yên một chỗ ăn tiêu,

Mặc thế sự chịu nhiều đau khổ.

Sự vô ích từ lâu đã lộ,

1950. Mắt người đời thấy quá chán chường.

Sanh ra lòng ngờ vực mọi đường,

Khiến cho họ xa lần Phật đạo.

Còn những kẻ không ưa tôn giáo,

Lấy cớ này đả đảo nhà tu,

Lên án là lợi dụng tiền xu,

Cho tôn giáo làm ngu dân chúng.

Bị những kẻ tu hành không đúng,

Làm mất lòng tin tưởng gần xa,

Nơi chùa chiền vắng kẻ vào ra,

1960. Kinh kệ cũng ít nhà đọc tới.

Cũng vì những tăng đồ phá giới,

Cũng vì người giả dối tu hành,

Mượn màu thiền lợi dụng nhơn sanh,

Lấy chuông mõ dỗ dành thiên hạ.

Vì một số người tu dối giả,

Mà làm cho tất cả hiểu lầm.

Nay tăng ni trong chốn thiền lâm,

Phải nỗ lực để làm chính lại.

Chùa thay mặt Tây phương thế giới,

1970. Không phải nơi thương mãi hương đăng.

Người vào đây thì phải chơn tăng,

Mới khỏi tiếng thế gian khinh bỉ.

Từ lâu đã nhiều người lầm nghĩ,

Cho hạng tu là kẻ trốn đời.

Phải làm sao đính chính cho người,

Nhận hiểu nghĩa tu là cứu thế.

Chịu khổ hạnh để khai trí huệ,

Cứu chúng sanh khỏi bể mê sầu,

Tạo hòa bình thế giới năm châu,

1980. Gây hạnh phúc địa cầu nhơn loại.

Tu mở lối nhơn sanh tồn tại,

Tu phá tan ngu dại người đời,

Tu làm cho bá tánh thảnh thơi,

Tu để chấm dứt ngòi chinh chiến.

Tu để được tinh thần phát triển,

Tu làm cho đồng hưởng ấm no,

Tu để làm đời sống thơm tho,

Tu là bởi thương lo người thế,

Tu để cải sửa đời tồi tệ,

1990. Tu để đem lại lẽ công bình,

Tu làm cho đời có nhơn tình,

Tu cho khắp chúng sinh bình đẳng.

Bổn phận của người tu rất nặng,

Không phải tu tréo cẳng nằm yên.

Chữ tu còn có nghĩa thiêng liêng,

Đưa sanh chúng về miền Cực Lạc.

Thật là được hoàn toàn giải thoát

Không còn đeo cái chết vào mình,

Thật an vui và thật trường sinh,

2000. Cùng chư Phật ngồi trên sen báu.

Sự tu của người trong Phật giáo,

Đại khái như mọi lẽ nói trên.

Lòng từ bi rộng lớn mông mênh,

Không như nghĩa chúng sanh tưởng hẹp.

Việc đạo lý là điều tốt đẹp,

Đạo lý là ngọn đuốc của đời.

Từ ngàn xưa cho đến hiện thời,

Đời không thể đi rời đạo lý.

Rời đạo lý là đời bất trị,

2010. Nhà loạn luân nước bị khốn nàn.

Đời nào tôn đạo lý thì an,

Đời nào bỏ đạo tràng thì biến.

Đạo lợi ích cho đời đủ chuyện,

Vật chất cho chí đến tinh thần.

Làm thiện nhân đến cả chơn nhân

Thật cao quí không còn chỗ sánh.

Người hiểu đạo nên khuyên bá tánh

Rán giữ gìn đạo hạnh làm đầu,

Thật hành theo ý nghĩa rộng sâu

2020. Chớ đừng có chấp câu hẹp lượng.

Tu tâm chớ có nên tu tướng,

Tu phải hành đừng tưởng tượng không.

Các dục trần chừng được dẹp xong,

Phật từ ở trong lòng xuất hiện.

Mầu nhiệm thay khi tâm đã hiển,

Được nhớ ra hết chuyện ngàn xưa.

Biết lòng người và biết thiên cơ,

Biết việc tới việc qua cũng biết.

Sáu căn diệt sáu trần cũng diệt,

2030. Đủ sáu thông dạo khắp Ta Bà.

Chèo con thuyền đại độ xông pha,

Đưa sanh chúng sang qua bỉ ngạn.

Mầu nhiệm thay khi tâm bừng sáng!

Như mặt trời phá cảnh tối đen,

Những việc chưa từng có biết quen,

Tự nhiên được hiểu rành tất cả.

Diêm chúa phải triệu hồi sứ giả,

Thiên Thần thì đem lễ cúng dường;

Đủ sức đi giáo độ mười phương,

2040. Đủ phương tiện chỉ đường sanh chúng,

Được vô lậu thần thông diệu dụng,

Cho nên không còn chuyện sai lầm.

Mầu nhiệm thay khi tỏ ngộ tâm,

Thấy rõ cái xác phàm như áo,

Lành thì mặc rách thì phải tháo,

Không sợ lo không có tiếc than.

Chỉ bỏ thân tạm giả trần gian,

Chớ thân tướng Kim Cang còn mãi.

Thân ấy mới là thân tồn tại,

2050. Đó mới là chính cái thân mình.

Còn cái thân khi chết thì sình,

Nó là bóng của thân chơn thật.

Bóng thì mất nhưng thân không mất,

Thế cho nên chẳng chút lo rầu.

Mượn giả thân để lập đạo mầu,

Xong rồi trả cho đâu ra đó.

Thân là bè trước sau phải bỏ,

Để lên bờ hầu có qui hương.

Bè rã tan người chẳng tổn thương,

2060. Vì vậy rất coi thường cái chết.

Mầu nhiệm thay khi tâm vọng hết!

Sóng lặng yên mặt nước trắng ngà,

Trên trời xanh vạn tượng sum la,

Đều được hiện rõ ra không sót.

Tự cảm thấy vô cùng khoái huợt,

Lòng lâng lâng chỉ một niềm vui,

Chữ ma ha bát nhã nặc mùi,

Xác cõi tục hồn ngồi cảnh Phật.

Nhìn thấy chúng sanh trên quả đất,

2070. Đang quay cuồng theo vật dục tâm.

Mạnh yên thân còn yếu dập bầm,

Vì sự sống cạnh tranh không ngớt.

Mọi nỗi khổ vẫn chưa thấy bớt,

Sanh rồi già rồi chết nối liền.

Còn bịnh kia tật nọ liên miên,

Đủ cách chết kể không hết được.

Chết vì bịnh chết vì bạo ngược,

Chết thiên tai hoặc chết nhơn tai.

Dù rằng người đủ sức đủ tài,

2080. Cũng không trốn khỏi ngày chết đến.

Thế mà cõi tục trần cứ mến,

Tạo tác thêm nhiều chuyện bất lành.

Để lưu chuyền mãi nghiệp tử sanh

Và cuộc sống hiện tình thêm khổ.

Không cứu được mẹ cha tông tổ,

Lại còn làm xấu hổ gia môn,

Hại đời mình còn hại nhi tôn,

Thật là một người không hiếu nghĩa.

Nên phản tỉnh đạo mầu trau trỉa,

2090. Cứu độ mình và cả tông môn,

Truyền nghiệp lành cho đám nhi tôn,

Noi theo đó lánh thân khỏi tục.

Mình lục đục cháu con lục đục,

Khiến cả dòng họ mất cơ duyên.

Bặt lối đường đi đến Phật Tiên,

Muôn kiếp vẫn còn nguyên tại thế.

Khổ này qua khổ kia liền kế,

Lặn hụp trong sầu bể không ngừng.

Càng ngày càng u ám tinh thần,

2100. Không còn sức quày chân trở lại.

Khi có cuộc tang điền thương hải,

Các nạn tai đổ giải trên mình,

Thân sống cam trôi nổi linh đinh,

Linh hồn cũng gập ghình mây gió.

Sống hay chết vẫn nằm trong rọ,

Bị nghiệp mê lôi cổ đi luôn.

Mang lấy thân sống dại chết cuồng,

Chịu đựng kiếp vào trần ra khổ.

Lặn lộn cảnh sớm khai chiều đổ,

2110. Mang mển đời nay đẻ mai chôn.

Lo miếng cơm chạy chọt bồn chồn,

Vì manh vải cúi lòn bận rộn,

Lúc nào cũng lo như bị nhộn.

Sống trong đời hỗn độn đua chen,

Chỉ làm cho tâm trí tối đen

Chung cuộc vẫn đem chôn xuống đất.

Có cảnh Phật còn hoài không mất,

Mà không tìm qua được cho an.

Ấy là điều cần phải tiếc than,

2120. Cho lòng của thế gian mê muội.

Nên xét kỹ để lo cải hối,

Đuổi theo cho kịp chuỗi ngày qua.

Mượn thuyền từ vượt cảnh phong ba,

Để kịp hội Long Hoa kỳ tới.

Trong thiện tín nữ nam các giới,

Rán tu cho Phật hội tên đề,

Nếu không ngồi chín phẩm Liên huê,

Cũng rán được dựa kề Thánh vị.

Thân tử đệ được tròn đạo lý,

2130. Phận Tổ Thầy cũng phỉ lòng nguyền.

Là những lời của Phật muốn truyền,

Xin nhờ khách hữu duyên nhắc lại.

Đây liền cúi đầu vâng lời dạy,

Mượn bút nghiên kể lại như trên.

Mong người đời chịu khó đọc lên,

Rồi suy nghiệm hư nên tường tận.

Lo tu niệm một lòng tinh tấn,

Cho tâm hồn được sáng suốt ra.

Cõi Di Đà được biết lối qua,

2140. Đường giải thoát thấy ra tỏ rõ.

Về Tịnh độ cho thân hết khổ,

Lên Niết Bàn hầu có an cư.

Được kim thân bất hoại bất hư,

Được bổn tánh chơn như thường trụ.

Được tự tại tự do tự chủ,

Được khỏi vòng sanh tử luân hồi,

Được ngồi trên sen báu vui tươi.

Được thông lãm đất trời vạn vật.

Được còn mãi chớ không hề mất.

2150. Ấy là điều đây rất ước mong.

Xin thiện nam tín nữ đại đồng,

2152. Rán tu được thành công đắc quả.

Viết xong tại Đông Kinh

Thanh Sĩ.

(Ấn Bản Hiệu chính năm 2007)

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 97
  • Khách viếng thăm: 92
  • Máy chủ tìm kiếm: 5
  • Hôm nay: 39246
  • Tháng hiện tại: 299178
  • Tổng lượt truy cập: 59739195

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile