Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 4

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 11:20 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 4

Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 4

Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ

Tiếng nói trong hoa Sen - Phần 4

*****

Từ xưa đến ngay trong hiện kiếp,

Vì nặng duyên với khắp nhơn sinh;

Lao thân cõi tục muôn nghìn,

Để làm cho giống hữu tình mọc lên.

Nay cũng thế đâu quên lẽ ấy,

Đi đó đây tìm cái duyên xưa;

Nhờ Trời ban bố mốc mưa,

1756. Cho đâu đó được lòng vừa như nhau.

Dắt được một người vào cửa Phật,

Mừng còn hơn báu vật muôn xe;

Lời lành thấy kẻ không nghe,

Đớn đau như thể búa đe đập vào.

Đêm không ngủ vì câu suy lượng,

Ngày quên ăn bởi tưởng xa gần;

Nặng tình dân phải mòn thân,

1764. Mòn thân đâu quản miễn dân đồng tình.

Mối siêu nhiệm nơi kinh khó vạch,

Ở nơi lòng là mạch rán tìm;

Thấy lòng tất biết cổ kim,

Thấy tình dân quốc thấy miền kẻ xa.

Ngày nào được thấy ra điều ấy,

Tất cùng đây như chái với hiên;

Rán trau cho thắm lấy duyên,

1772. Quan-Âm, Thế-Chí ngồi bên Di-Đà.

Ngày hỷ lạc chính là ngày đắc,

Phút trùng lai ấy phút vinh quang;

Quê nhà lớn nhỏ khá toan,

Để cùng nâng chén huy hoàng gần xa.

Sự khổ sở tuy là lắm chịu,

Lòng không nao xứng điệu làm trò.

Tổ thầy tất đã hiểu cho,

1780. Chớ ngờ áo gấm mặc mò trong đêm.

Có một chuyện khiến thêm tin chắc,

Vào một đêm nước mắt đang tuôn;

Lòng sao chi xiết ưu buồn,

Trách hiền khốn đốn còn hung an nhàn.

Liền bên tai nghe vang tiếng nói,

Rằng con ơi! chớ vội trách phiền;

Phật Trời đâu có vị riêng,

1788. Hiền mà khốn đốn vì hiền mới đây.

Hung được sướng vì gây phước trước,

Phước hết rồi não nuột bá ban;

Chớ rằng hung được an nhàn,

Còn hiền khốn đốn trách than luật trời.

Thần minh khắp mọi nơi đều có,

Sự dữ lành lớn nhỏ thấy qua,

Không riêng việc đã làm ra,

1796. Trong lòng mới tính cũng là hiểu thông.

Xưa nay phép chí công chẳng lệch,

Chớ nghi ngờ làm chích lòng trên;

Thương người tâm ấy đáng nên,

Những điều nhân quả đừng quên xét vào.

Hiền khốn đốn chẳng nao núng dạ,

Không những là xong quả trước kia;

Phước nay còn được nhiều bề,

1804. Càng cam chịu được Phật quê càng gần.

Nghe nói thế ta lần nguôi dạ,

Nói trong lòng rằng cả việc chi;

Phú cho các đấng từ bi,

Xét xem cho chứng mê si được nhờ.

Tai lại tiếp nghe qua thêm nữa,

Rằng con ơi! chớ có nghi ngờ;

Mẹ thương mến đứa con thơ,

1812. Thế nào thì Phật cũng là thế ni.

Thương chúng đến quên đi cõi thọ,

Xuống hồng trần chịu khổ dường bao!

Thương đời đời chẳng xót đau,

Thường đem cay đắng chế vào Phật Tiên.

Ai nỡ trách kẻ điên ném đá,

Thấy con mê lòng dạ càng thương;

Con ơi! con trẻ nào tường,

1820. Thầy con chính ở bên giường con đây.

Ta nghe đến đoạn nầy rơi lụy,

Khối nhớ thương như lũy như thành.

Chỉ nghe tiếng nói đâu đành,

Phải cho thấy mặt thì tình mới ưng.

Đoạn nầy ta xin ngưng để đó,

Chờ kỳ sau sẽ có dịp bày;

Tiếp qua tiếng nói bên tai,

1828. Từ đêm cho chí những ngày đều nghe.

Cũng một hôm vào khuya vắng vẻ,

Tai liền nghe nhỏ nhẹ lời thơ:

Thanh phi thường thanh

Sĩ dị phàm sĩ;

Lưu nhi bất di,

Ngoại kỳ hữu lý.

Vĩ ý nan tương,

Đại nguyện hà tỷ?

Phật vô nhứt ngung,

Giáo hà lập vị?

Diện kiến nan tri,

Ấu nhi vô trĩ

Tâm dĩ độ tâm,

Lão hà nhứt lý?

Hòa thống phương phương,

Hảo chơn thử bỉ;

Nhứt nhược trì qui,

Trụ kỳ bạt vị.

Kệ rồi vắn tắt dặn dò,

1848. Khá đem mỗi chữ kết cho thành vần.

Tơ nhỏ sợi khéo đan dệt lại;

Nên gấm bông việc ấy đâu ngoa,

Con ơi! kệ một lời ra,

Có nhiều cơ mật rán mà xét suy.

Một để một việc chi cũng dễ,

Một ra mười sự hệ lắm con;

Khéo dùng phương tiện cho tròn,

1856. Nay không nên được hết còn hội nao.

Nói tới đây lời trao đã vắng,

Nằm gác tay lên trán nghĩ suy;

Ý nguyền nếu chẳng như y,

Ta còn lưu lại làm chi cõi trần.

Nghĩ đến đây tâm thần mỏi mệt,

Mắt nhắm đi đến lúc mơ màng;

Duyên xưa đâu khéo đem đàng,

1864. Người anh cách khoảng muôn năm lai hồi.

Rằng em ơi! chớ lời than chán,

Ý nguyền nên hay chẳng mặc tình;

Trước sau một chí hy sinh,

Sống hay chết cái thân mình kể chi.

Ở trần mãi đến khi toại nguyện,

Chừng nào không còn chuyện khổ đau,

Niết bàn kia mới nên vào,

1872. Còn người sầu khổ còn lao trong trần.

Em ơi! đạo gần xa cố bủa,

Hết lao đao đến thuở thanh nhàn;

Đang ngồi nơi chốn lâm san,

Nghe em than chán vội vàng xuống đây.

Anh thương em từ ngày xưa cũ,

Đến những nay chịu đủ âu sầu;

Lóc lăn còn thiếu chi đâu,

1880. Dấu chơn giẫm khắp địa cầu hỡi em.

Việc đã cận anh xem thấy rõ,

Không muốn em chán bỏ nửa đường;

Từ bi tâm ấy khôn lường,

Mừng cho em được nối đường Như-Lai.

Em đã chẳng mến say xác tục,

Đáng kính thay tâm lực đủ đầy;

Nhưng cần phải mượn xác này,

1888. Để làm xe chở nhơn loài qua truông.

Kể từ đây lời buồn tiếng thảm,

Nên vì anh để ngậm trong lòng;

Việc em anh đã cảm thông,

Mỗi lời than mỗi khiến lòng anh đau.

Vừa rồi được lời trao nhỏ nhẹ,

Em biết cho là kẻ nào chăng;

Ông già tóc bạc da nhăn,

1896. Bấy lâu thường ở bên màn của em.

Nghe lời ấy ta thêm ứa lệ,

Mầu nhiệm thay cho kẻ vô hình;

Từ lâu khắn chặt tâm tình,

Không riêng cho tiếng cho hình thấy luôn.

Một ý nghĩ sai đường Phật pháp,

Cũng ứng lời dạy gấp không quên;

Không nhờ ơn đức bề trên,

1904. Ta đâu dễ được hiểu nên thế này.

Không riêng ta dù ai cũng thế,

Nếu nhứt tâm gìn lẽ tu hiền;

Thì là sẽ được Phật Tiên,

Dạy cho các lẽ bí huyền chẳng không.

Xin chịu khó trì công khuya sớm,

Nếu không nên ta chẳng phải người;

Nào ta có dám nói chơi,

1912. Nói ra là dựa theo lời Phật Tiên.

Ngay như việc hoa liên ứng ngữ,

Cũng nói ra để gởi cho nhau;

Rõ điều mầu nhiệm siêu cao,

Hầu tu thêm nữa cho mau công thành.

Hoa còn nói muôn nghìn lẽ nhiệm,

Xin kể thêm yếu điểm ra nghe;

Vừa rồi những tiếng gớm ghê,

1920. Của muôn kẻ khổ dầm dề khóc than.

Tiếng ấy dứt hoa vàng liền động,

Quanh mình ta như sóng vỗ vào;

Tự nhiên cảm thấy nhức đau,

Thình lình hồn phách biến vào nơi đâu.

Trong lúc ấy mau lâu chẳng nhớ,

Khi tỉnh ra thân thể như dần,

Còn thân như đã mất thân,

1928. Chính ta chưa biết phép thần làm sao.

Một bài kệ từ đâu đưa lại,

Lời thanh tao giảng dạy như vầy:

Không khí khi đổi thay,

Nhơn vật tợ như say;

Thất thần trong tức khắc,

Tỉnh lại có mấy ai?

Sau khi nghe đến kệ này,

Trong lòng ta cảm thấy đầy sợ lo.

Ngày chung cuộc nếu mà thật thế,

Đến như loài trùng dế cũng tiêu;

Trong không như lượn sóng triều,

1940. Mũi như sảm đất làm sao sống đời.

Không nhờ Phật vãn hồi tánh mạng,

Lớn như voi cũng chẳng còn chi;

Có vầy mới gọi biến di,

Phật Tiên vì đó ra đi kêu gào.

Rán bớ ai dù sao cũng rán,

Qua hội nầy sống đặng muôn niên;

Nếu như thành được Phật Tiên,

1948. Lại càng thọ hưởng vô biên lạc nhàn.

Như rồi đóa hoa vàng đã hiện,

Nhiều cảnh mầu nhiều chuyện xinh tươi;

Vui hơn vui của loài người,

Ước mong khắp chúng sống nơi cảnh nầy.

Tu chín chắn đến ngay đó được,

Có Phật Ngài đưa rước tới nơi;

Việc nầy đâu phải xa vời,

1956. Xin nên tin chắc ớ người quê hương.

Đèn trên hoa còn đương thẳng ngọn,

Gió từ đâu ron rón thổi vào;

Ngọn đèn liền phất phơ mau,

Biến ra một cảnh trông vào thêm xinh.

Một Đức Phật ngồi trên sen báu,

Nhích miệng cười rồi bảo ớ con;

Chua vì bởi nó còn non,

1964. Chín rồi sẽ ngọt không còn chua đâu.

Nghiệp chưa sạch đành câu khổ báu,

Nợ xong rồi ai bảo trả thêm;

Gió ngưng thì sóng cũng êm,

Điều nầy con khá nhớ đem vào lòng.

Cảnh nầy tên là Không Diệu Hữu,

Lòng muốn chi có đủ ớ con;

Ngõ nhân tâm nọ chẳng còn,

1972. Thì là sẽ được sanh lên cảnh nầy.

Vậy con nhìn nơi cây bên cạnh,

Biết bao nhiêu trái chín thơm tho;

Ăn vào cả tháng được no,

Không cần đại tiểu vẫn là tự tiêu.

Y phục luôn tùy theo ý muốn,

Rồi tự nhiên hiện cuốn nơi thân;

Gọi là như ý diệu thần,

1980. Cõi Không Diệu Hữu toàn dân như nguyền.

Ngày chọn lọc tại miền hạ giới,

Kẻ hữu duyên sẽ tới cõi nầy;

Là ngày không cánh mà bay,

Không trồng tỉa vẫn đủ đầy ấm no.

Con ơi! rán truyền cho dân biết,

Tận diệt mà không diệt ớ con;

Mất nhưng mà vẫn thường còn,

1988. Ấy ngày lập hội đầu non tại trần.

Không riêng Phật hóa thân khắp chỗ,

Các Thần Tiên cũng đổ xuống phàm;

Mạnh ai thì việc nấy làm,

Tùy duyên cứu các linh căn đem về.

Nói xong Phật tay xòe năm ngón,

Chiếu sáng như năm ngọn đèn pha;

Ngũ phương liền thấy hiện ra,

Vô biên thế giới thật là đẹp xinh.

Mỗi thế giới dạng hình mỗi khác,

Có vị thì nhiều mắt nhiều tay;

Cõi thì to lớn hình hài,

2000. Cõi thì nhỏ thó như người thế gian.

Có cõi đất bằng vàng chói rực,

Có cõi thì châu ngọc lót đầy;

Cõi thì toàn thấy những cây,

Không nhà không cửa đêm ngày sáng trưng.

Mỗi bước có hoa nâng đỡ gót,

Tai luôn nghe lời Phật dạy khuyên;

Muốn chi tức được có liền,

2008. Dù rằng việc ấy ở miền khác xa.

Chim biết nói gió hòa nên nhạc,

Nước tùy lòng ấm mát đổi thay;

Cõi trần khó sánh vào đây,

Càng xem càng thấy mê say thêm nhiều.

Phật liền cất tiếng kêu ớ trẻ,

Ở thế gian ít kẻ thấy đây;

Tưởng rằng chỉ có trần ai,

2016. Chớ không còn có cõi ngoài khác đâu.

Thế nên cứ bấu câu tục lụy,

Cạnh tranh nhau nhục sỉ chẳng màng;

Rốt như bọt nước hồ giang,

Chỉ trong chốc lát rã tan chẳng còn.

Cảnh chơn thật mắt con đã thấy,

Khi trở về nhắc lại cho người;

Duyên con đã nặng với đời,

2024. Lời con sẽ được lắm người nghe theo.

Thảng có kẻ trả treo chống chỏi,

Bởi kém duyên nên gọi cạn lời;

Con ơi! gặp lúc hạn trời,

Giống lên có một khô thời mười mươi.

Được nghe ít bị cười nhiều lắm,

Không can trường khó rấm giống duyên.

Cuối cùng với buổi đầu tiên,

2032. Lòng người thương ghét đổi liền không ngưng.

Con ơi! mỗi bước chơn đặt xuống,

Bằng ít oi dốc luống dẫy đầy,

Muốn noi gương phẩm Như-Lai,

Chớ nao núng tiếng nhiếc xài thế gian.

Người không hiểu thì càng thương xót,

Cố dạy cho đến lúc hiểu rành;

Kẻ say giận nó sao đành,

2040. Không mê ai cũng hiền lành như nhau.

Con là một trong bao Phật tử,

Gương từ bi khá giữ cho minh;

Gặp điều thử thách đến mình,

Phải luôn nêu rõ chơn tình cao siêu.

Núi cao mấy rừng nhiều thế mấy,

Cũng chẳng làm trở ngại khoảng không;

Khoảng không ấy ví cho lòng,

2048. Núi rừng ấy ví trần hồng nọ kia.

Ở trong cõi trần mê vẫn tỉnh,

Cùng Phật đâu khác tính ớ con!

Huyễn thân tuy mất mà còn,

Rách y phục chớ đâu mòn thịt xương.

Gạn xét kỹ rồi trương cung đạo,

Bắn cho tan giặc bạo trong đời;

Ngàn vàng dễ kiếm con ơi!

2056. Một câu chánh-giáo muôn đời khó nghe.

Hãy quí trọng hơn là châu báu,

Ngày đêm luôn trì bảo chớ quên;

Riêng mình đạo quả được nên,

Rán dìu bá tánh cùng lên sen đài.

Phật Ngài nói đến đây liền nín,

Thoắt nhiên trên tụ đỉnh chiếu ra;

Tự nhiên không thấy Phật- Đà,

2064. Chỉ còn thấy có đóa hoa với đèn.

Trong lòng ta ngợi khen đáo để,

Các Phật đều tướng thể giống nhau;

Đẹp hơn hết thảy vật nào,

Mặt mày vui vẻ lời trao dịu dàng.

Vừa rồi dạy mọi đàng hơn thiệt,

Chơn lý thay! Siêu việt lắm thay!

Mỗi câu mỗi chữ đều hay,

2072. Càng nghe càng khiến mê say khó lờn.

Muôn kiếp khó quên ơn đại độ,

Đạo quyết thành để có đáp ơn;

Ớ người trong cõi thế nhơn,

Nghe đây rồi thấy tâm thần nghĩ sao?

Há không sớm bước vào cửa Phật,

Để qui y giải cuộc trần ai,

Muốn tu tu chớ hẹn ngày,

2080. Kiếp đời không thể kéo dài được đâu.

Trễ một dịp khó âu gặp cuộc,

Trời tối mà gặp đuốc là may;

Mộng trần còn có bao dai,

Có đeo cũng chẳng đeo hoài được đâu.

Ta lặn lội vì câu giục thúc,

Chịu nắng mưa bởi cuộc tử sinh;

Nói ra với cả chơn tình,

2088. Muốn ai cũng được kính tin đạo mầu.

Ta xin viết những câu sau đấy,

Khi nhớ nhau đọc lấy đỡ buồn:

Đã ngót năm năm trường,

Ta xa cách quê hương;

Nhưng đối với già trẻ,

Vẫn giữ một lòng thương.

Thương đến rơi nước mắt,

Thương đến nhói can trường;

Xác thân tuy lưỡng lộ,

Tâm hồn vẫn nhứt phương.

Quên ăn vì quá nhớ,

Mất ngủ bởi nhiều thương;

Thân trên giường ngoại quốc,

Mộng về đến quê hương

Xưa nay vì tâm bịnh,

Hiện còn da bọc xương;

Hỡi người trong quê nội,

Lòng ta có được tường?

Cách nhau xin chớ cách,

Rán đợi cuộc phùng tương;

Dẫu gặp muôn thử thách,

Xin chặt giữ một đường.

Dù ai có chê ghét,

Đây đó vẫn yêu thương;

Chớ để danh cám dỗ,

Đừng cho lợi gạt lường.

Khó khăn dù cách mấy,

Tu vẫn cứ tu luôn;

Ví dụ ngày mai mốt,

Được xuôi gió thuận đường.

Gót chơn người mong đợi,

Sẽ trở lại quê hương;

Từ đây cho đến đó,

Nhớ nuôi chí quyết cương.

Khổ sầu sẽ đền trả,

Cho nhau chén quỳnh tương.

Mỗi ngày được nhớ đọc luôn,

2126. Mối tình đây đó càng vương thêm nhiều.

Hai ngã được cùng theo một ý,

Việc lớn lao thế mấy cũng nên;

Đạo mầu càng chói chang lên,

Không riêng một chỗ mà lên khắp cùng.

Trong cửa Phật có trung lẫn hiếu,

Cũng có luôn cả điệu nghĩa nhân;

Muốn cho đáp vẹn trọng ân,

Người trong cửa Phật giữ thân cho tròn.

Thân ấy vẹn phận con phận tớ,

Vẹn cả tình quốc thổ quốc dân;

Nếu là thật đạo chánh chơn,

2138. Hòa quang thì có yếm trần thì không.

Mượn cảnh tịnh cho lòng bình tịnh,

Chưa phải là chơn chính pháp môn;

Được luôn tự chủ tâm hồn,

Dù trong chỗ loạn nhưng lòng vẫn yên.

Có thế mới dụng quyền độ thật,

Trong bùn lầy mà chất vẫn thanh;

Quê nhà xin rán nghiệm rành,

2146. Nguồn chơn nắm được tu hành mới nên.

Nơi đất khách nào quên cố quận,

Ở trần gian vẫn tưởng Phật- Đài;

Dù cho xa cách bao dai,

Lòng mong trở gót không ngày nào quên.

Tuy giấy trắng mực đen thô đạm,

Nhưng lòng son đã chạm vào đây;

Xem đây tất biết lòng này,

2154. Muôn xưa cho đến ngày nay một niềm.

Niềm ân ái từ kim chí cổ,

Đã gieo sâu trong chỗ tu hành;

Giữa ta cùng khắp nhơn sanh,

Chết thân muôn lượt nhưng tình sống luôn.

Người dẫu phụ ta không thể phụ,

Ở nơi đâu cũng nhớ thương luôn;

Riêng thân khổ chẳng hề buồn,

2162. Thấy người bị khổ mắt tuôn lệ dài.

Ước sao khắp ai ai cũng thế,

Cùng với đây tương kế tâm linh;

Loạn cho thế mấy cũng bình,

Ai nghe cũng mến ai nhìn cũng ưa.

Mạch sầu nầy nếu chưa lắp được,

Huyết lộ trong dân nước còn rơi;

Khóc không vì phận xa vời,

2170. Mà là khóc cái cuộc đời loạn ly.

Khóc vì cửa từ bi vắng dạng,

Khóc người tu không rán lo tu;

Không riêng lúc thức khóc đâu,

Đến trong lúc ngủ cũng châu rơi dầm.

Trước mặt Phật vẫn đem bày tỏ,

Trong lòng son luôn cố nhớ lo;

Lời nào của Phật dạy cho,

2178. Tiện bề nói hết ra cho người đời.

Chừng nào được khắp nơi hối ngộ,

Thì những lời khuyên dỗ mới ngưng;

Còn người chơn bước chơn dừng,

Ta còn đem hết tinh thần réo kêu.

Xin vui vẻ nghe theo lời chánh,

Để làm xong hoàn cảnh người tu;

Mới không luống uổng công phu,

2186. Người đâu khinh bỉ mình đâu hổ lòng.

Ta xin kể chuyện bông thêm nữa,

Để cùng nghe hầu sửa lấy tâm;

Hoa đèn còn đứng như găm,

Ta còn đang đứng ngó chầm vào hoa.

Trong lòng ước Phật- Đà dạy kỹ,

Đâu chơn và đâu ngụy đành rành;

Ngõ hầu nhắc lại nhơn sanh,

2194. Dựa theo nơi đó để hành cho y.

Vừa nghĩ thế tức thì hoa động,

Cánh thứ nh. gần rún của hoa;

Bắn lên một ánh sáng lòa,

Chót trên ánh sáng Phật- Đà ngồi nghiêm.

Tướng đẹp chúng cổ kim khó sánh,

Gương lành trong bá tánh đâu so;

Mùi hương bay rất thơm tho,

2202. Gió đưa thấy mát hơn là gió thu.

Phật liền nói lên câu vi diệu,

Rằng con ơi! nên hiểu như vầy:

Thật ấy là chơn,

Giả ấy là ngụy;

Chơn không dối lừa,

Ngụy hay gian trá.

Chơn không ngã nhơn,

Ngụy thì nhơn ngã;

Không chấp là thật,

Còn chấp là giả.

Tâm chơn chơn hết,

Tâm ngụy ngụy cả;

Ngụy vốn tại mình,

Chơn không do kẻ.

Không sáu trần thật,

Có sáu trần giả.

Chơn có không không,

Ngụy không có có.

Nói làm một thật,

Làm nói hai giả;

Chơn ngoài như trong,

Ngụy trong khác cả.

Thương khắp là thật,

Yêu riêng là giả;

Chơn thí không ngừng,

Ngụy không phóng xả.

Sau trước một thật,

Đuôi đầu hai giả;

Không vướng chơn hết,

Có đeo ngụy cả.

Không sắc là thật,

Còn tướng là giả;

Chơn thì chơn thành,

Ngụy thì ngụy quả.

Con cứ lấy đây,

Ngụy chơn hỏi dạ.

Phật Ngài vừa nói tới đây,

2240. Hào quang liền mất mặt mày hết trông.

Ta đứng mãi như trồng chẳng động,

Bởi kệ mầu đang ấn trong tâm;

Càng suy càng để ý tầm,

Càng hay càng thấy cao thâm vô cùng.

Vì say kệ mắt ngưng không nháy,

Ngó Phật khi hết thấy mới thôi;

Hào quang cao vọi ngất trời,

2248. Khéo thay Đức Phật lại ngồi lên trên.

Việc chơn ngụy hư nên dạy kỹ,

Mỗi lời gồm đủ lý cạn sâu;

Hiểu ra cho tận đuôi đầu,

Mới hay lời Phật nhiệm mầu vô biên.

Xin chớ lấy ý riêng xét nghiệm,

Đem tấm lòng cao viễn suy ra;

Việc chơn hay ngụy cũng là,

2256. Từ trong tim não sanh ra mọi điều.

Lấy khuôn mực ở nhiều kinh điển,

Để làm nơi văn kiến ít lầm;

Hành sai vì bởi mê tâm,

Tâm mê hết được, việc làm không sai.

Nhớ cho kỹ bớ ai người thế!

Hãy tỉnh ra chớ để mê luôn,

Khổ đời còn diễn lắm tuồng,

2264. Chậm qua một khúc rối cuồn nhiều ngoe.

Theo lời Phật ta nghe từ trước,

Cho đến nay lần lượt kể ra;

Không riêng lời của Phật- Đà,

Mà nhiều vị khác cũng là nói luôn.

Còn một vị chờ cơn thuận tiện,

Ta sẽ đem phổ biến ra nghe;

Nói ra ai cũng không dè,

2274. Phong thần ấy chuyện đã nghe lâu rồi.

Ta nói hết không lời nào tiếc,

Nói cho người được biết để tu;

Tu cho khỏi kiếp lao tù,

Tu coi đại hội trên bầu thế gian.

Con đắc đạo cứu an cha mẹ,

Cha mẹ thành dìu trẻ qua truông;

Chồng nên vợ được nên luôn,

2282. Vợ thành chồng cũng qua cơn thảm sầu.

Nên hợp sức bắt sâu nhổ cỏ,

Một hột gieo được trổ nhiều bông;

Khuyên nên đồng vợ đồng chồng,

Cha con nhứt trí giống dòng nhứt tâm.

Dịp may cả muôn năm mới gặp,

Chớ bỏ qua hãy gấp ôm vào;

Để xem kẻ cỡi hoa lau,

2290. Đi qua biển cả thế nào mới vui.

Trời đất lúc tối thui tất cả,

Ngọn đèn thần sẽ chóa khắp nơi;

Hiền lành sẽ được đèn soi,

Dữ hung đành chịu như người quáng manh.

Lúc khát chẳng ai dành cho nước,

Khi đói không kẻ giúp cho cơm;

Khổ thân còn khổ linh hồn,

2298. Khổ trong muôn kiếp đem dồn một khi.

Ngày ấy sẽ lần đi tới chỗ,

Lá khô thì sẽ đổ chẳng không;

Liệu mình cho được sạch trong,

Ngày khai đại hội ấn rồng được phê.

Tỉnh thức sớm chớ mê ngủ nữa,

Hội nầy không còn thuở nào hơn;

Chừng tai nghe được tiếng đờn,

2306. Mây sầu tan cả mưa buồn tạnh xong.

Những lời nói trong bông sen đấy,

Không dễ nghe chớ lấy làm thường;

Toàn lời của Phật mười phương,

Nói ra vì bởi lòng thương thế trần.

Liền sau khi Phật thân ẩn dạng,

Trong hoa liền trỗi bản thanh tao;

Một bài thơ diệu làm sao!

2314. Thơ rằng ớ trẻ tại trào Hạ nguơn.

Mặc cho cuộc mưa đơn gió kép,

Vẫn một lòng sắt thép trơ trơ;

Rán đưa người đến bến bờ,

Sóng dù muôn lượn chớ ngơ máy chèo.

Xưa Phật đã qua đèo lội suối,

Chẳng quản chi gối mỏi chơn đau;

Lòng tu trước cũng như sau,

2322. Mến tu hơn mến sắc màu thế gian.

Gặp thử thách trơ gan chịu đựng,

Suốt khoảng tu không sướng một ngày;

Nhưng lòng vẫn được dẻo dai,

Chí tu càng thấy mỗi ngày thêm tăng.

Nếu không chịu khó khăn như thế,

Quả Như-Lai đâu dễ đắc thành;

Lợi danh chẳng mến lợi danh,

2330. Ái tình mà chẳng ái tình buộc vương.

Thật là một tấm gương vĩ đại,

Đáng chúng sanh sùng bái muôn đời;

Con ơi! gương ấy khá noi,

Khỏi cần phải nói thêm lời chi hơn.

Vừa đến đây nhạc ngưng lời dứt,

Hoa và đèn cũng mất theo luôn;

Lòng ta vui trộn lẫn buồn,

2338. Vui ra nước mắt buồn tuôn lệ dài.

Cảm ơn đức Như-Lai vô-lượng,

Khéo tùy cơ biến hiện đủ môn;

Xin thề dù xác muôn chôn,

Vẫn không quên được trọng ân Phật Ngài.

Không thành đạo lòng đây há toại,

Chẳng tỉnh đời sao phải người tu;

Đuốc soi gấp mấy trăng thu,

2346. Lời khuyên hơn lá rừng sâu mới vừa.

Xin đồng đạo chớ ngơ ngẩn dạ

Rán đọc lời biên tả nơi đây,

Lòng thương nhau chớ nên khuây,

Đường tu cứ bước đừng ngày nào thôi.

Nơi hải ngoại xa xôi cách trở,

Mượn bút nghiên nầy có thăm nhau;

Chúc cho trí tuệ được mau,

2355. Thanh bình sớm hưởng đạo mầu sớm nên.

Tên người Thanh-Sĩ chớ quên.

Viết xong tại Đông Kinh

Ghi chú:

(1) ‘Tiên Phật được thiềng’: ‘được thành’

MUỐN CHO ĐÂY ĐÓ

Đây đó một lòng son,

Nhìn về cảnh nước non,

Trong lòng mình tự hỏi,

Sao vẹn chữ mất còn.

Sao vẹn chữ mất còn,

Không hổ phận tôi con;

Ngoài đời hay trong đạo,

Cũng ở trong nước non.

Cũng ở trong nước non,

Há quên phận tôi con;

Chữ hảo hòa phải liệu,

Đừng để nước non mòn.

Đừng để nước non mòn,

Ấy là phận tôi con;

Tổ tiên dạy như thế,

Con cháu rán lo tròn.

Con cháu rán lo tròn,

Chớ để cho nước non;

Người ngoài leo lên giẫm

Làm cho nó tiêu mòn.

Làm cho nó tiêu mòn,

Mòn cả đến cháu con;

Nước cạn thóc không mọc,

Khi gìn vẹn nước non.

Khi gìn vẹn nước non,

Nước non của cháu con;

Của chung của tất cả,

Đừng để ai riêng bòn.

Đừng để ai riêng bòn,

Ngồi trên chót thon von;

Quên đau khổ kẻ dưới,

Lợi dụng chữ nước non.

Lợi dụng chữ nước non,

Đảo ngược phận tôi con;

Tình nghĩa chia đôi ngả,

Quên hai chữ mất còn.

Quên hai chữ mất còn;

Tự hỏi lấy lòng son:

Có nhục hay là chẳng?

Ai là phận tôi con?

Thanh Sĩ.

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Giới thiệu về Thiền Lâm

LỜI NGỎ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni ! Kính thưa quý Phật tử và quý Thiện hữu tri thức ! Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn bị thôi thúc, cuốn hút bởi rất nhiều thông tin từ mọi hướng nhưng không ai trong chúng ta lại không nhìn nhận rằng, công nghệ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 39
  • Hôm nay: 8371
  • Tháng hiện tại: 268303
  • Tổng lượt truy cập: 59708320

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile