Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 3

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 11:19 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 3

Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 3

Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ

Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 3

 

*****

Quản chi việc đường xa gối mỏi,

Không khổ thân ai gọi Như-Lai;

Khổ lao chịu đựng một ngày,

Sướng vui sẽ được bồi tài muôn năm.

Nếu chẳng thế đâu cam chịu khổ,

Lo tu hành giải khổ trần ai,

Ôm lòng sớm tối lạt chay,

1126. Vì không muốn sự oan dây buộc mình.

Gạn lừa chữ trược thanh cạn kỹ,

Mới không màng hương vị trần ai;

Người tu đâu phải ngu ngây,

Mà không biết việc lầu đài cao sang.

Biết mọi việc thế gian không sót,

Nhưng cho rằng tạm vật không ham;

Biết ngoài ra cõi tục phàm,

1134. Còn nhiều cõi khác đáng làm say mê.

Cho nên lòng không hề luyến ái,

Chỉ tìm qua thế giới bất di;

Tức là cõi đấng từ bi,

Bất sanh bất diệt vĩnh kỳ lạc an.

Đọc qua đây rồi toan lấy phận,

Ở hai bên phải nhẫn một bên;

Hai bên nắm hết không nên,

1142. Cái nào chơn thật lâu bền thì theo.

Muốn ăn trái phải leo phải chọc,

Chớ ngồi trơ dưới gốc không xong;

Nhứt thời chịu khó ra công,

Vĩnh kỳ mới được phước hồng trả cho.

Chẳng gia tâm lắng lo mài giũa,

Ngọc lu mờ như đá khác chi,

Hiện nay một xá một quì,

Mai sau được ngự liên trì muôn thu.

Vì thế mới vui tu kham khổ,

Nếu không trơn chịu khó làm gì.

Nhưng tham của kẻ từ bi,

1154. Khác hơn tham của kẻ đi buôn đời.

Suy xét kỹ chớ lơi dạ ngọc,

Nghe đây khuyên chí dốc lo tu;

Trùng dương muôn dặm mịt mù,

Ngóng tin quê nội đạo mầu chấn hưng.

Thường đêm thường rưng rưng nước mắt,

Bởi chưa nghe tin tức vui mừng;

Ngày nào nước mắt hết rưng,

1162. Là ngày bá tánh vạn dân an hoà.

Chữ đạo đức vốn là nhơn thiện,

Người thương người là chuyện ngay đường,

Khắp trong nhơn loại hiền lương,

Chính là thế giới thiên đường tại đây.

Ta ước nguyện điều nầy không ngớt,

Dù bao nhiêu Kinh Luật chẳng ngoài;

Quê nhà đồng đạo gái trai,

1170. Chữ nhơn thiện chớ lờn phai tâm tình.

Đọc giảng kệ làm in theo đó,

Chớ xem qua rồi bỏ chẳng hành;

Đã là thấy có chim xanh,

Tất là Kim Mẫu hậu hành đáo lai.

Tin mạnh chớ ngờ sai ý niệm,

Sẽ có ngày thọ điểm chơn quang;

Khuất gương vì bởi phủ màn,

1178. Khi màn hết phủ rõ ràng thấy gương.

Chớ âu sầu cũng đừng bải hoải,

Nên gắng công trì giới xem sao;

Phật Ngài đã bảo cách nào,

Ta đem nói cạn ở vào nơi đây.

Kể từ nay đến ngày ráo rốt,

Phật sẽ còn bảo nốt nhiều điều;

Muốn cho ai cũng được siêu,

1186. Lần lần ta sẽ ghi nêu gởi về.

Tiếng nói trong liên huê còn nữa,

Đây ta xin tiếp kế nghe luôn,

Trong khi ta ngẩn ngơ hồn,

Rằng hoa sao có lắm muôn phép mầu.

Mười phương Phật ở đâu cũng thấy,

Lòng muốn sao có vậy đáng kinh;

Khéo thay các Phật đồng tình,

1194. Vì thương sanh chúng lập nên hoa này.

Ta đang nghĩ rồi đây phải liệu,

Sao cho xong phận điệu làm trò,

Tai liền nghe tiếng sấm to,

Trong hoa sen hiện lên pho kinh mầu.

Hào quang chiếu mỗi câu thấy rõ,

Mỗi chữ đều ửng đỏ dường son;

Kinh rằng con hỡi là con,

1202. Phận trò muốn được vẹn tròn nghe đây.

Chớ quên những lời thầy đã dạy,

Một lòng son trì giới giữ chay;

Xả thân cầu đạo hôm mai,

Chí tu không phút lòng phai thì tròn.

Thầy làm sao thì con theo vậy,

Bước chân thầy con phải giẫm qua;

Con đường của Phật Thích Ca,

1210. Cứ đi theo đó thì là vẹn thân.

Nước nguồn với nước sông khác chỗ,

Nhưng tánh cùng một ngõ như nhau;

Cây thì mọc thẳng lên cao,

Nước thì xuống thấp khá âu thuận hành.

Kinh còn tả muôn ngàn nẻo nhiệm,

Giờ phút nầy chưa tiện nói ra;

Hẹn cùng lớn nhỏ gần xa,

1218. Có ngày ta sẽ viết ra hết lời.

Xin rán đợi chớ lơi dạ sắt,

Sẽ gặp hồi tương đắc chẳng không;

Nhiệm mầu ôm chắc nơi lòng,

Gặp người chung thỉ sẽ hòng trao cho.

Lời son ở nơi pho kinh nhiệm,

Ta vừa xem vừa nghiệm từ lời;

Kể sao cho hết người ơi,

1226. Thế gian sánh với Phật Trời đâu kham.

Kinh tự lật từ trang đến cuối,

Rồi bỗng nhiên gió thổi nhẹ qua;

Quyển kinh lần lượt bay xa,

Chỉ còn để lại đóa hoa sen vàng.

Liền có tiếng nhạc vang lên nữa,

Kệ từ trong hoa nọ phát ra;

Rằng Con ơi! Đức Phật- Đà,

1234. Vì con đi khắp Ta-bà chúng sanh,

Dạy rõ từ kẽ răng chơn tóc,

Pho kinh rồi là một diệu phương;

Ngày nào thuận nước thuận đường,

Kể cho dân chúng được tường ớ con.

Cay với đắng con còn nhiều lúc,

Chịu cho qua chớ phút chối từ;

Hy sinh cái kiếp hoại hư,

1242. Xây thành an lạc cho người năm châu.

Con chịu khổ Phật đâu muốn thấy,

Nhưng khổ vì bác ái đáng mừng;

Riêng mình chịu khổ một thân,

Giúp cho sanh chúng cả muôn người nhờ.

Sự khổ ấy đáng cho chịu khổ,

Khổ càng nhiều đức độ càng cao;

Khổ nay nhưng lại vui sau,

1250. Vui sau cùng khắp người nào cũng vui.

Mình được vui cho người vui với,

Sự vui nầy mới gọi thật vui;

Thế nên dù chịu dập vùi,

Vì dân cứ mãi vui cười ớ con!

Con đã khổ nhưng còn khổ nữa,

Cứ lóc lăn ngày bữa cho qua;

Đạo mầu bủa khắp gần xa,

1258. Một người tỉnh ngộ hơn là muôn châu.

Quên ngủ nghê quên câu may mặc,

Đói cũng quên đến khát cũng quên;

Ban ngày chí những ban đêm,

Từ bi hai chữ một niềm toan lo.

Người dương thế dù cho không biết,

Phật mười phương các việc hiểu rành;

Làm lành thì cứ làm lành,

1266. Không cần ai biết mới thành ớ con!

Vừa rồi quyển kinh son có chỉ,

Câu ấy con suy nghĩ ra sao?

Câu rằng: Ma khảo đạo cao,

Muốn cho tắm mát phải nhào ra sông.

Muốn được người kêu ông kia nọ,

Phải tuổi cao phải được công gì;

Điều nầy con xét kỹ đi,

1274. Rồi thì sẽ được củ qui lấy mình.

Phật nói xong vang thinh một tiếng,

Rồi dạng hình tự biến ra không;

Đóa hoa cùng ngọn đèn hồng,

Đèn thì phơ phất hoa không cựa mình.

Trông có vẻ huyền linh vô tận,

Một hoa mầu trong vạn đóa hoa;

Hồ sen rộng lớn bao la,

1282. Nước trong ríu chảy dưới hoa dịu dàng.

Nếu lấy mắt thế gian để thấy,

Cho không ai ở đấy hản nhiên;

Nhưng mà cặp mắt Thần Tiên,

Cảnh nầy đâu phải ảo huyền vô nhơn.

Kẻ nghe đây định thần xét kỹ,

Tìm hiểu ra đâu mị đâu không;

Ước người cùng thấy được bông,

1290. Như ta đã thấy thì lòng mới vui.

Nhưng tin rằng những người nghe đấy,

Nếu tin ta nghe lấy lời ta;

Mọi lời nói ở trong hoa,

Lòng son chặt giữ như là keo sơn.

Ai cũng được hành chơn chánh đạo,

Y như lời Phật bảo xưa nay;

Hoa kia hiện đến có ngày,

1298. Thấy hoa sẽ được nhiều bài hay ho.

Hoa đã nhiệm đèn cho thêm nhiệm,

Phật mười phương diện kiến tận mày;

Bịnh trầm được gặp thuốc hay,

Há không mừng rỡ ra tay rước vào.

Việc có thật chớ nào mơ mộng,

Rán tu hành sẽ đặng chứng minh;

Nên không gì cũng tại mình,

1306. Việc chi khó mấy cố hành cũng nên.

Ngọn đèn liền ửng lên một cái,

Sáng vô cùng rộng rãi vô biên;

Cả sen lẫn với cả đèn,

Mất đi để lại một nền trống không.

Từ nền trống khói un chất ngất,

Rồi hiện ra muôn vật đủ hình;

Rối loàn càng thấy càng kinh,

1314. Xun-xoăn đến đỗi mắt nhìn không ra.

Những hình dáng xấu xa không thiếu,

Lối hung tàn đủ điệu khác nhau;

Nổi chìm như sóng ba đào,

Chỉ trong giây khắc xôn xao đủ hình.

Tai liền nghe vang thinh một tiếng,

Cảnh ấy liền tiêu biến ra không;

Rồi hoa sen với đèn hồng,

1322. Tự nhiên trở lại như trồng đứng trơ.

Trong hoa có lời thơ nói rõ,

Rằng Con ơi! cảnh đó là gì;

Từ trong không chẳng có chi,

Sanh ra đủ thứ dị kỳ rối ren.

Xấu với tốt đua chen xô đẩy,

Dữ cùng lành qua lại không ngưng;

Rối loàn khó nỗi biệt phân,

1330. Khổ sầu chi sánh não nần chi qua.

Ấy tâm trạng người ta đó trẻ,

Nhìn đấy mà hiểu lẽ thiệt hư;

Người nào tâm được bình cư,

Tất cùng chư Phật cũng như khác gì.

Mọi việc của người suy với nghĩ,

Như khói un hồ mị vô căn;

Chung qui như tiếng sấm vang,

1338. Việc chi rồi cũng tiêu tan chẳng còn..

Lời vắn tắt nhưng con khá nghiệm,

Hiểu sâu xa là điểm công thành;

Vì con vì cả chúng sanh,

Mười phương các Phật phép lành cho xem.

Riêng con biết khá đem người biết,

Đạo bủa ra khắp hết trong trần;

Nêu lên hai chữ hóa dân,

1346. Khiến cho tất cả xa gần hiền lương.

Con nhìn ở bên vườn Cực lạc,

Rồi xem qua mảnh đất trần gian;

Đâu vui đâu khổ rõ ràng,

Đó là hai thứ thau vàng khác nhau.

Con liệu cách kêu gào bá tánh,

Khá nhận ra hai cảnh Phật phàm;

Có tham cảnh Phật nên tham,

1354. Cõi phàm khuyên chớ nên ham làm gì.

Vạn vật vốn hữu kỳ bất viễn,

Sướng dường bao mặc miếng dường bao,

Hay là tứ hải sang giàu,

Chỉ là giọt nước trên tàu lá rung.

Nên khuyên kẻ say cuồng sự vật,

Khá nhìn ngay cái xác đang mang;

Xác kia như đóm lửa tàn,

1362. Khó làm sao giữ được ngàn muôn năm.

Bạo cho lắm chỉ làm một lúc,

Dữ bao nhiêu cũng phút hơi còn;

Mỗi ngày tuổi sống mỗi mòn,

Tuổi mòn các việc cũng lòn đi theo.

Có của chớ nên đeo theo của,

Nên giúp cho những kẻ cơ hàn;

Lo làm những việc phước doan,

1370. Xác thân khi bỏ Niết bàn được lên.

Càng có của càng nên bố thí;

Bố thí nhiều đạo vị thêm cao,

Tại trần của cải tuy hao,

Nhưng nơi cõi Phật càng giàu phước thêm.

Ấy là kế trường miên ớ trẻ,

Nào phải đâu là kẻ dại ngu;

Giúp người sẽ được đền bù,

1378. Bất kỳ ai để mắt vào cũng thương.

Nói một cách thông thường dễ hiểu,

Người phải nên biết điệu làm người;

Giúp nhau là việc tốt tươi,

Hại nhau là việc ai người cũng chê,

Kiếp sống tạm ấy về định mạng;

Nhưng chớ nên giới hạn vào đây,

Giúp nhau cứ nguyện giúp hoài,

1386. Khắp người no ấm một ngày cũng nên.

Đem thân tạm giả trên trần tục,

Để tạo chơn hạnh phúc Phật- Đài;

Khổ lao dù mấy chớ nài,

Cố làm để giúp nhơn loài ớ con!

Tình siêu thẩm gác trên tình thế,

Nghĩa cao dày phủ cả nghĩa nhân;

Bao nhiêu mối nợ lần khân,

1394. Dứt đi không bận Phật Thần đấy con!

Lời vừa dứt tiếng bon một cái,

Như từ xa đưa lại vi-veo;

Khác nào như bị đá treo,

Dứt đi lòng thấy như phao hỏng người.

Bạc dễ kiếm chớ lời khó chuộc,

Chết mấy thây vẫn buộc vào lòng;

Làm cho bá tánh hiểu thông,

1402. Như lời đã nói trong bông mới vừa.

Nơi đất khách sớm trưa chí tối,

Lòng chỉ lo một mối ấy thôi;

Đủ hình giả trá trong đời,

Cốt làm cho chúng hiểu lời Phật Tôn.

Quê nhà khắp hương thôn đồng đạo,

Đừng quên đây đang thảo nhiều môn;

Uốn chiều trên lộ càn khôn,

1410. Thân nầy kể đã như chôn hết rồi.

Sống mà chết ai người có thấu,

Thấu được cho quí báu chi hơn;

Kìa xem mây dán đầu non,

Đây cùng mọi việc tục trần thế ư!

Rán cùng đây cho như một rạp,

Nửa chừng đường chớ đạp lộ riêng;

Tu hành nhớ giữ căn nguyên,

1418. Có ngày Tiên Phật được thiềng (1) chẳng không.

Mắt dễ nhắm nhưng lòng khó tịnh,

Sự muốn ưa phải nhịn dễ gì;

Qui y thì rán làm y,

Khó tu thế mấy cũng trì cho nên.

Ngày thành tựu sẽ đền công khó,

Khuyên chớ nài ngựa vó phong sương;

Kẻ đang ở cách trùng dương,

1426. Người trong quốc nội còn đường gặp nhau.

Khuya sớm chớ quên trau đạo đức,

Sớm muộn gì cũng được như nguyền;

Gặp ngày trời hợp đôi duyên,

Tất là sẽ được cổi phiền mấy năm.

Hồn ta ở đầu nằm khắp chúng,

Tình ta luôn ấp úm trong dân;

Tuy thân kẻ Sở người Tần.

1434. Nhưng lòng luôn được ở gần với nhau.

Kẻ quê nhà khổ đau một tí

Ta nước ngoài như bị kim châm;

Không riêng thông cảm bằng tâm,

Mà còn liên hệ đến thân xác phàm.

Xin già trẻ rán làm việc phải,

Giúp cho đây bớt cái ưu sầu;

Thân gầy gặp lắm lo âu,

1442. Càng gầy thêm nữa có đâu bớt nào.

Xin vui nghĩ tình nhau một chút,

Bớt cho đây những khúc đau buồn;

Mỗi ngày giọt lệ mỗi tuôn,

Vì thương bá tánh còn đường gian lao.

Ước mong được gió mau đưa đến,

Để nhổ sào rời bến Phù Tang,

Ngày nào còn cách đôi đàng,

1450. Niềm xưa không thể luận bàn hết câu.

Riêng ta thấy ưu sầu hiu quạnh,

Người quê nhà cũng chạnh buồn đau;

Chắp tay nguyện vái trời cao,

Duyên người Nam Bắc khiến nhau sớm gần.

Phút chia cách vì cơn suy bỉ,

Ngày nhứt qui là khí thạnh hưng;

Từ đây đến lúc trở chơn,

1458. Cũng nên gắng đợi xin đừng lảng tâm.

Chữ đạo lý là mầm cứu khổ,

Câu huyền cơ là chỗ giải oan;

Dù cho muôn vạn hùm lang,

Cũng đi cho đến tột đàng chớ lui.

Hoa chưa nở thì mùi chưa có,

Trái chín rồi đây đó thơm tho;

Vun bồi là việc đáng lo,

1466. Một ngày xao lòng héo khô một ngày.

Núi tuy lớn đục hoài sẽ mỏn,

Rừng tuy to cứ đốn sẽ thưa;

Tội bao lòng cố gắng chừa,

Có ngày hết được chớ ngờ rằng không.

Việc chi nếu chí công làm mãi,

Dù khó khăn thế mấy cũng thành;

Khó khăn là việc tu hành,

1474. Xưa nay đã lắm người thành đâu không.

Chớ ngại bước gai chông chớn chở,

Vượt tuyết sơn tầm ngõ đạo mầu;

Thích-Ca cùng một khác đâu,

Trái bầu cùng với hột bầu không xa.

Ôm chí đạo ngày qua tháng lại,

Rèn luyện cho đến đại công thành;

Lọc lừa tâm não cho thanh,

1482. Cũng người nhưng sống khác tình phàm phu.

Chơn tâm tợ trời thu sáng tỏ,

Vọng niệm như mây bủa mịt mờ;

Mây kia càng tản càng thưa,

Trời thu càng tỏ đến giờ sáng trong.

Điều ấy khá để lòng xét kỹ,

Ngó mặt vào tường lũy bình quan;

Từ nơi biển rộng minh mang,

1490. Mặt trời lần mọc thấy càng đẹp xinh.

Thoắt nhiên tánh dịu minh mở tỏ,

Cùng biển trời kia có khác đâu.

Nghe đây rồi nhớ lo âu,

Làm sao cho được đạo mầu tinh-minh.

Mưa nắng có chỉ nên công rấm,

Sẵn đạo mầu còn gắng tu thôi;

Đây nào bịa chuyện người ôi!

1498. Cuộc đời còn có mấy hồi nữa đâu,

Sớm không liệu muộn âu sao kịp,

Gặp đạo mầu là dịp giải oan;

Muốn ra khỏi cảnh khổ nàn,

Cần lo tu gấp chớ màng sự chi.

Qui Phật nhớ làm y theo Phật,

Qui Tăng cần dõi bước theo Tăng;

Phật Tăng qui nhứt một đàng,

1506. Với lòng qui Pháp giáo càng gắng ghi.

Trong pháp-giáo luật-nghi là cội,

Kẻ tu hành sớm tối rán gìn;

Luật nghi càng giữ sạch tinh,

Đạo mầu càng sớm chứng minh đắc thành.

Ta đang ngóng trong tin quê nội,

Được có người mở khối linh quang;

Lòng đây xin chớ phụ phàng,

1514. Rán khai phá hết bức màn vô minh.

Mọi sự vốn tại mình tất cả,

Làm việc chi phải khá xét suy;

Quấy rồi khi biết bỏ đi,

Phải chưa làm được cố trì cho nên.

Những tật xấu rán quên cho được,

Các việc lành không chút bỏ qua;

Lòng luôn mật niệm Di-Đà,

1522. Nhớ ghi lời Phật Thích-Ca dạy truyền.

Trọng đạo đức hơn quyền chức tạm,

Giúp cho người dạ chẳng mong đền,

Ngày đêm khấn bái ơn trên,

Cứu dân khỏi cảnh đảo điên khốn nàn.

Ở trong một nén nhang rẻ giá,

Đem tinh thần cao cả để vào;

Nén nhang ấy quí dường bao,

1530. Phật Tiên đâu cũng bôn đào chứng minh.

Một xu được lời đền vạn đức,

Của bất lương vay một trả mười;

Nhỏ to cạn xét dân ơi!

Liệu cho hồn khỏi bị rơi Diêm-đài.

Chỉ một thấy họa tai muôn triệu,

Nhả vài lời phước nhểu trăm thiên,

Lọc lừa kỹ bớ chư duyên,

1538. Bạ làm bạ nói là nguyên tội sầu.

Ta được lãnh nhiều câu bí yếu,

Của Phật Tiên dạy biểu xưa nay;

Bước đường đâu vạy đâu ngay,

Nơi lòng được biết nên bày ra đây.

Muốn ai cũng cùng xây đạo pháp,

Lo cho mình lo khắp người ta;

Giống lành gieo rải gần xa,

1546. Tạo nên thế giới an hòa phồn hưng.

Chớ ích kỷ cho thân sung sướng,

Mặc cho ai nghiệp chướng nặng nề;

Riêng mình ăn mặc phủ phê,

Không màng đến kẻ thân che không lành.

Đạo bác-ái quên mình lo chúng,

Đức từ-bi rộng bụng thương dân;

Phận mình lao khổ chẳng cần,

1554. Miễn là giúp được kẻ thân no lành.

Đạo như thế mới thành chánh đạo,

Đức không vầy sao bảo đức tôn;

Dại ngoài nhưng lại trong khôn,

Ngoài khôn trong dại việc còn lạ chi.

Khuyên nam nữ khá suy tột lẽ,

Chớ cho tu là kẻ dại khờ;

Nếu không biết mối huyền cơ,

1562. Đâu cam non lành ngồi chờ lục niên.

Ta vì quá cuồng điên đạo lý,

Nói không ngừng mùi vị Phật môn;

Nhưng ta đâu dám làm khôn,

Nói ra vì muốn hương thôn tu hành.

Nói đây chẳng riêng mình bày nói,

Do Phật Ngài chỉ mối cạn sâu,;

Gần ngày biển hóa cồn dâu,

1570. Nói ra cho chúng quày đầu tu thân.

Chậm một bước não nần mấy đoạn,

Mau cất chơn rừng thẳm sớm ra;

Xưa nay ở cõi Ta-bà,

Đổi thay nhiều cuộc đâu là mới đây.

Đồng đạo lấy lời Thầy dạy dỗ,

So với lời Phật tổ mà xem;

Hồng trần là chốn luốc lem,

1578. Mở tâm thấy được hết thèm khát ư!

Ta xin tiếp lời chư Phật bảo,

Trong hoa sen quí báu ra nghe,

Cõi không Đức Phật biến về,

Ta còn đang đứng say mê một mình.

Hoa với đèn hiển minh trước đó,

Ta chừng như quên có đèn hoa;

Trong lòng liền phát nghĩ ra,

1586. Phật ơi! có biết tâm ta muốn gì?

Chưa kịp nghĩ việc chi đến rốt,

Bên tai như gió trốt đi qua;

Ngọn đèn liền tủa sáng ra,

Như ngàn châu rải mới là thêm kinh.

Trống đâu đánh ình ình vang dội,

Ba hồi to nhức nhối lỗ tai;

Trống ngưng liền thấy hạc bay,

1594. Ngậm phong thơ đỏ nhả ngay trước đầu.

Thơ chỉ có bốn câu thi ngắn,

Lời giản đơn căn dặn như vầy:

Ba hồi trống mở khai,

Mọi người thấy vang tai;

Tiếng trống kia khi dứt,

Không hỏi cũng biết ngay.

Bốn câu nầy xin ai khéo nghiệm,

Mầu làm sao và nhiệm làm sao!

Càng suy xét đến chừng nào,

1604. Càng hay ho khó tả sao cho cùng.

Đời đến lúc qui chung như thế,

Đạo cũng không ngoài lẽ ấy đâu;

Đọc đi đọc lại từ câu,

Chừng nào hiểu được đuôi đầu sẽ thôi.

Bức thơ ấy đọc rồi như tuyết,

Tự tan lần đến việc hóa không;

Cũng đèn rồi lại cũng bông,

1612. Nghiêm trang khó tả sao cùng nghiêm trang.

Ớ đồng đạo kiên gan bền chí,

Làm sao cho hiển thị hoa đèn;

Sẽ là không ngớt lời khen,

Thần Tiên của việc Thần Tiên khó lường.

Thần Tiên cũng từ đường sanh chúng,

Mà đáo lai đến chốn siêu nhiên;

Chúng sanh có thể Thần Tiên,

1620. Khá tin chớ có để riêng lòng ngờ.

Tâm đang rối đang mờ không thấy,

Thần Tiên nằm trong ấy rán moi;

Lóng tâm để trí mà coi,

Thần Tiên ấy sẽ bựt lòi sáng ra.

Việc có thật không ngoa rán bịn,

Khi thấy ra nhờ tính dẻo dai;

Lòng nguyền lánh nợ trần ai,

1628. Việc chi dù lắm rủ nài không ham.

Khó thế mấy cũng cam chịu khó,

Miễn làm sao mở tỏ chơn linh;

Thói hư tật xấu nơi mình,

Dù cho khó bỏ cũng rinh ra ngoài.

Cuộc đáo đầu nay mai rất chóng,

Không gấp tu thì hỏng khoá đi;

Máy trời như chớp rất nguy,

1636. Đừng rằng việc chẳng gấp chi là lầm

Trời trong đó rồi gầm chuyển đó,

Là việc thường hay có phải không;

Thì là cơ cuộc đại đồng,

Ngày kia cũng thế chớ hòng sai ngoa.

Mắt đây thấy Phật đà hóa hiện,

Việc thế gian nhiều chuyện quái kỳ;

Chừng ngày tai nạn phủ vi,

1644. Gió lay một ngọn cũng nguy cả làng.

Chớ tưởng cõi thênh thang sơ lọt,

Khí trời đâu cũng lóc đến nơi;

Tu hiền mới vững người ơi,

Vì rằng nhân thiện có Trời phước ban.

Nhắc thêm chuyện hoa vàng hiển ngữ,

Còn nhiều điều lý thú vô cùng;

Ta vừa đọc bức thơ xong,

1652. Thơ kia lần biến hoa đồng rung lên.

Ai ngờ có tiếng rên thê thảm,

Từ trong hoa như vạn muôn người.

Kẻ thì như đắm giữa vời,

Người thì như lạc loài nơi rừng già.

Có kẻ như bị sa núi lửa,

Có người như té hố thẳm sâu;

Có người như bị diều hâu,

1660. Như đang bị thú vây bâu cùng mình.

Có kẻ bị yêu tinh dọa nạt,

Có người như đói khát lóc lăn;

Có người bị giặc bủa giăng,

Tai nghe đầy tiếng rên than não nề.

Nghe không cũng hồn mê phách lạc,

Nếu thấy càng thần thất tâm kinh;

Chính đây cũng bắt rùng mình,

1668. Thảm thê ấy vốn báo tin sau này.

Khắp nhơn loại Đông Tây Nam Bắc,

Ở chỗ nào cũng gặp thế ư!

Cúi xin các Đức bi từ,

Ra tay cứu vớt con người trần ai.

Dân nếu gặp cảnh nầy khó sống,

Kẻ không tu càng mỏng thêm hơn;

Làm lành hỡi khách tạm trần,

1676. Tuồng đời càng lúc càng gần không xa.

Cuộc biến chuyển kỳ ba rất dữ,

Chớ không như thường sự bấy lâu;

Đổi thay khắp hết địa cầu,

Không riêng một giới một châu bớ người.

Nên Phật mới cạn lời dạy dỗ,

Khiến chúng sanh hiểu rõ ngọn ngành;

Ngõ hầu tỉnh thức tu hành,

1684. Bỏ điều hung dữ theo lành sớm khuya.

Hiền lành được nhiều bề che chở,

Hung dữ không ai độ cho đâu,

Dù cho Phật lắm phép mầu,

Cũng không riêng vị người nào được ư.

Vì lẽ ấy cần qui chánh lộ,

Một lòng thành hối ngộ tu hiền,

Không không mà có Phật Tiên,

1692. Các Ngài chẳng phụ người hiền đức tâm.

Phật pháp vốn thậm thâm vi diệu,

Phải công trì mới hiểu tột nơi;

Đeo vào đừng phút nào lơi,

Nay không đắc đạo thì mơi cũng thành.

Mỗi đêm mỗi lời lành được hội,

Đâu là nơi nguồn cội đã tường;

Nguyện cùng Phật một lòng thương,

1700. Đạo gieo không chỉ thôn hương của mình.

Trống bát nhã đánh lên khắp chỗ,

Chuông đại bi dộng cả mọi nơi;

Tỉnh cho được khách trần đời,

Hết người mê muội mới thôi vận hành.

Hiện thân ở đảo gành xa thẳm,

Giống từ bi vẫn rấm khắp cùng;

Lóc lăn chiều uốn tứ tung,

1708. Lòng trong sau trước vẫn trong một màu.

Phật có dạy một câu bí nhiệm,

Rằng Con ơi! trong biển có vàng;

Muốn tìm phải lọc phải sàng,

Được vàng phải chịu gian nan trăm phần.

Câu ấy rất lý chơn tuyệt diệu,

Nên thân nầy vui chịu khó khăn;

Biến hình khi tục khi tăng,

1716. Cảnh nào cũng vẫn xả lăn thân vào.

Thật vàng dẫu lửa nào không sợ,

Có lóc lăn mới rõ giả chơn;

Ta-bà đâu cũng léo thân,

Mà nơi nào cũng như cơn gió lồng.

Trước sau cũng vẫn không bóng dáng,

Không để cho vướng máng sự gì;

Luôn ôm lấy dạ từ bi,

1724. Mượn đời để tạo những gì cao siêu.

Bề ngoài dẫu có nhiều sắc diện,

Bên trong luôn một chuyện đạo mầu;

Quê nhà khó hiểu cho đâu,

Tình riêng ôm giữ đạo mầu chung lo.

Thật có một, quyền do nhiều cách,

Tùy xứ người lao lách thích ưng;

Nhưng chung qui một bước chơn,

1732. Đưa dân chúng đến hưởng phần siêu sanh.

Chớ thấy vật bên mình biến hóa,

Mà vội vàng cho cả như nhau;

Bề ngoài vàng giống như thau,

Nhưng trong thực chất khác nhau rất nhiều.

Muôn năm cũng không tiêu mòn được,

Thật vàng mười sau trước chói chang;

Quê nhà chớ dạ nghi nan,

1740. Xin cùng đây một lòng vàng chớ phai.

Chịu khó nhọc giồi mài đạo đức,

Sẽ cùng đây qui nhứt ý nguyền;

Dù sao chớ để lơi duyên.

Một ngày nồng mặn đạo nên một ngày.

Tâm không bận trần ai nhứt vật.

Duyên lành gây khắp đất không chừa;

Lòng nầy ai hiểu được chưa,

1748. Nếu chưa hiểu rán, hiểu cho đến cùng.

 

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Giới thiệu về Thiền Lâm

LỜI NGỎ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni ! Kính thưa quý Phật tử và quý Thiện hữu tri thức ! Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn bị thôi thúc, cuốn hút bởi rất nhiều thông tin từ mọi hướng nhưng không ai trong chúng ta lại không nhìn nhận rằng, công nghệ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 161
  • Khách viếng thăm: 158
  • Máy chủ tìm kiếm: 3
  • Hôm nay: 15533
  • Tháng hiện tại: 328423
  • Tổng lượt truy cập: 59768440

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile