Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 - Phần IV hết

Đăng lúc: Chủ nhật - 04/12/2011 10:41 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 - Phần IV hết

Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 - Phần IV hết

Hôm nay chúng tôi nói “vào cửa Không” tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: “Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm.” Người đạo sĩ biết tu có thể sống hết sức đạm bạc và kham khổ, không quan trọng đến thân, nhưng họ lại rất quí cái tâm. Nếu chúng ta không chấp thân mà còn chấp tâm thì cũng là bệnh.
VÀO CỬA KHÔNG
Hôm nay là thời giảng thứ hai của chúng tôi tại chùa Xá Lợi. Trong bài giảng thứ nhất chúng tôi đã nói về “Vào Cổng Nhà Thiền”. Đến bài giảng thứ hai này, chúng tôi hướng dẫn quí vị “Vào Cửa Không”.
Tại sao dùng hai chữ “Cửa Không”? Đó là chúng tôi dịch nghĩa danh từ “Không môn” trong nhà thiền. Trong đạo Phật, khi nói đến cửa không, chúng ta biết là cửa thiền. Tại sao cửa thiền được gọi là cửa không?
Ở bài giảng trước, chúng tôi đã chỉ cho quí vị thấy rõ bệnh chấp ngã về thân, chấp ngã về tâm, gọi là vô minh hay là ngu si. Tuy nói về thân về tâm, nhưng chủ yếu nói về Sắc thân.
Hôm nay chúng tôi nói “vào cửa Không” tức là đi sâu vào phần nội tâm. Trong nhà Phật, chúng ta thường nghe nói: “Kẻ phàm phu thì chấp thân, đạo sĩ thì chấp tâm.” Người đạo sĩ biết tu có thể sống hết sức đạm bạc và kham khổ, không quan trọng đến thân, nhưng họ lại rất quí cái tâm. Nếu chúng ta không chấp thân mà còn chấp tâm thì cũng là bệnh.
Để thấy rõ hai chữ “Cửa Không” được xuất xứ từ trong nhà thiền, chúng tôi xin đọc lại hai bài kệ của hai vị Thiền sư.
Bài kệ thứ nhất của Thiền sư Thần Tán, đệ tử Tổ Bá Trượng. Sau khi ngộ đạo ở Tổ Bá Trượng rồi, Ngài còn bổn sư chưa hiểu đạo nên Ngài định về chùa tìm phương tiện để cảnh tỉnh bổn sư của mình. Nhưng vị bổn sư xem thường Ngài, vì cho Ngài là đệ tử không hiểu hơn thầy được. Một hôm vị bổn sư ngồi xem kinh bên cửa sổ, vì trời lạnh ông lấy giấy dán bít cửa sổ lại. Ngài Thần Tán đi ngang qua thấy một con ong cứ bay đập vào tờ giấy trắng tìm lối ra, mà chui ra không được. Ngài Thần Tán đứng ngoài cửa sổ ngâm một bài kệ:
Không môn bất khẳng xuất
Đầu song dã thái si
Bách niên táng cố chỉ
Hà nhật xuất đầu thì?
Cửa không chẳng chịu ra
Vùi đầu quá si đà
Bao lâu vùi giấy cũ
Cũng không ngày được ra.

Cửa trống rỗng mà không chịu ra, lại gieo mình vào cửa sổ bít lại, thật là quá ngu si. Cả trăm năm cứ vùi đầu trong giấy cũ, đến bao giờ mới trồi đầu ra được? Trong bài kệ người đệ tử tả chuyện con ong muốn bay ra ngoài mà bay lầm vào cửa sổ bị dán giấy bít lại. Đây là để chúng ta thấy rõ ý nghĩa của hai chữ “Không môn”. Bài kệ có hàm nghĩa gì khác, ở đây chúng tôi không giải thích thêm.
Bài kệ thứ hai của Thiền sư Động Sơn, đệ tử Vân Nham Đàm Thạnh:
Không môn hữu lộ nhân giai đáo
Đáo giả phương tri chỉ thú trường
Tâm địa nhược vô nhàn thảo mộc
Tự nhiên thân thượng phóng hào quang.
Cửa không ngã ấy người nào đến
Đến đó mới hay chỉ thú trường
Tâm địa nếu không đồ cỏ rác
Tự nhiên thân phóng hào quang thường.

Cửa Không có một con đường mọi người đều đến được. Người người đến rồi mới biết chỉ thú của nó là đặc biệt, là cao siêu. Đất tâm nếu không có cỏ cây vô ích mọc lên, thì ngay nơi thân này đã phát ra hào quang sáng.
Qua bài kệ trên, chúng tôi đã dẫn chứng cho quí vị thấy cửa thiền là cửa Không. Vào được cửa Không tức là vào nhà thiền.  Nhưng “Không” cái gì và làm sao để nó “Không”? Đó là chúng ta đi thẳng vào chi tiết trong bài giảng hôm nay, đi thẳng từng chi tiết từ cạn đến sâu.
Như tất cả chúng ta đã biết, sở dĩ luân hồi sanh tử là tại nghiệp. Do nghiệp nên chúng ta bị dẫn đi trong lục đạo, nghiệp là động cơ đã lôi chúng sanh vào vòng luân hồi. Nhưng nghiệp đó phát xuất từ đâu, cái gì tạo thành nghiệp? Chắc không ai nghi ngờ, nghiệp gồm có thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Như vậy ai dẫn chúng ta đi trong luân hồi? Chính chúng ta chủ động trong việc luân hồi do thân, khẩu, ý của mình. Do thân khẩu ý tạo nghiệp, nghiệp chi phối lại chúng ta, lôi chúng ta đi trong vòng luân hồi. Như vậy chúng ta là người tạo nghiệp, chúng ta lại bị nghiệp dẫn đi. Nhưng trong ba nghiệp thân miệng và ý, cái nào là chủ? Ai cũng biết ý là chủ, vì ý nghĩ thiện thì miệng mới nói điều lành, thân mới làm điều lành, ý nghĩ ác thì miệng nói lời ác, thân làm việc ác. Thế thì ý là chủ động của nghiệp. Đó là chúng ta từ ngọn phăng đến gốc. Ngọn là nghiệp dẫn đi trong luân hồi, nghiệp là do thân miệng ý tạo nên. Trong thân miệng ý, ý là chủ, ý là động cơ thúc đẩy thân và miệng tạo lành hay tạo dữ. Nếu chúng ta tu ba nghiệp, chắc ai cũng biết nghiệp ý là tối quan trọng.
Do đó khi chúng ta tụng kinh, muốn đầy đủ công đức thì phải làm sao? Tức ý phải định, phải chú tâm, phải lặng vọng tưởng thì lời kinh mới đầy đủ công đức. Chúng ta muốn trì chú cho được linh thiêng thì phải làm sao? Miệng tụng chú mà tâm nghĩ việc đông tây được không? Dĩ nhiên muốn trì chú cho có hiệu quả thì khi miệng tụng chú, tâm cũng phải trụ lại, như vậy chú mới có hiệu nghiệm. Chúng ta niệm Phật lần chuỗi, miệng niệm mà ý cứ chạy nơi này nơi kia có được không? Niệm Phật như vậy có được vãng sanh không? - Cũng không được. Khi niệm Phật thì miệng niệm tâm phải nhiếp, tức là nhiếp tâm theo câu niệm Phật. Như vậy mới gọi là niệm Phật được nhất niệm, hoặc là nhất tâm.
Chúng ta thấy rõ rằng tụng kinh, trì chú, niệm Phật là những hành động của khẩu nghiệp lành. Nhưng muốn khẩu nghiệp được viên mãn công đức lành thì phải định tâm. Khi tụng kinh chúng ta phải đứng hoặc ngồi rất là nghiêm chỉnh, đó là thân nghiệp; khi tịnh tọa niệm Phật cũng vậy, miệng niệm tay lần chuỗi cũng là thân nghiệp. Thân nghiệp và khẩu nghiệp đều gom lại cùng làm một việc thiện, nhưng thành công hay không là gốc ở cái gì? Gốc ở tâm có nhiếp, có định hay không. Chủ yếu trong các môn tu là để nhiếp tâm an định.
Nói về tu thiền, tu thiền để làm gì? Chúng ta thường nghe nói danh từ Thiền định, tức là một phương pháp để cho tâm mình an định. Tâm an định tức là nhiếp tâm chớ gì? Thế thì ba bốn pháp tu chúng tôi vừa nêu ra đó, chỗ trọng tâm có khác nhau không? Nhưng chúng ta niệm Phật, trì chú, tụng kinh, có khi nào ngồi tụng một thời kinh một tiếng đồng hồ mà nhiếp được tâm không chạy đi đâu hay không? Hay chúng ta vừa tụng kinh vừa đi chợ Sài Gòn? Như chúng ta tay gõ mõ, miệng tụng kinh, thân đứng ngay ngắn mà ý chạy đầu trên xóm dưới, thăm người này viếng người kia. Thế là chúng ta chỉ dứt được hai thứ thân và miệng, mà chưa dứt được ý. Trì chú, niệm Phật cũng vậy, tay thì lần chuỗi, miệng niệm Phật, thân ngồi một chỗ mà ý có ở đó hay không? Ý nhớ chuyện hôm qua, hôm kia, rồi tính việc ngày mai, ngày mốt. Như thế chúng ta chỉ nhiếp được thân và miệng, còn ý nhiếp không được. Cho đến người ngồi thiền, ngồi kiết-già rất là trang nghiêm ngay thẳng mắt nhìn xuống nghiêm chỉnh, nhưng ý có trang nghiêm như vậy không? Tuy thân ngồi đó mà ý cứ chạy ngược chạy xuôi không chịu dừng. Do đó chúng ta thấy nhiếp thân nhiếp miệng dễ, mà nhiếp tâm thật là cay đắng, không phải dễ. Chính cái cay đắng đó mới thấy giá trị của người tu. Nếu chúng ta không nhiếp được tâm, chỉ nhiếp được thân và miệng thôi, có phước chỉ có phước ngoài da. Vì trong tâm mình chưa yên làm sao có phước tột ở trong được. Vì vậy muốn phước đức được viên mãn, cốt phải nhiếp tâm.
Từ đây chúng tôi bắt đầu đi sâu vào vấn đề: Làm sao nhiếp được tâm? Nói về nhiếp tâm, trong nhà Phật có vô lượng phương pháp kể không hết. Ở đây chúng tôi chỉ nói về phương pháp tu thiền. Nhiếp tâm bằng cách nào để được “vào cửa Không”? Ngày xưa dưới Tổ Huệ Năng có một cao đệ tên là Nam Nhạc Hoài Nhượng tức là Tổ Hoài Nhượng ở núi Nam Nhạc. Một hôm, nhân đi dạo Tổ Hoài Nhượng thấy một vị Tăng ngồi thiền hết sức nghiêm chỉnh, ngồi từ sáng đến trưa, từ trưa đến chiều, ngày nào đi ngang qua Ngài cũng thấy như vậy. Ngài chú ý và một hôm Ngài lên tiếng. Vị Tăng đang tọa thiền nhìn thấy Ngài, Ngài liền hỏi: “Ông ngồi thiền mong làm gì?” Vị Tăng thưa: “Con ngồi thiền mong làm Phật.” Ngài trở về không nói gì. Đến hôm sau cũng vào giờ đó, thấy vị Tăng ngồi thiền, Tổ đem một hòn gạch đến tảng đá gần bên và mài. Ngài mài sột soạt hoài. Vị Tăng thấy lạ, hỏi: “Hòa thượng mài gạch để làm gì?” Ngài trả lời: “Ta mài gạch để làm gương.” Vị Tăng lắc đầu: “Vô lý làm sao! Gạch làm sao mài thành gương được?” Ngài trả lời: “Nếu gạch mà không làm gương được thì ngươi ngồi thiền làm sao thành Phật được. Nếu ngươi nói ngồi là thiền thì ngươi đã hại thiền, ngồi là Phật là ngươi đã giết Phật…”
Chúng tôi xin giải thích tại sao Tổ Hoài Nhượng trả lời như vậy. Thiền là một danh từ, theo tiếng Phạn nói đủ là Thiền-na, Trung Hoa dịch là “định tuệ đẳng trì”, tức là một phương pháp gìn giữ bình đẳng giữa định và tuệ. Tại sao? Bởi vì trước có danh từ chuyên môn Xa-ma-tha Trung Hoa dịch là Chỉ, Tam-ma-bát-đề Trung Hoa dịch là Quán. Rồi tới danh từ thứ ba là Thiền-na tức là định tuệ đẳng trì, là Chỉ và Quán đồng tu. Thế nên nói Thiền tức là nói một phương pháp tu gồm cả Chỉ và Quán. Chỉ là định, Quán là tuệ, tức là định tuệ đồng tu.
Thường thường chúng ta nghe nói Giới Định Tuệ, thì tuệ sau định. Nhưng trong Thiền tông trái lại tuệ rồi mới định. Tại sao vậy? Bởi vì trong nhà thiền chủ trương rằng “Kiến tánh mới khởi tu”, kiến tánh tức là trí tuệ, mới khởi tu tức là an định. Song đây cũng là một lối nói, sự thật thiền là một phương pháp gìn giữ cả định và tuệ đồng thời. Như vậy nếu chờ ngồi mới gọi là định tuệ thì khi đi đứng không có định tuệ sao? Nếu chờ đến ngồi mới có định tuệ thì lối tu ấy quá sơ sót, quá lơi lỏng. Đúng ra tu thì mọi hành động trong mọi thời gian đều là tu, đi đứng nằm ngồi đều sống với định tuệ. Cho nên trong nhà thiền thường nói: đốn củi, hái rau, thổi cơm, gánh nước cũng là thiền, như vậy mới là biết tu thiền. Đợi tới ngồi ngay thẳng mới là tu thiền thì một ngày chỉ tu một giờ hai giờ, còn mười giờ kia làm gì? Nếu một ngày tu có hai tiếng thì thấm vào đâu? Cho nên nếu biết tu thiền thì suốt mười hai giờ đều là giờ của mình tu. Đợi ngồi mới thiền tức là giết thiền rồi. Phật cũng vậy, quí vị thấy Phật ngồi hoài hay là Phật có khi đi, khi đứng, khi ngồi, khi nằm? Nếu ngồi mới là Phật thì đứng là ai, nằm là ai? Nếu nói ngồi là Phật thì đứng không phải là Phật, và nằm không phải là Phật. Nhưng Phật có lúc nào không phải là Phật đâu? Nếu chấp ngồi mới là Phật thì đã giết Phật. Vì vậy chấp ngồi là Phật là chấp sai lầm.
Trở lại câu chuyện trên, vị Tăng ngồi thiền đó là ngài Đạo Nhất, sau này gọi là Mã Tổ Đạo Nhất, một Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa. Ngài thắc mắc câu trả lời của Tổ Hoài Nhượng nên hỏi: “Thưa Ngài, thế thì làm sao mới đúng?” Tổ trả lời: “Ví như con trâu kéo xe, nếu chiếc xe không đi, đánh trâu là phải hay đánh xe là phải?” Thưa quí vị, xe không đi thì đánh cái gì? Không ai dại gì mà đánh xe cho xe đi. Một ví dụ gần hơn, như hiện giờ chúng ta ngồi trên chiếc xe ô tô đang đậu, chúng ta muốn chiếc xe chạy thì phải làm sao? Thúc ông tài xế hay là thúc chiếc xe? Tức nhiên phải thúc ông tài xế xe mới chạy, nếu thúc chiếc xe thì nó không bao giờ chạy. Như vậy ông tài xế là chủ động của chiếc xe, con trâu là chủ động của chiếc xe. Muốn chiếc xe đi thì phải nhắm vào cái chủ động mà thúc, chớ không ai nhắm vào cái bị động mà thúc. Trong ba nghiệp thân, khẩu, ý thì ý là chủ động. Chúng ta muốn tu thì phải tu cái ý. Nếu ngồi ngay thẳng, nhiếp phục thân mà ý cứ chạy đông tây thì đâu phải là đúng phương pháp nhiếp phục. Cho nên muốn điều phục được ba nghiệp thì phải nhắm thẳng vào ý nghiệp. Ý nghiệp dừng rồi thì thân, miệng tự nhiên tốt. Nếu ý nghiệp không dừng thì dù cho kềm thân, miệng đến đâu cũng sanh ra những việc lôi thôi. Vì vậy tất cả pháp tu của nhà Phật đều nhắm thẳng vào việc dừng ý nghiệp. Cho nên làm cái gì cũng bảo đừng vọng tưởng, tụng kinh đừng vọng tưởng, trì chú đừng vọng tưởng, niệm Phật đừng vọng tưởng, tọa thiền cũng đừng vọng tưởng. Chung qui đều nhắm thẳng vào cái chủ động để dẹp nó.
Làm sao dẹp cái chủ động đó? Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Quốc chín năm ngồi quay mặt vào vách ở Thiếu Lâm. Sau này có ngài Thần Quang đến hỏi đạo, được thu nhận làm đồ đệ, và được đổi tên là Huệ Khả. Một hôm Huệ Khả bạch với Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Bạch Hòa thượng, tâm con không an, nhờ Hòa thượng dạy con phương pháp an tâm.” Đây là chúng tôi muốn nói thẳng vào đạo sĩ chấp tâm. Tất cả chúng ta nếu biết tu thì người nào cũng khổ sở về chỗ tâm không an. Tụng kinh, niệm Phật, trì chú gì tâm cũng bất an. Giờ đây làm sao mà an tâm? Khi xưa chính Tổ Huệ Khả ngồi thiền quên ăn quên ngủ mà tâm vẫn không an. Vì vậy khi được thu làm đồ đệ, câu hỏi đầu tiên và có thể là quan trọng nhất của đời Ngài là cầu xin “phương pháp an tâm”. Làm sao học được phương pháp an tâm, đó mới là an ổn, đó mới là cái chủ yếu của Ngài nhắm. Ngài hỏi với một lòng thiết tha như vậy, mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ trả lời: “Đem tâm ra ta an cho.” Nhưng ngài Huệ Khả đâu dám xem thường. Lâu nay mình nói tâm không an, hiện nay tìm lại xem nó ở đâu. Tìm tới tìm lui, tìm hoài nó mất tăm mất dạng, Ngài đành trả lời: “Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.” Tổ Bồ-đề-đạt-ma chỉ nói một câu nhẹ: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Liền đó Tổ Huệ Khả ngộ được phương pháp an tâm.
Như vậy ai đọc lịch sử Thiền tông đến chỗ này, thấy nó lạ lùng bí mật làm sao! Tại sao tâm ngài Huệ Khả đang bị xao xuyến loạn động, Ngài thành thật thiết tha cầu Tổ dạy cho phương pháp an tâm, Tổ không chịu dạy, chỉ bảo: “đem tâm ra ta an cho”. Ngài tìm mãi không được, nói: “con tìm tâm không được”, thì Tổ bảo: “ta đã an tâm cho ngươi rồi”. Ngài Huệ Khả liền ngộ. Vậy ngộ tại chỗ nào? Hiện nay nghe như vậy chúng ta có ngộ chưa? Chúng ta nghe thì ngẩn ngơ không biết Tổ nói cái gì. Thế thì câu nói: “ta đã an tâm cho ngươi rồi” là câu nói đùa hay là câu nói thật? Ngài đã nói tìm tâm không được, tại sao Tổ bảo “ta đã an tâm cho ngươi rồi”? Thật tình ai nghe câu nói này, đều không hiểu chi hết. Nhưng từ ngày Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền Thiền tông vào Trung Hoa đến nay gần hai ngàn năm rồi, câu nói đó vẫn là câu nói bất hủ. Nhưng người thường đọc thì thấy lạ đời, như là câu nói vô nghĩa. Trước khi giải thích, chúng tôi dẫn một câu chuyện khác ở trong kinh để quí vị khám phá từ từ về câu nói đó.
Trong kinh Lăng Nghiêm có một đoạn đức Phật dùng ví dụ: Một sáng nọ có anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa đứng trước mặt gương nhìn vào, thấy đầu mặt của anh hiện rõ trong gương; một lát úp mặt gương lại anh thấy đầu mặt mất, hốt hoảng điên lên ôm đầu chạy la: Tôi mất đầu, tôi mất đầu! Chúng ta nghe Phật thuật câu chuyện đó có lý hay vô lý, chúng ta có điên như anh chàng đó hay không? Ví dụ này mới nghe qua dường như ngớ ngẩn, không gần với thực tế, nhưng thật sự là thực tế một trăm phần trăm. Tại sao vậy? Tất cả chúng ta hiện giờ đều là hiện thân của chàng Diễn-nhã-đạt-đa ôm đầu chạy la mình mất đầu. Tại sao? Sở dĩ Diễn-nhã-đạt-đa điên là vì nhận lầm cái bóng đầu và mặt trong gương là thật đầu mặt của chính mình. Bởi nhận lầm như vậy nên khi mất cái bóng ấy thì hoảng hốt điên lên, la mình mất đầu. Nếu anh chàng đó biết rõ bóng trong gương chỉ là bóng thôi thì anh có điên không? Cũng như tất cả chúng ta khi nhìn vào gương thấy đầu mặt mình trong gương, biết cái đó là bóng thì khi bóng mất mình có điên bao giờ đâu? Sở dĩ anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa điên lên là vì cho đầu mặt trong gương là thật, bởi tưởng là thật cho nên khi mất hoảng la lên thành điên.
Cũng như vậy, giả sử chúng tôi hỏi cái gì là tâm của quí vị, quí vị sẽ trả lời làm sao? Quí vị thường nói tâm tôi suy nghĩ, tâm tôi phán đoán. Vậy có phải cái suy nghĩ, cái phán đoán, cái tính toán v.v… là tâm của mình hay không? Ở đây chúng tôi hỏi, quí vị có thể lắc đầu. Nhưng khi ra về nói chuyện với nhau, quí vị sẽ bảo tâm tôi nghĩ thế này, tâm tôi nghĩ thế kia. Quí vị chấp nhận cái nghĩ đó là tâm của mình một trăm phần trăm. Nó là tâm mình, nó phải thật vì mình là thật. Nhưng tại sao khi tìm lại thì không thấy nó? Nếu nó không thật thì làm sao nói nó là mình được? Trong bài giảng hôm nay, chính chỗ này khó thật là khó, nếu quí vị chịu khó nghe thì sẽ có giá trị vô cùng. Đây là một vấn đề hết sức là khó, không phải thật bản chất nó khó, mà vì cái mê lầm của mình quá sâu dày cho nên chúng ta nghe không thâu vào được. Như vậy cái mà chúng ta chấp nhận là tâm mình hoàn toàn là cái suy nghĩ phân biệt. Trong kinh Lăng Nghiêm, chính ngài A-nan thuở xưa cũng nói như vậy. Phật hỏi: “Cái gì là tâm của ngươi?” Ngài thưa: “Chính cái hay suy nghĩ là tâm của con.” Ngài bị Phật quở, Phật bác luôn bảy chỗ chỉ tâm của Ngài.
Chúng ta hiện nay cũng như thế. Ngay chính Tổ Huệ Khả cũng cho cái suy nghĩ là tâm của mình. Vì vậy Tổ Bồ-đề-đạt-ma không cần dạy, chỉ bảo “đem tâm ra, ta an cho”. Nếu thật là tâm ông thì ông cứ đưa ra đây. Nhưng khi tìm nó, thì mất tiêu không bóng không hình. Đã không bóng không hình thì làm sao đưa ra được. Tổ bảo: “Ta đã an tâm cho ngươi rồi.” Ngài Huệ Khả liền ngộ. Quí vị có thấy con đường của Tổ Huệ Khả ngộ pháp an tâm chưa? Vì cho bóng là mình, cho nên chúng ta mới điên cuồng, nếu biết bóng là bóng, không thật, thì điên cuồng tự hết. Nếu chúng ta chấp nhận vọng tưởng là tâm của mình thật, nó dẫn chúng ta chạy từ nơi này đến nơi khác. Nếu biết rõ vọng tưởng không phải là tâm của mình thật, chỉ là bóng dáng của sáu trần thì nó hết khả năng lôi cuốn mình. Như vậy không phải an tâm là gì? Nói là phương pháp an tâm mà thật không phương pháp chi hết, chỉ là nhìn đúng lẽ thật, biết đúng lẽ thật thì chúng ta đã an tâm rồi.
Lâu nay chúng ta nhận lầm kẻ giặc làm con, nên nó phá hết sự nghiệp khiến chúng ta đau khổ. Giờ đây chúng ta biết nó là giặc, không lầm nữa thì nó còn hại gì mình được đâu. Vọng tưởng vừa dấy lên, chúng ta biết nó là hư giả, không thật thì nó tự an liền, không cần phải đè dẹp. Như vậy an tâm mà không có phương pháp chi hết. Sở dĩ lâu nay chúng ta dùng phương pháp này đè, dùng phương pháp kia dẹp, mà vọng tưởng cứ bừng dậy hoài tại vì chúng ta thấy nó là thật. Cũng như đứa giặc, đứa trộm mà chúng ta tưởng nó là con ruột của mình, cho nên hôm nay chúng ta mất vật này, ngày mai mất vật khác, rồi chúng ta rầy nó. Nghĩa là ngày nào còn chứa kẻ trộm ở trong nhà là ngày đó chúng ta còn bị mất đồ, bị khổ sở. Chỉ cần biết nó là kẻ trộm, đuổi ra khỏi nhà thì tự nhiên hết mất đồ, hết khổ sở. Chỉ chừng ấy việc quí vị thấy tu có khó không? Chỉ cần nhận đúng lẽ thật, biết rõ mặt thật của vọng tưởng, chúng ta đã biết tu rồi.
Theo Duy thức học, những vọng tưởng dấy lên chỉ là bóng dáng của sáu trần. Ví như chúng ta đang ở nhà, có một người khách đến thăm. Sau câu chuyện khoảng nửa tiếng đồng hồ, người khách ra về, chúng ta hoàn toàn không có một ý nghĩ nào dính dấp đến người đó hay không? Hay là hình ảnh ngôn từ của người khách vẫn còn vãng lai trong tâm mình? Cái vãng lai đó là gì? Tức là bóng dáng của sáu trần, mình thấy nghe khi nãy, còn rơi rớt lại trong tâm mình. Cho nên danh từ chuyên môn trong Duy thức học gọi đó là “lạc tạ ảnh tử”, tức là bóng dáng của sáu trần rơi rớt lại trong Tàng thức của mình.
Cũng vậy, chúng ta học các lý thuyết cho thật nhiều, nhồi chúng lại thành khối, liền bảo chúng tôi có kiến thức này. Thật sự đó chỉ là vay mượn bên ngoài đem vào, tự cho rằng chúng tôi khôn, chúng tôi hay, mà không có can đảm loại bỏ nó ra. Chứa chấp những cái bên ngoài như vậy, nói là mình, tức là nhận giặc làm con,  để rồi nó lôi dẫn mình chạy không bao giờ ngừng được. Nếu biết rõ những vọng tưởng là giặc, không phải là mình thì khi chúng vừa dấy lên, chúng ta nhất quyết từ chối không theo, các vọng tưởng ấy tự nó hết. Đó là một lối tu hết sức đơn giản không khổ nhọc gì, chỉ cần nhận đúng như vậy là đã biết tu thiền rồi. Khi chúng ta quét sân hay rửa chén, một ý nghĩ vừa dấy lên, biết nó là bóng dáng, bỏ ngay không theo nó, đó là tu thiền ngay khi quét sân rửa chén, không đợi tới giờ ngồi thiền mới gọi là tu thiền. Thế nên tu thiền lúc nào cũng được, không đợi tới thời khóa tụng kinh, niệm Phật mới tu. Giờ phút nào, ở nơi nào cũng gọi là tu, nếu chúng ta luôn nhận đúng lẽ thật, đừng bị lầm lẫn; lầm lẫn là vô minh, biết được lẽ thật là trí tuệ. Dùng trí tuệ Bát-nhã, thấy các vọng tưởng không thật, thấy chúng là không, tìm lại không được; thấy vọng tưởng là không thì tự nhiên vọng tưởng lặng, như vậy không phải “vào cửa Không” là gì? Tổ Huệ Khả nhân đó tỉnh ngộ nên Ngài được vào cửa. Chúng ta hiện nay cứ chấp vọng tưởng là mình nên đứng ở ngoài, vào “cửa Không” chưa được.
Giờ đây chúng tôi xin nói đến Tổ Huệ Năng. Chắc chúng ta không ai quên bài kệ của ngài Thần Tú và bài kệ của Tổ Huệ Năng. Ngũ Tổ thấy cần có người thay mình để hóa đạo nên tuyên bố trong chúng: “Mỗi người phải làm bài kệ trình kiến giải, người nào xứng đáng thì sẽ được truyền y bát để làm Tổ thứ sáu thay ta hoằng hóa.” Khi ấy ở trong hội của Ngũ Tổ có ngài Thần Tú là Giáo thọ sư của năm trăm Tăng chúng, và có một vị cư sĩ là Tổ Huệ Năng đang làm việc nặng ở nhà sau, ít người để ý tới. Toàn chúng đồng ý chỉ có ngài Thần Tú là đủ khả năng làm kệ trình để làm Tổ thứ sáu, không nghi ngờ gì nữa, chuyện này hết sức là hợp lý. Ngài Thần Tú gặp hoàn cảnh bất khả kháng, không thể nào trốn tránh được, nên buộc lòng Ngài phải cố gắng làm kệ. Thao thức mấy đêm mới làm xong bài kệ, nhưng Ngài chưa tin mình nên không dám trực tiếp trình kệ với Ngũ Tổ. Ngài nghĩ: “Ngoài hành lang có một khoảng tường trống, ta nên đem kệ ra viết ở đó. Ngũ Tổ thấy bài kệ thì Ngài đọc, nếu khen bài kệ hay ta sẽ ra đảnh lễ Ngài, nếu bài kệ không ra gì ta tránh luôn để khỏi mất mặt với Tăng chúng.” Suy nghĩ xong, đang đêm Thần Tú đem bài kệ viết lên tường. Sáng ngày, Ngũ Tổ đi ra, mời ông thợ vẽ đến khoảng tường trống để vẽ họa đồ của chư Tổ. Ngài nhìn thấy bài kệ, biết là của Thần Tú. Bài kệ như sau:
Thân thị bồ-đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai.
Thật là hay vô cùng, có phải không? Vì nghĩa của bài kệ là:
Thân là cây bồ-đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để dính bụi bặm.

Bài kệ như vậy không ai chê được. Nhưng Ngũ Tổ xem rồi Ngài biết chưa vào cửa. Ngài đã ngầm biết người nào sẽ được vào cửa, nhưng Ngài chưa dám nói vì sợ chúng nghi ngờ ganh tị. Muốn đánh lạc hướng đồ đệ, Ngài khen: “Bài kệ này hay quá, nên thắp hương đảnh lễ và học thuộc bài kệ sẽ có phước vô cùng.” Chúng đồng thắp hương đảnh lễ và học thuộc bài kệ. Ngài Thần Tú rất hài lòng. Ngũ Tổ hỏi: “Phải ông làm bài kệ đó không?” - “Dạ thưa con, nhưng con làm kệ mà không dám mong làm Tổ, chỉ mong Hòa thượng chứng minh cho.” Ngũ Tổ nói riêng: “Ông chưa vào cửa được, ông trở về làm bài kệ khác trình ta xem.” Ngài Thần Tú ngẩn ngơ toát mồ hôi, làm bài kệ mấy đêm mà bị chê là chưa vào cửa được thì Ngài còn lòng dạ nào làm bài kệ khác nữa. Thật là đau khổ, Ngài làm thầy dạy chúng mà không vào cửa nổi. Nhưng vì Ngũ Tổ đánh lạc hướng cho nên cả chúng ai cũng thuộc lòng bài kệ. Một ông Điệu nhỏ cũng học thuộc lòng và đi đâu cũng lẩm nhẩm đọc bài kệ đó. Khi đi ngang qua ngài Huệ Năng, lúc bấy giờ Ngài đang giã gạo, ông Điệu đọc lại bài kệ, ngài Huệ Năng hỏi: “Sư huynh đọc cái gì đó?” - “Ông không biết sao? Thượng tọa Thần Tú trình kệ với Ngũ Tổ, bài kệ hay lắm.” - “Xin Sư huynh đọc lại cho tôi nghe.” Ông Điệu đọc lại. Ngài Huệ Năng nói tiếp: “Thôi nhờ huynh dẫn tôi lên chỗ bài kệ để tôi xem.” Lúc lên đến nơi, Ngài nói không biết chữ, nhờ đọc lại cho Ngài nghe. Khi ấy có ông quan Biệt giá cũng xem bài kệ đó, ông lớn tiếng đọc cho ngài Huệ Năng nghe. Nghe xong, Ngài nói: “Tôi cũng có một bài kệ.” Tất cả đều ngạc nhiên mà chính ông Biệt giá cũng ngạc nhiên, vì người quê dốt thì làm sao có kệ được. Nhưng ông cũng bằng lòng nghe và nhận viết giùm bài kệ lên vách. Ngài Huệ Năng không có bài kệ nào khác hơn, chỉ đổi lại bài kệ của ngài Thần Tú như sau:
Bồ-đề bổn vô thọ
Minh cảnh  diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai?
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi bặm?

Nghĩa như vầy: Bồ-đề là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Giác. Tánh giác không có hình tướng cho nên nó vốn không cây. Gương sáng không cần ở cái đài vì tự bản chất nó sáng rỡ rồi, đó là dẹp luôn cái đài. Tánh Bồ-đề xưa nay không hình tướng, vốn không một vật thì chỗ nào dính bụi bặm mà phải lau chùi?
Chúng tôi sẽ giải thích hai bài kệ trên, người đứng ngoài cửa và người vào cửa khác nhau ở chỗ nào? Trong bài kệ của ngài Thần Tú, câu đầu: Thân thị bồ-đề thọ: Thân là cây bồ-đề; Ngài cụ thể hóa tánh Bồ-đề là thân, là một hình tướng, cây bồ-đề là một hình tướng, văn thì hay thật mà toàn là hình thức. Tâm như minh cảnh đài: Tâm là đài gương sáng; tâm nguyên nó là tri giác mà nói là đài gương tức cũng là hình thức, và cái đài cũng là hình thức. Thời thời cần phất thức: Luôn luôn phải lau chùi; muốn lau chùi thì phải vừa có gương vừa có khăn lau, đó cũng là hình thức. Vật sử nhạ trần ai: Chớ để dính bụi bặm; bụi và gương lại là hình thức nữa. Như vậy toàn là tu trên hình thức, chưa vào được cửa Không. Công phu thì khá nhiều mà chưa vào được đạo. Nếu căn cứ trên hình thức thì tu trên tướng sanh diệt, làm sao đến được chỗ vô sanh? Vì vậy nghe bài kệ đó, ngài Huệ Năng biết chưa vào cửa, cho nên mới làm bài kệ dẹp hết bao nhiêu hình tướng để đối chiếu lại.
Bồ-đề bổn vô thọ: Tánh giác đâu phải là hình thức thì đâu phải là cây. Minh cảnh diệc phi đài: Tâm ví như gương sáng không cần ở cái đài, tức là hình thức cái đài cũng bị dẹp. Đối lại với câu: “thời thời cần phất thức”, Ngài nói: “bản lai vô nhất vật”, thể không tướng mạo là vật gì, cái gì dính mà lau chùi? Hà xứ nhạ trần ai: chỗ nào dính bụi bặm. Như vậy ngài Huệ Năng thấy rõ Bản tâm vô tướng, hằng giác. Bản tâm vô tướng tức là Bồ-đề. Ngài đã thấy rõ như vậy, không vào cửa được là gì? Cho nên khi Ngũ Tổ thấy bài kệ ấy, Ngài biết rõ người vào cửa được. Nhưng muốn đánh lạc hướng chúng, Ngài lấy dép xóa bài kệ bảo: “bài kệ này cũng chưa được” để mọi người khỏi xôn xao. Nhưng đến tối, Ngũ Tổ gọi ngài Huệ Năng vào thất đóng kín cửa lại và giảng kinh Kim Cang cho Ngài nghe, Ngài ngộ đạo và được truyền y bát.
Như vậy Bồ-đề là Tánh giác, tâm là cái liễu liễu thường tri của chính mình, cái ấy không tướng mạo. Tổ Huệ Khả tìm tâm không thấy hình ảnh, đó là an tâm. Lục Tổ cũng thấy rõ tất cả vọng tưởng đều không thật, không tướng mạo, thể nó là Không. Vì thể là Không nên không bị dính, bị nhiễm. Nếu được Thể tánh Không thì vào được cửa Thiền. Như vậy vào cửa Thiền tức là vào cửa Không. Từ Tổ Huệ Khả đến Tổ Huệ Năng cũng nhân nhận được lý Không đó mà vào cửa thiền. Cho nên nói đến thiền là nói đến lý Không, và cái lý Không đó sâu sắc vô cùng, người đời khó mà thấy được.
Hiện giờ chúng ta tu, muốn cho tâm an chúng ta phải thấy tột cùng lý Không. Nếu chúng ta không thấy tột lý Không thì không bao giờ chúng ta an tâm được. Cần biết vọng tưởng là giả dối, không chấp nhận nó, tự nó mòn giảm dần, không còn lôi cuốn mình được, thế là chúng ta an tâm. Đó là lý Không của ngài Bồ-đề-đạt-ma truyền cho Tổ Huệ Khả, cũng chính là chỗ Ngũ Tổ dẫn Lục Tổ vào cửa thiền.
Để thấy rõ lý Không, chúng tôi xin dẫn một câu trong kinh Kim Cang “quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc”, tức là tâm quá khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được, tâm vị lai không thể được. Thường thường chúng ta dấy niệm là duyên về quá khứ, nghĩ đến kỷ niệm những năm xưa, đó gọi là tâm quá khứ. Tâm hiện tại là suy nghĩ tính toán những việc trong hiện tại. Tâm vị lai là hướng những tưởng tượng vào ngày mai. Như vậy tâm luôn luôn dấy nghĩ về ba thời. Nhưng quá khứ tâm không thể được vì quá khứ là cái đã qua, hiện tại nghĩ lại là nghĩ những bóng dáng không thật. Cái nghĩ duyên theo các bóng dáng không thật đó cũng không thật, cho nên quá khứ tâm không thể được. Hiện tại chúng ta đang suy tính, ví như chúng ta tính phải làm gì trong ngày hôm nay. Chúng ta nghĩ phải làm việc này, phải làm việc kia, cái nghĩ không dừng ở một chỗ, mà cứ đổi thay luôn, nó không thật cho nên hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc, nghĩa là chúng ta tưởng tượng nghĩ ngợi những chuyện sắp đến. Sắp đến là chưa đến, chưa đến là không. Nghĩ trước những chuyện chưa đến, tức là những việc không có. Nghĩa là nghĩ về cái không thì cái nghĩ ấy cũng là không thật. Cho nên kinh nói ba cái tâm ở trong ba thời: tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai đều không thể được, để chúng ta thấy rõ những cái chúng ta gọi là tâm mình, đều không có thật, nghĩa là tâm quá khứ không thật, tâm hiện tại không thật, tâm vị lai không thật. Như vậy không phải “Không” là gì?
Về pháp an tâm Tổ Bồ-đề-đạt-ma không cần giải thích nhiều, mà chỉ nói “đem tâm ra ta an cho”. Nhưng khi tìm lại tâm thì nó mất dạng, nên biết tâm không thật. Như vậy Tổ nói có trái với kinh không? Ngài không cần giảng kinh, chỉ với một câu nói hết sức đơn giản mà thực tế vô cùng, Ngài bắt chúng ta phải dùng trí mà thấy, chớ không cho dùng sức tưởng tượng tầm thường.
Như thế chúng ta thấy khi học đạo, muốn vào cửa thiền phải thấy rõ tâm vọng tưởng không thật, ba thời đều không thật, chỉ là bóng dáng giả dối. Cái bóng dáng giả dối chợt có chợt không đó, là mình thật hay không? Nếu biết nó không là mình thật thì chúng ta đã nhận ra đứa nào là giặc, đứa nào là con rồi. Cái mê cái tỉnh khác nhau ở chỗ này. Ở đây ai ai cũng gật đầu chấp nhận cái suy nghĩ tính toán là kẻ giặc, nhưng khi về đến nhà thì ai cũng nhận là con, thương nó, không tách rời nó được. Đó là cái khó của người tu, khó hiểu, khó tu là ở chỗ đó. Nếu biết rõ nó là giặc, không bao giờ chấp nhận nó, một bề đuổi nó đi thì tự nhiên cái khó sẽ hết. Khi cái xấu biết nó là xấu thì không chấp nhận được rồi, nhưng khi điều tốt điều hay thì sao? Nhất là khi nhớ lại một câu kinh thật chí lý thì làm sao nỡ bỏ, chính cái đó mới thật là khó. Cho nên chúng ta phải hiểu cho thật tường tận, phải thấy rõ cái mà xưa nay chúng ta thừa nhận là tâm chúng ta chỉ là bóng dáng không thật, không phải thật là mình. Nhận được cái giả đó, biết được cái giả đó chúng ta đã tiến tu một bước khá xa rồi. Biết như vậy tức là đã tỉnh giác, biết như vậy là biết bằng Trí tuệ Bát-nhã, là hằng sống với trí tuệ. Nếu quên đi là sống trong vô minh.
]
Hôm qua có đạo hữu hỏi tôi về ý nghĩa lễ sám hối. Như chúng tôi đã giảng về nghiệp, nghiệp là do thân miệng ý tạo nên, thân miệng chỉ là công cụ của ý và ý mới là chủ động. Như trong suốt buổi sám hối chúng ta lạy Phật, tụng kinh là giữ được thân và miệng, mà không dẹp được ý thì làm sao hết tội. Vì vậy trong bài sám hối có bốn câu:
Tội tánh bản không do tâm tạo
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chân sám hối.
Tánh tội vốn không do tâm tạo
Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong
Tội trong tâm diệt thảy đều không
Thế mới thật là chân sám hối.

Nghĩa như sau: Tánh của tội là không, do tâm mình tạo, vì tâm là chủ động. Nếu tâm mình dứt rồi tức là gốc đã bị đốn thì ngọn tự nó ngã. Tội do tâm tạo, mà động cơ tâm đã lặng thì tội còn chỗ nào đứng vững được. Cho nên tâm nếu diệt rồi tội cũng theo đó mà mất. Tội và tâm đã lặng, cả hai đều không, ấy mới gọi là thật sám hối. Vì sám hối mà không còn chủ động tạo tội nữa, mới là chân thật sám hối. Nếu như chúng ta lạy Phật tụng kinh hoài mà chủ động tạo tội cứ được nuôi dưỡng mãi, làm sao thật hết tội được. Chúng tôi giảng như vậy là có chỉ quí vị sám hối chưa? Nếu quí vị biết rõ vọng tưởng thể nó là không thì chúng ta có chân sám hối trong đó rồi. Nhưng chắc quí vị sẽ còn hoang mang, như vậy tội không có sao? Ở trong nhà chùa thường nói câu này: “Thà chấp có bằng núi Tu-di, chớ nên chấp không bằng hạt cải.” Cho nên khi nói tới thiền, đại đa số đều dè dặt lắc đầu, vì nói thiền là nói tới cửa Không, học thiền coi chừng chấp không. Nhưng chúng tôi giảng như vậy là có chấp không chăng?
Chúng tôi đã giảng qua về lý tâm không, giờ chúng tôi nói về lý nghiệp không và sau đó sẽ nói đến cảnh không, để quí vị thấy rõ chữ “Không” trong đạo Phật. Hiện nay xin hỏi quí vị, tội có hay là không? Nếu tội từ tâm tạo, khi tâm dứt rồi thì tội cũng theo đó mà dứt. Còn phước cũng từ tâm tạo, khi tâm dứt rồi thì phước còn hay hết? Tội hết thì mình muốn mà phước hết thì mình không ưng. Tại sao lạ vậy? Nếu tội từ tâm tạo, tức động cơ gây tội là tâm, thì tâm là gốc. Nếu gốc hạ rồi thì ngọn phải ngã, dĩ nhiên tội cũng hết. Còn phước cũng từ tâm nghĩ lành tạo ra, nếu tâm nghĩ lành đó lặng thì phước cũng dứt luôn. Như vậy hết tội hết phước thì làm sao tu đây? Đó thật là khó, cho nên lý không này thật hết sức khó giảng. Ai ai cũng hoang mang về lý này. Nhưng tôi xin hỏi quí vị: Nghiệp từ đâu tạo nên? Chính là từ thân miệng ý. Như vậy nghiệp là những hành động, hành động lành gọi là nghiệp lành, hành động dữ gọi là nghiệp dữ. Hành động lành tức thân hoặc miệng nói những lời lành, làm những việc lành, đó là tạo nghiệp lành. Thân và miệng nói lời dữ, làm việc dữ gọi là tạo nghiệp dữ. Lời chúng ta nói ra là thật chăng? Ngôn ngữ phát ra lời, lời hợp lại thành câu, những lời những câu đó nói qua rồi, tìm lại không còn. Nếu chúng thật có thì phải còn hoài, qua rồi không còn, làm sao nói chúng thật được. Hành động của chúng ta cũng vậy. Ví dụ chúng ta làm một động tác gì, động tác đó qua rồi, không dừng lại, không dừng thì làm sao là thật được.
Trong Chứng Đạo Ca Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác nói:
Liễu tức nghiệp chướng bản lai không
Vị liễu ưng tu hoàn túc trái.
Tỏ rồi nghiệp chướng hóa thành không
Chưa tỏ nợ xưa đành trang trải.

Liễu tức là liễu ngộ, người liễu ngộ rồi thì thấy nghiệp chướng xưa nay là không. Vị liễu tức là chưa liễu ngộ thì phải đền lại nợ trước. Hai câu này rất phù hợp với những lời tôi vừa giảng.
Nhưng Thiền sư Hạo Nguyệt nghi ngờ, hỏi Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm rằng: “Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói ‘liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái’ là sao?” Trong lịch sử Thiền tông Tổ Sư Tử ngộ đạo rồi mà bị vua Kế-tân chặt đầu, Tổ Huệ Khả ngộ đạo rồi mà bị chết trong tù, như vậy hai vị đó có liễu hay không? Nếu liễu rồi thì sao lại phải đền nợ? Lẽ ra liễu thì nghiệp chướng bản lai không, mà sao lại bị cắt đầu, sao lại bị bắt giam trong khám rồi chết? Đó là một câu hỏi rất khó trả lời cho ổn được.
Ngài Trường Sa Cảnh Sầm trả lời: “Đại đức chưa hiểu nghiệp chướng.” Hạo Nguyệt hỏi: “Thế nào là nghiệp chướng?” - “Bản lai không.” Nghe câu trả lời như vậy chúng ta có hài lòng chưa? Riêng tôi thì rất hài lòng. Tại sao vậy? Tôi ví dụ, nếu quí vị biết ngôn ngữ thể tánh là không, do duyên hợp tức là hơi và lưỡi mới phát ra thành lời. Như thế chúng ta vô tình phát ra lời gì khiến cho người nghe bất bình tức là chúng ta đã tạo nghiệp dữ rồi. Người nghe đã bất bình thì họ có tha mình đâu. Mình nói lỡ lời để người ta giận thì người ta cũng trả lại lời gì để mình tức. Nếu mình biết thể tánh của ngôn ngữ là không, do duyên hợp giả có, khi bị mắng lại mình đâu nên giận, đâu có phiền, chỉ cười thôi. Biết tánh của ngôn ngữ là không là đã liễu rồi. Như vậy là mình có trả nghiệp hay không? Tuy trả mà không trả, khó là ở chỗ đó. Nếu mình chưa liễu, lỡ nói mích lòng người, bị người mắng lại thì mình đau khổ, thở vắn thở dài. Cái đau khổ ấy là mình chưa liễu vậy.
Cho nên khi vua Kế-tân hỏi Tổ Sư Tử: “Ngài thấy ngũ uẩn đều không chăng”, Tổ đáp: “Tôi thấy ngũ uẩn đều không.” - “Ngài cho tôi cái đầu được chăng?” Tổ bảo: “Ngũ uẩn đã là không, sá gì cái đầu.” Ngài vui vẻ cho cái đầu mà không thấy trả nợ trước, vì Ngài đã liễu rồi. Khi chúng ta nghe nói cho cái đầu liền rùng mình sợ hãi, vì mình chưa liễu nên còn thấy trả nợ trước.
Tổ Huệ Khả cũng vậy, sau khi ngộ đạo, Ngài đi truyền bá chánh pháp. Thời bấy giờ ở Trung Hoa nhằm đời Tùy, Phật giáo đã có lâu rồi, nhưng người tu hành thường nghiên cứu kinh điển, chưa hiểu lý thiền. Đến khi Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa nói lý thiền thì nghe lạ tai, họ chấp nhận không nổi. Sau khi ngộ được yếu chỉ, Tổ Huệ Khả đi truyền bá lý thiền nhưng bị gièm siểm, kết tội là ngoại đạo và bị bắt cầm tù. Ngài bảo còn một chút nợ trước phải trả và vui vẻ vào tù, vì Ngài đã liễu ngộ nghiệp chướng bản lai không, nên trả nợ mà không trả vậy. Nghiệp lành nghiệp dữ có hay không là do chúng ta liễu hay không liễu. Chúng tôi xin dẫn hai câu chuyện sau đây:
Có cư sĩ hỏi Thiền sư Quốc Nhất ở Cảnh Sơn:
- Bạch Hòa thượng có thiên đường không?
Ngài đáp:
- Không.
- Bạch Hòa thượng có địa ngục không?
- Không.
- Bạch Hòa thượng có tội không?
- Không.
- Bạch Hòa thượng có phước không?
- Không.
Với câu hỏi nào Ngài cũng trả lời “không”. Sau này ông cư sĩ đến tìm ngài Trí Tạng Tây Đường, đệ tử của Mã Tổ, và cũng hỏi bao nhiêu câu hỏi đó:
- Bạch Hòa thượng có thiên đường không?
Ngài đáp:
- Có.
- Bạch Hòa thượng có địa ngục không?
- Có.
- Bạch Hòa thượng có tội không?
- Có.
- Bạch Hòa thượng có phước không?
- Có.
Với bao nhiêu câu hỏi đó, hai vị Thiền sư nổi tiếng, một vị bảo không, một vị bảo có, ông cư sĩ hoang mang nên hỏi tiếp ngài Tây Đường:
- Bạch Hòa thượng, Ngài nói như vậy có đúng chưa?
Tây Đường hỏi:
- Trước khi đến đây ông đã hỏi ai rồi?
- Dạ, con đã hỏi Hòa thượng Cảnh Sơn.
- Hòa thượng nói với ông thế nào?
- Con hỏi câu nào Hòa thượng cũng nói không. Tại sao con hỏi Ngài câu nào Ngài cũng nói có hết?
Ngài Tây Đường hỏi lại:
- Hòa thượng Cảnh Sơn có vợ không?
- Dạ không.
- Ông có vợ không?
- Dạ có.
- Hòa thượng Cảnh Sơn không vợ cho nên cái gì Ngài cũng nói không. Ông có vợ nên ta nói cái gì cũng có.
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy câu trả lời “có” hay “không” là tùy nơi người hỏi. Nếu một bề nói không, đó là chấp không. Còn nếu biết tùy người nói có, tùy người nói không, thì không phải là chấp không. Hòa thượng Cảnh Sơn liễu rồi nên Ngài nói tất cả là không, ông cư sĩ chưa liễu nên ngài Tây Đường phải nói với ông là có. Như vậy chúng ta thấy các Thiền sư nói chuyện khó hiểu là vì tùy nơi người chấp mà trả lời.
Câu chuyện thứ hai như sau: Có người đến hỏi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm: “Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh không?” Ngài đáp: “Không.” Ông hỏi tiếp: “Tại sao trong kinh nói ‘tất cả chúng sanh đều có Phật tánh’, mà riêng con chó không có Phật tánh?” Ngài trả lời đơn giản: Vì bị nghiệp thức che đậy cho nên nói không. Con chó không thấy, không biết Phật tánh, tuy có mà cũng như không. Có người khác đến hỏi: “Bạch Hòa thượng, con chó có Phật tánh không?” Ngài đáp: “Có.” Ông ấy lại hỏi: “Đã có Phật tánh, vì sao chui vào đãy da nhơ nhớp như vậy?” Ngài trả lời: “Vì biết mà cố phạm.” Biết là trí tuệ, là Phật tánh, mà không tránh lỗi nên phải đọa làm thú chui vào đãy da. Giá trị của Thiền sư là tùy trình độ của người hỏi, biết trả lời thế nào cho hợp lý đừng để sai lầm.
Như vậy nghiệp đối với người liễu đạo không thật có, cho nên nói bản lai không. Thân là huyễn hóa, vọng tưởng là hư ảo thì nghiệp làm sao thật được, chỉ là duyên hợp giả có, có gì là quan trọng. Đối với người chưa liễu đạo thì thân thật, tâm cũng thật, thì nghiệp làm sao không thật được!
Đến trần cảnh bên ngoài là thật có hay là không? Ví như cái bàn ở trước mặt chúng ta là có hay là không? Với con mắt phàm tục thì cái bàn là thật có, nhưng với con mắt Trí tuệ Bát-nhã thì cái bàn thể tánh là không, do duyên hợp giả có. Như hiện nay chúng tôi đưa bàn tay lên, rồi co năm ngón lại thành nắm tay. Như vậy nắm tay này là có hay là không? Khi chưa co năm ngón lại thì nắm tay không có. Khi năm ngón tay co lại thì gọi đó là nắm tay. Trong nắm tay này phân tích mỗi ngón rời nhau cũng không có nắm tay. Thể của nắm tay là không, do duyên hợp giả có, khi đủ duyên thì hợp, khi thiếu duyên thì tan, không có gì là thật.
Các sự vật ở đời này là như vậy, thể tánh là không, duyên hợp giả có. Như cái bàn này do nhiều miếng gỗ rời rạc hợp lại, đóng đinh vào thành cái bàn. Đó là tướng duyên hợp, còn thể tánh nguyên là không. Như thế từ nắm tay, cái bàn đến tất cả sự vật hiện có hình tướng ở thế gian này, đều là tướng duyên hợp, thể tánh là không. Bởi tánh không, duyên hợp giả có, cho nên kinh Kim Cang nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Phàm tất cả cái gì có hình tướng đều là hư giả, nếu ngay các tướng mà thấy không thật tức là thấy Phật. Nếu thấy rõ như vậy là chúng ta thấy bằng Trí tuệ Bát-nhã. Trí tuệ Bát-nhã tức là giác, giác tức là Phật.
Từ sự vật cho đến thời gian không gian cũng không có cái gì là thật. Về thời gian chúng ta đã đặt ra thời quá khứ, thời hiện tại, thời vị lai. Khái niệm về thời gian được căn cứ trên sự quay của trái đất, rồi phân định ra ngày tháng năm, thời tiết v.v… Như vậy thời gian không có thật, huống nữa là trên thời gian không thật đó lại đặt ra ngày giờ tốt xấu v.v… Trên cái mê thêm một lớp mê khác, trên cái lầm thêm một lớp lầm nữa, thành tập quán quen thuộc ngàn đời không dám bỏ. Cho đến việc gầy dựng gia đình, xây cất nhà cửa cũng phải coi ngày tốt xấu. Nhất là các Phật tử, trước khi làm việc gì cũng đến chùa nhờ thầy cô xem lịch, lựa ngày tốt cho công việc được tốt đẹp. Nhưng thử hỏi có gia đình nào nhờ xem lịch mà được hạnh phúc suốt đời hay không? Có nhà cửa nào nhờ xem lịch mà suốt đời không bị hư hao hay không? Đó rõ ràng là chuyện vô thường ở thế gian. Chúng ta phải gan dạ thấy lẽ thật ấy, dùng trí tuệ mà tìm ra lẽ thật, không nên tin tưởng một cách mù quáng, vì đạo Phật là đạo giác ngộ.
Nói về không gian, như quả địa cầu chúng ta đang ở, có thật hay không? Chúng ta chỉ cần xác định lại: Phàm cái gì có tướng là hư vọng giả dối, do nhân duyên hòa hợp, thể tánh là không. Quả địa cầu này tuy tuổi thọ quá dài, so với tám chín mươi năm tuổi thọ của chúng ta, nhưng có ngày cũng tan hoại. Khi đủ duyên thì hợp lại thành quả địa cầu quay vùn vụt trong hư không, khi hết duyên thì nó tan ra, lúc bấy giờ chúng ta sẽ ở đâu? Biết như vậy rồi chúng ta không còn tham lam giành giật với nhau từng mảnh đất, để gây khổ cho nhau. Khi biết tâm không thật, thân không thật, thời gian không thật, không gian không thật thì chúng ta tranh giành hơn thua nhau để làm gì? Biết như vậy rồi thì tu hành tâm dễ an. Khi tâm vừa duyên cảnh vật, dù xinh đẹp quí báu đến đâu, chúng ta đều biết đó là giả tướng duyên hợp không thật, thì tâm liền thôi dứt, buông xả. Như thế việc tu hành đòi hỏi chúng ta phải có trí tuệ nhận định đúng lẽ thật, thì sẽ không bị trần cảnh lôi cuốn và sai sử.
Trong bài Bát-nhã Tâm Kinh chúng ta tụng hằng ngày, có câu “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”, nghĩa là Bồ-tát Quán Tự Tại khi thực hành sâu Trí tuệ Bát-nhã, Ngài soi thấy thân năm uẩn này Tự tánh là không thì qua hết khổ nạn. Nếu thấy thân năm uẩn là thật thì khi bị nhục mạ, chúng ta sẽ đau khổ. Nếu thấy thân năm uẩn là không thật, thì còn gì khổ nạn. Như vậy tụng Bát-nhã để chiếu soi đúng lẽ thật, chúng ta sẽ vượt qua hết khổ nạn. Ứng dụng Trí tuệ Bát-nhã vào việc tu hành mới độ được mình, độ được người và tất cả chúng sanh. Thế nên Trí tuệ Bát-nhã rất là cần thiết để vào cửa thiền, vào nhà đạo.
Trong kinh Pháp Hoa đức Phật nói: “Vào nhà từ bi, mặc áo nhẫn nhục, ngồi tòa nhất thiết pháp không.” Tòa nhất thiết pháp không là chỗ ngồi vững chắc nhất của đức Phật.
Trong kinh Kim Cang Bát-nhã, khi Bồ-tát làm việc bố thí ba-la-mật, tức là bố thí cứu kính, thì phải tam luân không tịch, nghĩa là ba phần rỗng lặng: người bố thí, kẻ thọ thí và vật bố thí, cả ba thể tánh đều là không. Người bố thí, năm uẩn là không; vật bố thí, do tứ đại duyên hợp, tánh là không. Hằng xét nét nhận định như vậy là bố thí ba-la-mật. Vì thế khi hành Lục độ ba-la-mật: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ, đều phải có Trí tuệ Bát-nhã mới đến cứu kính, sự tu hành mới tiến lên dễ dàng được.
Lý Bát-nhã là một thứ thuốc hiệu nghiệm vô cùng, mà cũng là mối họa to vô kể. Người hiểu lý Bát-nhã không đến nơi thì rơi vào địa ngục nhanh như tên bắn. Như người tu hành vào quán ăn thịt uống rượu, rồi lấy lý Không biện minh cho việc làm của mình, người ấy sẽ đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn. Nếu hiểu lý Không một cách thấu đáo để buông xả vọng tưởng, không chấp vào sự vật, phá được ngã và ngã sở thì lý Bát-nhã là một thần dược lợi ích không lường.
Cùng một đề tài về lý Không. Người biết dùng nó là thuốc, người không biết dùng nó là bệnh. Ngày xưa Tổ Bá Trượng giảng dạy chư Tăng, sau buổi giảng chư Tăng đi tản mát hết, chỉ còn một ông già ngồi lại. Tổ hỏi: “Ông còn chuyện gì nghi ngờ mà không chịu đi?” Ông già thưa: “Bạch Hòa thượng, con không phải là người, con là kiếp hồ ly (chồn). Thuở xưa con làm vị Tăng ở núi này, có Phật tử đến hỏi: ‘người đại tu hành còn rơi vào nhân quả không’, con đáp: ‘không rơi vào nhân quả.’ Do con trả lời ‘không’ nên đọa làm thân chồn năm trăm đời. Nay xin Hòa thượng nói cho con một câu để chuyển kiếp chồn này.” Tổ bảo: “Ông hỏi lại ta đi.” Ông già hỏi: “Người đại tu hành có rơi vào nhân quả không?” Tổ đáp: “Không lầm nhân quả.” Ngay câu nói này ông già đại ngộ, chuyển được kiếp hồ ly.
Tại sao nói “không rơi vào nhân quả” thì đọa làm thân chồn, mà nói “không lầm nhân quả” thì chuyển được kiếp hồ ly? Đối với người thế gian còn mê muội, luật nhân quả là một lẽ thật, không có cái gì có hình tướng mà không từ nhân thành quả. Cho nên nói “không rơi vào nhân quả” là phủ nhận lý nhân quả, tức là phỉ báng Phật, nên đọa làm thân chồn. Đối với người đạt đạo, thấy rõ lý nhân quả, biết thể tánh là không, nhưng duyên hợp giả có. Do đó khi nói “không lầm nhân quả” là thoát được kiếp hồ ly.
Đức Phật chủ trương nhân quả là căn cứ trên sự tướng của vạn vật. Vật có hình tướng cũng do nhân và quả, nghiệp thiện ác cũng do nhân và quả. Nếu chúng ta còn tâm mê thì không thể phủ nhận luật nhân quả được. Chỉ có người ngộ đạo mới không lầm nhân quả. Chúng ta phải đạt được lý Không đó mà không rơi vào chấp không. Vì vậy ngài Qui Sơn, đệ tử Tổ Bá Trượng, nói: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.” Chỗ lý thật tế không dính một mảy bụi, đó là chúng ta dùng trí tuệ thấy rõ Tánh không của tất cả các pháp, các pháp đã không tướng mạo thì chỗ nào mà dính bụi bặm. Nhưng trong cửa muôn hạnh không bỏ một pháp. Vẫn tiếp tục độ chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được độ, vẫn hành hạnh bố thí mà tam luân không tịch, vẫn lạy Phật, tụng kinh mà “năng lễ sở lễ tánh không tịch”. Người năng lễ và đức Phật sở lễ tánh là không lặng, nhưng con đường cảm ứng thì không thể nghĩ lường, nên gọi là chân không mà diệu hữu.
Dùng trí Bát-nhã chiếu soi ngay nơi hình tướng của sự vật, biết thể tánh là không, nên kinh Bát-nhã nói “sắc tức là không”. Ngay nơi tánh không, nhờ duyên hợp giả có sự vật, nên kinh nói “không tức là sắc”. Đó là lý chữ “Không” trong Bát-nhã, không phải cái không trống rỗng.
Hình tướng của sự vật có to có nhỏ, nhưng thể tánh của chúng là không, không to không nhỏ. Cho nên căn cứ vào lý tánh, sự vật không chướng ngại nhau. Vì vậy có câu:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng
Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.
Nghĩa là “cả càn khôn này rút lại bằng mảy lông; mặt trăng, mặt trời nằm trong lòng hột cải”. Trên Tánh không của cái thật to như càn khôn vũ trụ và Tánh không của cái thật nhỏ như sợi lông, chúng không có ngại nhau mà dung thông nhau. To như mặt trời mặt trăng và nhỏ như hạt cải, vì thể tánh là không, nên nói sự vật to nhỏ hàm nhiếp lẫn nhau, không trở ngại. Cho nên người tu thiền phải dùng Trí tuệ Bát-nhã biết lẽ thật cho đến nơi đến chốn.
Thiền sư Duy Tín đời Tống nói rằng: “Trước ba mươi năm tôi thấy núi sông là núi sông, sau gặp thiện tri thức chỉ dạy, tôi thấy núi sông không phải núi sông, và sau ba mươi năm tôi thấy núi sông là núi sông.” Trước khi đến đây nghe giảng, quí vị thấy nhà là nhà, đường là đường, người là người, cái gì cũng thật hết. Đến khi nghe giảng giải, khéo dùng Trí tuệ Bát-nhã thấy thân ngũ uẩn tánh là không, sự vật tánh là không, thì núi không thật là núi, sông không thật là sông. Đến ba mươi năm sau, mới thấy núi sông là núi sông. Bởi vì rõ biết sự vật tánh là không, nên tâm không còn chạy theo cảnh, không còn dùng Trí tuệ Bát-nhã quán chiếu nữa, nên cuối cùng đến chỗ tâm như, cảnh như, thì thấy núi sông là núi sông.
Tổ Lâm Tế nói Tứ liệu giản, trong đó có:
- Thứ nhất là “Đoạt nhân bất đoạt cảnh”. Chỉ buông xả tâm vọng tưởng bên trong, không cần chiếu phá cảnh bên ngoài.
- Thứ hai là “Đoạt cảnh bất đoạt nhân”. Nhìn ra ngoài thấy cảnh vật có tướng mạo đều là hư giả, thể tánh là không nên tâm không nhiễm cảnh.
- Thứ ba là “Nhân cảnh lưỡng câu đoạt”. Cả trong và ngoài thể tánh là không, tướng duyên hợp hư giả nên tâm cảnh đều dẹp hết.
- Thứ tư là “Nhân cảnh câu bất đoạt”. Đến chỗ tâm cảnh như như, không còn dụng tâm quán chiếu để dẹp nữa, thì núi sông là núi sông.
Đó là con đường tu thiền, Tổ đã dạy rõ ràng, mong quí vị hiểu cho thấu đáo để áp dụng vào việc tu hành.
Để kết luận bài giảng hôm nay, chúng tôi đọc bốn câu kệ của ông cư sĩ Bàng Long Uẩn:
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ qui.
Mười phương đồng tụ hội
Mỗi mỗi học vô vi
Đây là trường thi Phật
Tâm không thi đậu về.

Nghĩa là: Mười phương cùng nhóm họp. Mỗi người mỗi người đều học về lý bất sanh bất diệt. Đây là chỗ trường thi làm Phật. Người nào được tâm không là thi đậu, trở về quê hương vinh qui bái Tổ.
Như vậy chúng tôi đã nhiệt  tình dẫn quí vị “Vào Cửa Không” rồi, và chúng tôi sẽ chỉ cho quí vị “Ông Chủ Nhà” hay là “Bản Lai Diện Mục” trong bài giảng thứ ba sắp tới.

CHỈ  ÔNG CHỦ
Hôm nay chúng tôi giảng tiếp đề tài thứ ba “Chỉ Ông Chủ”. Đây là đề tài khó giảng nhất mà cũng khó lãnh hội nhất. Chúng tôi mong quí vị đem hết tinh thần của mình chú ý lắng nghe thật kỹ, và chúng tôi cũng cố gắng dùng mọi phương tiện trình bày, để may ra quí vị có thể lãnh hội được. Được như vậy mới không phí công quí vị đến nghe và không phí công chúng tôi giảng giải.
Chúng tôi xin nhắc lại, chúng ta hiện sống ở đây, ai cũng thường nói “mình làm việc này, mình nghĩ chuyện kia, mình tính việc nọ, hoặc tôi làm cái này, tôi nghĩ cái kia, tôi tính cái nọ v.v…” Nhưng thử hỏi cái tôi hay cái mình là cái gì? Là thân tứ đại này chăng? Thân tứ đại do đất, nước, gió, lửa hợp thành, nó là vô tri. Nếu nói tứ đại là mình thì thật là vô nghĩa. Cái hiểu biết, cái suy nghĩ là mình chăng? Cái hiểu biết, cái suy nghĩ luôn luôn thay đổi từ trạng thái này qua trạng thái khác, không dừng ở một chỗ. Khi tìm lại nó liền mất, không còn hình ảnh, không còn tăm dạng. Thí dụ khi chúng ta nghĩ điều lành, nói tôi nghĩ điều lành, thì cái nghĩ lành đó là tôi, nhưng bất thần nghĩ điều xấu điều ác, thì cái nghĩ xấu ác là ai? Nếu cái nghĩ lành là tôi, cái nghĩ ác cũng là tôi, thì cái tôi rất là hỗn tạp.
Cái nghĩ lành, cái nghĩ ác, luôn luôn thay đổi, nhất là khi tìm lại thì mất bóng mất hình. Như vậy, cái tôi là cái gì? Hằng ngày chúng ta lo các việc, dồn các hành động sống cho cái tôi, sống vì cái tôi, mà rốt cuộc không biết cái tôi là gì, thật là đáng buồn vô cùng. Cho nên hôm nay chúng tôi cố tình chỉ cho quí vị cái tôi chân thật, ẩn náu trong cái không phải là tôi, đó gọi là “Chỉ Ông Chủ”.
Chúng tôi đặt tên đề tài “Chỉ Ông Chủ” có lỗi lầm gì không? Phàm cái gì chỉ được phải có hình tướng, thí dụ như bình hoa ở trước mắt. Bình hoa có hình tướng và ở ngoài nên chúng ta trông thấy được, và mới chỉ được. Còn Ông chủ là cái không hình tướng, lại ở nơi mọi người, không phải ở bên ngoài, chúng tôi dùng ngôn từ “chỉ” là hết sức gượng gạo, đó là đã sai lầm rồi, không phải là chân lý nữa. Nhưng tại sao chúng tôi dùng chữ sai lầm như vậy? Vì đến chỗ tột cùng là chỗ vô ngôn, tức không lời để diễn tả. Nhưng chẳng lẽ vì chỗ vô ngôn đó mà chúng ta lặng thinh, người nghe làm sao lãnh hội được? Cho nên buộc lòng chúng tôi phải nói, mà đã có ngôn từ là đã có sai lầm, nhưng nhờ cái sai lầm đó chúng ta khéo tìm khéo thấy. Chúng tôi nói bên đông quí vị nhìn bên tây mà thấy, đừng nhìn bên đông mà lầm. Chúng tôi nói bên ngoài quí vị phải nhìn bên trong mới thấy. Nếu theo lời nói bên ngoài mà thấy, chắc rằng không bao giờ quí vị thấy được. Đó là điểm cần yếu trong khi quí vị nghe chúng tôi “Chỉ Ông Chủ”.
Tên Ông chủ tại sao có và tên ấy xuất xứ từ đâu? Trước nhất chúng tôi xin dẫn kinh. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói đến danh từ khách trần, Ngài giải thích như sau: “Như trong hư không, mỗi sáng khi mặt trời lên, ánh nắng xuyên qua kẽ hở. Nhìn vào ánh nắng đó, chúng ta thấy những hạt bụi lăng xăng trong hư không. Hư không là chẳng động mà hạt bụi chuyển động, hư không là không sanh diệt mà hạt bụi là tướng sanh diệt. Hạt bụi là trần đối với hư không.” Chữ khách đức Phật nói rằng: “Ví như có người khách đi đường, tạm nghỉ đêm nơi nhà trọ, sáng lại sửa soạn hành lý ra đi. Khách tạm dừng rồi khách ra đi, người không dừng cũng không đi gọi là chủ.” Như vậy khách là người tạm có mặt rồi mất, Ông chủ là người thường xuyên trong nhà. Ý nghĩa hai chữ “chủ” và “khách” cho chúng ta thấy rõ cái gì tạm có rồi mất gọi là khách, cái gì có mãi không mất gọi là chủ. Như vậy danh từ Ông chủ xuất xứ trong kinh Lăng Nghiêm.
Ngoài tên Ông chủ ra, đức Phật hay các Thiền sư còn dùng những tên khác như Phật tánh, Pháp thân, Như Lai tạng, Chân tâm, Trí tuệ Phật, Tri kiến Phật, Bản lai diện mục v.v… tùy chỗ đặt tên nên có rất nhiều tên không thể kể hết. Tại sao các tên chỉ Ông chủ lại quá nhiều như vậy? Bởi vì chính Ông chủ này là cái không tên. Phàm cái gì ta đặt tên được thì cái đó có vị trí cố định, còn cái gì không đặt tên được thì cái đó lại rất nhiều tên. Ví dụ như trong giảng đường này, có một người khách đến nghe giảng, bất thần người ấy đứng lên, tất cả thính giả đều thấy người đó vừa cao, vừa mập, vừa đen v.v… Khi về nhà, thính giả thuật lại: hôm nay có một ông khách đến nghe giảng bỗng đứng lên hỏi. Vì không biết tên ông khách nên có vị nói ông đó cao cao, vị khác không nói ông đó cao mà nói ông đó mập mập, vị khác nữa không nói ông đó mập mà nói ông đó đen v.v… Tại sao người nói cao, người nói mập, người nói đen? Nếu quí vị biết chắc tên ông đó là A thì không phải dùng nhiều tên như vậy. Vì không biết tên nên tùy hình dáng có gì đặc biệt tùy theo chỗ mà đặt tên.
Cũng vậy, Ông chủ này là thể hằng giác chưa bao giờ sanh diệt cho nên gọi là Trí tuệ Phật. Ông chủ này là cái thấy biết thường hằng của mọi chúng sanh nên gọi là Tri kiến Phật. Ông chủ này là cái kho Như Lai nên gọi là Như Lai tàng. Ông chủ này là cái tâm bất sanh bất diệt nên gọi là Chân tâm. Ông chủ này là cái thể không bao giờ đổi thay cho nên gọi là Pháp thân. Ông chủ này là bộ mặt thật sẵn có của tất cả mọi người cho nên gọi là Bản lai diện mục v.v… Do tùy chỗ đặt tên nên có rất nhiều tên để chỉ Ông chủ.
Tuy nói chỉ Ông chủ mà thật ra không thể chỉ được. Trong nhà thiền thường dùng những ngôn từ nói rằng “đập cỏ rắn sợ, vỗ nước cá đau đầu”. Tức là ở dưới hồ chúng ta không thấy cá đâu, nhưng lấy một tấm ván đập trên nước, dội vào cá ở dưới nước nên nó đau đầu. Trong bụi cỏ rắn ở chỗ nào, chúng ta không thấy, nhưng muốn rắn sợ, chúng ta quơ gậy ào trên cỏ, rắn hoảng sợ nên chạy. Như thế tuy không chỉ được mà vẫn có ảnh hưởng, đó là lối chỉ của nhà thiền và của chúng tôi hôm nay.
Chúng tôi xin dẫn vài vị Thiền sư nói về Ông chủ. Đời Đường ở Trung Hoa có Thiền sư Tùng Thẩm (778-897), chúng ta thường gọi là Triệu Châu. Khi ngài Triệu Châu còn là một ông Sa-di đi hành cước, tức là đi tham vấn thiền, ông đến Thiền sư Phổ Nguyện (749-834) ở Nam Tuyền. Ngài Nam Tuyền hỏi: “Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?” Ngài Triệu Châu đáp: “Dạ, con là Sa-di có chủ.” Ngài Nam Tuyền hỏi: “Chủ ở chỗ nào?” Ngài Triệu Châu bèn bước tới gần, khoanh tay cúi đầu nói rằng: “Giữa mùa Đông giá rét, kính chúc Hòa thượng được trăm phước.” Ngài Nam Tuyền gật đầu và cho ngài Triệu Châu vào chúng.
Trường hợp thứ hai là Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch (804-899) tông Qui Ngưỡng. Khi ngài còn là Sa-di, Ngài đến với Tổ Qui Sơn Linh Hựu (771-853). Tổ Qui Sơn hỏi: “Ông là Sa-di có chủ hay Sa-di không chủ?” Ngài thưa: “Dạ, con là Sa-di có chủ.” Tổ hỏi: “Chủ ở đâu?” Đang đứng bên đông, Ngài khoanh tay đi qua bên tây đứng. Ngài Qui Sơn gật đầu cho nhập chúng. Như vậy là Ngài đã chỉ Ông chủ rồi.
Cuối đời Đường có Thiền sư Sư Nhan, huynh đệ với Thiền sư Sư Bị (835-908), Ngài ngồi tu trên tảng đá, thỉnh thoảng tự gọi: “Ông chủ nhân”, rồi Ngài: “Dạ!” Ngài dặn: “Tỉnh, tỉnh, mai mốt đừng để người lừa.” - “Dạ!” Ngài tự gọi tự đáp, rồi tự bảo tỉnh tỉnh đừng để người lừa. Thử hỏi hiện giờ chúng ta có bị người lừa không? Khi chúng ta ngồi thiền, niệm Phật hoặc tụng kinh là cốt để định tâm, tức là sống trở về với Ông chủ của mình. Nhưng khi đang tụng kinh hay ngồi thiền, khách dẫn mình đi lúc nào không hay. Nhớ chuyện hôm qua, ôn chuyện hôm kia, cứ như thế nó lừa gạt mình, dẫn mình đi xa mãi, quên mất Ông chủ lúc nào không hay. Nếu chúng ta luôn luôn tỉnh giác, khi một ý nghĩ vừa dấy lên, biết nó là khách liền buông xả không theo, đó là chúng ta làm chủ, sống với Ông chủ. Chỉ cần tự gọi tự nhắc là một pháp tu suốt năm suốt đời.
Đến phần chỉ thẳng Ông chủ, chúng tôi không phải dùng tay để chỉ, mà dùng những ngôn từ. Qua những ngôn từ lạt lẽo ấy, nếu quí vị khéo nhìn quí vị sẽ thấy Ông chủ của mình. Khi quí vị thấy Ông chủ của mình rồi thì đời tu của quí vị được nhẹ nhàng.
Để chỉ thẳng Ông chủ, chúng tôi xin dẫn kinh Lăng Nghiêm, đức Phật nói “từ nhất tinh minh sanh lục hòa hợp”, là từ một cái trong sáng sanh ra sáu cái hòa hợp. Ví dụ như có cái nhà nhỏ, trong nhà có một ngọn đèn neon đang cháy sáng. Nhà ấy có sáu cửa, mỗi cửa đều mở toang ra. Ban đêm có người đứng ngoài tối muốn biết trong nhà có đèn hay không thì phải nhìn vào các cửa, nếu thấy ánh sáng từ các cửa phát ra là biết bên trong có ngọn đèn. Thật sự chúng ta chưa thấy được ngọn đèn, chỉ thấy được ánh sáng của ngọn đèn phát ra từ sáu cửa. Như vậy chủ yếu của kinh Lăng Nghiêm là đức Phật muốn chỉ Chân tâm hay là Như Lai tạng đã có sẵn nơi mọi người chúng ta. Theo danh từ chuyên môn gọi đó là “nhất tinh minh sanh ra sáu hòa hợp”, tức là sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Nơi mắt tai mũi lưỡi thân ý đều có mang ánh sáng của cái tinh minh đó, mà chúng ta không thấy, hoặc chúng ta không thấy đúng lẽ thật. Đức Phật muốn chỉ cho Tôn giả A-nan và toàn chúng biết nơi sáu căn đã có ánh sáng của tinh minh đó, nên Ngài đưa tay lên xòe ra nắm lại, xòe ra nắm lại, hỏi A-nan: “Ông có thấy không?” A-nan thưa: “Dạ thấy.” Phật hỏi: “Ông thấy cái gì?” A-nan thưa: “Con thấy tay Thế Tôn đưa lên xòe ra nắm lại.” Phật hỏi: “Như vậy tay ta động hay cái thấy của ông động?” A-nan trả lời: “Tay của Phật động, cái thấy của con không có tịnh huống nữa là động.” Thấy là thấy, không có tịnh, không có động. Trong ví dụ khách và trần, trần là cái lao xao trong ánh nắng, còn hư không là cái an tịnh lặng lẽ. Cái lao xao khi có khi không, hư không không có đổi thay. Hạt bụi lao xao trong hư không, hạt bụi là sanh diệt, hư không là không sanh diệt. Như thế tay Phật đưa lên là tượng trưng cho ngoại cảnh, ngoại cảnh có động tịnh, động tịnh là cái sanh diệt. Cái thấy của ngài A-nan không có tịnh huống nữa là động, làm sao nói sanh diệt được. Hiện giờ quí vị có cái thấy ấy hay không? Như thế lo gì chúng ta không có Ông chủ. Ví dụ chúng tôi chỉ bình hoa, hỏi quí vị thấy không, quí vị trả lời: thấy. Nếu chúng tôi dẹp bình hoa chỗ khác, thì quí vị trả lời: không. Chúng tôi xin nhắc lại cái lầm lẫn của chúng ta. Có bình hoa quí vị thấy bình hoa, bình hoa là vật ở bên ngoài mình, còn cái thấy là cái gì? Nó có ở bên ngoài mình không? Như vậy tại sao có bình hoa quí vị gọi là có thấy, không bình hoa quí vị gọi là không thấy? Như thế cái thấy của quí vị đã bị lệ thuộc vào bình hoa rồi, tức là quên mình theo vật, không nhớ mình mà chỉ nhớ có vật thôi. Vì thế chúng ta mất mình, mất mình một cách đáng thương. Tất cả chúng ta đều như vậy, nghĩa là có bình hoa là có thấy, dẹp bình hoa mất đi gọi là không thấy. Cái thấy là cái hay thấy của mình, còn bình hoa là cái hình tướng bị thấy ở bên ngoài, khi có khi không. Cái thấy hằng nhiên, không bao giờ sanh diệt. Tại sao chúng ta đồng hóa cái thấy thành bình hoa? Vì vậy chúng ta quên mình chạy theo cái giả tướng bên ngoài. Có tướng bên ngoài gọi là thấy, là “mình”, không có tướng gọi là không thấy, “không mình”, quả thật đã mất mình rồi. Đó là khuyết điểm lớn lao của tất cả chúng ta.
Sau ví dụ xòe nắm tay, đức Phật lại dùng hào quang phóng qua bên trái ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên trái, Phật phóng hào quang bên mặt ngài A-nan, Ngài xoay đầu ngó qua bên mặt. Phật hỏi A-nan: “Tại sao cái đầu của ông hôm nay lay động vậy?” Ngài A-nan thưa: “Con nhìn hào quang của Phật phóng qua bên trái, bên phải con, nên đầu con xoay qua xoay lại.” Phật hỏi: “Như vậy cái đầu của ông lay động hay cái thấy của ông lay động?” Ngài A-nan thưa: “Cái đầu của con lay động, cái thấy của con không lay động.” Cái đầu tượng trưng cho thân, thân mình là cái động, vì động nên sanh diệt. Cái thấy là cái không động, không động nên không sanh diệt. Quí vị nhận mình có cái thấy không sanh diệt hay không? Thế thì mình lo gì không có Ông chủ. Đó là giai đoạn thứ nhất chỉ Ông chủ qua cái thấy.
Đến giai đoạn thứ hai cũng để chỉ Ông chủ. Vua Ba-tư-nặc nghe Phật nói mình có cái chưa từng sanh chưa từng diệt, ông nghi nên hỏi Phật: “Tôi nghe chúng ngoại đạo nói chết rồi là hết, tại sao Phật lại nói ngay thân này có cái chưa từng sanh chưa từng diệt?” Phật hỏi thân ông hiện nay là thân sanh diệt hay không sanh diệt, ông thưa: “Thân tôi là thân hoại diệt.” Phật hỏi: “Ông chưa hoại diệt sao ông nói thân ông hoại diệt?” Vua Ba-tư-nặc thưa: “Thân tôi tuy chưa hoại diệt nhưng tôi tự biết thân này hoại diệt từ từ. Khi tôi mười tuổi cho đến hai mươi tuổi thì đổi khác rồi, đến ba mươi tuổi thì già hơn hồi hai mươi tuổi, đến bốn mươi tuổi thì đã già hơn hồi ba mươi tuổi… cho đến hiện giờ tôi đã trên sáu mươi tuổi, nó đã già hơn hồi bốn mươi, năm mươi tuổi rất nhiều. Vì vậy tôi biết thân tôi là tướng hoại diệt.” Phật hỏi: “Ngay nơi thân hoại diệt đó ông có thấy cái gì chưa từng hoại diệt chăng?” Vua Ba-tư-nặc thưa: “Không thấy.” Phật hỏi: “Nhà vua hồi mấy tuổi thấy được sông Hằng?” Vua thưa: “Khi tôi ba tuổi, được mẹ bồng đi yết kiến thần Kỳ-bà-thiên, đã đi qua sông Hằng, và đã thấy được sông Hằng.” Phật hỏi: “Khi ba tuổi thấy sông Hằng, đến khi mười tuổi, hai mươi tuổi thấy sông Hằng, cái thấy có đổi khác không?” Vua thưa: “Cái thấy không có đổi khác.” Phật hỏi: “Từ hai mươi tuổi đến ba mươi, bốn mươi tuổi ông thấy sông Hằng, cái thấy có đổi khác không?” Vua thưa: “Cái thấy không có đổi, cho đến hiện giờ tôi sáu mươi mấy tuổi, cái thấy vẫn như xưa không đổi.” Phật nói: “Ông lo thân ông bị hoại diệt, ngay nơi thân ông có cái chưa bao giờ đổi thay. Cái gì có đổi thay thì cái đó bị hoại diệt. Cái chưa từng đổi thay tại sao lo rằng nó bị hoại diệt, mà ông còn tin rằng thân này chết rồi là hết?” Như thế chúng ta thấy rõ cái Tánh thấy sẵn có nơi mình, cái Tánh thấy ấy không trẻ không già. Nếu cái thấy không già tại sao khi lớn tuổi chúng ta lại mang kiếng lão? Đó là vì bộ phận trong con mắt chúng ta nó cũ nó mờ đi, chớ không phải cái thấy của ta có cũ có mờ, cũng như bóng đèn xài lâu thì hư, chớ điện không có đổi khác.
Đến giai đoạn thứ ba đức Phật chỉ Ông chủ qua Tánh nghe thường trụ. Phật bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông “boong”, rồi hỏi ông A-nan và đại chúng: “Các ông có nghe không?” Đại chúng trả lời: “Có nghe.” Khi tiếng chuông lặng dứt, Phật hỏi: “Có nghe không?” Ông A-nan và đại chúng đều đáp: “Không nghe.” Phật lại hỏi: “Tại sao gọi là nghe, tại sao gọi là không?” Ngài A-nan và đại chúng thưa: “Khi đánh chuông, âm ba vang ra gọi là nghe, khi âm ba bặt hết gọi là không nghe.” Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông nữa rồi hỏi ông A-nan: “Có tiếng không?” Ông A-nan và đại chúng đáp: “Có tiếng.” Giây lâu tiếng chuông im bặt, Phật hỏi: “Có tiếng không?” Ông A-nan và đại chúng đều đáp: “Không tiếng.” Phật lại hỏi: “Tại sao gọi là có tiếng, tại sao gọi là không tiếng?” Ông A-nan và đại chúng đều thưa: “Khi đánh chuông âm ba vang ra gọi là có tiếng, khi âm ba lặng đi gọi là không tiếng.” Đức Phật quở: “Tại sao hôm nay các ông điên đảo lắm vậy?”
Nếu chúng ta trả lời các câu hỏi của Phật như ngài A-nan và đại chúng, thì tất cả chúng ta đều điên đảo mà không hay biết. Vì sao? Vì tiếng thuộc về thanh trần tức là âm ba bên ngoài, còn nghe là cái hay nghe nơi mình, của chính mình. Tiếng và cái nghe, chúng ta đồng hóa là một, không phải điên đảo là gì? Chúng ta hằng ngày sống trong điên đảo, tiếng không biết thuộc về tiếng, nghe không biết thuộc về nghe. Tiếng là cái sanh diệt, có đánh chuông thì có tiếng kêu, cái nghe thì khi có tiếng có nghe, không tiếng vẫn có nghe, vì nếu không nghe làm sao biết là không tiếng, mà nói không nghe.
Chúng tôi xin thuật một câu chuyện sau đây: Tổ thứ mười tám ở Ấn Độ tên Già-da-xá-đa, đang đi hóa đạo, thấy một thanh niên dòng Bà-la-môn là người khí khái, có khả năng đảm đang việc lớn, có thể truyền được chánh pháp sau này. Người thanh niên ấy hỏi Tổ tu theo phái nào, Ngài đáp: “Tôi tu theo Phật giáo.” Vừa nghe như vậy người thanh niên hoảng lên bỏ chạy về nhà đóng sầm cửa lại, núp trong nhà không dám ra. Tổ đuổi theo tới trước cửa nhà, Ngài gọi: “Chủ nhà mở cửa ra!” Người thanh niên ở trong nói vọng ra: “Không có chủ ở nhà.” Tổ hỏi: “Không có chủ ở nhà vậy ai nói đó?” Người thanh niên hoảng sợ mở cửa ra. Ông được Tổ chinh phục, theo làm đồ đệ, sau được truyền Tổ vị. Câu chuyện mình mới nghe thấy như trẻ con, nhưng chúng ta có giống trẻ con như vậy không? Luôn luôn biết thấy, biết nghe, mà hỏi Ông chủ đâu thì không biết. Nếu không có chủ thì ai nói, không có chủ thì ai nghe, không có chủ thì ai thấy? Biết nói, biết thấy, biết nghe mà hỏi Ông chủ đâu thì đáp “không biết, không có Ông chủ”, chẳng khác nào người thanh niên kia vọng ra bảo “chủ không có ở nhà”.
Để chỉ Ông chủ các Thiền sư hay đưa ra câu chuyện sau đây, có một Thiền khách đến hỏi một Thiền sư: “Bạch Ngài, thế nào là Phật?” Thiền sư trả lời: “Cỡi trâu mà tìm trâu.” Chúng ta nghe câu nói đó lạ quá. Hỏi thế nào là Phật, tại sao lại trả lời “cỡi trâu đi tìm trâu”? Nếu chúng ta biết Ông chủ phát ra từ cái thấy, cái nghe, cái nói, cái ngửi, thì đó là Ông chủ cũng là Pháp thân, Phật tánh. Không có cái đó làm sao biết hỏi, làm sao biết thấy, làm sao biết nghe? Nếu không chịu nhận cái đó mà đi tìm Phật ở bên ngoài là cỡi trâu tìm trâu. Mới nghe qua chúng ta tưởng như Thiền sư trả lời lạc đề, không giải nghĩa thế nào là Phật, lại bảo “cỡi trâu tìm trâu”. Bởi vì chính cái biết hỏi đó đã là Phật rồi, nhưng cẩn thận, nhiều khi mình lầm tưởng là Phật, nhận luôn cả phiền não nữa, đó là bệnh.
Khi nói tới Ông chủ, kinh Lăng Nghiêm lúc nào cũng chỉ thẳng Tánh nghe, Tánh thấy v.v… của chính mình đã biểu lộ nơi sáu căn. Như ở trên tôi đã ví dụ, trong căn nhà, có một ngọn đèn neon thắp sáng, ánh sáng xuyên qua các cửa. Nếu nhìn ánh sáng xuyên qua các cửa, chúng ta thấy có ánh sáng hình vuông to, hình vuông nhỏ, có ánh sáng hình dài, có ánh sáng hình tròn v.v… khác nhau. Sự khác nhau ấy do cái gì? Tại ánh sáng hay tại các cửa? Rõ ràng chúng ta thấy ánh sáng không khác, mà có khác là do từ các cửa. Nếu đứng ngay tại cửa mà xây mặt nhìn ra ngoài thì chúng ta thấy tất cả sự vật bên ngoài, không bao giờ thấy được ngọn đèn. Khi nhìn ra chúng ta chỉ thấy hoặc là cây cối vườn tược, hoặc là đường sá xe cộ v.v… Chúng ta toàn thấy những gì qua lại, những gì sai biệt. Nếu chịu khó xây mặt trở vào thì chúng ta không còn thấy cảnh vật ở ngoài nữa mà chúng ta thấy ngọn đèn. Cho nên kinh Đại thừa luôn luôn nói rằng “Hồi đầu thị ngạn”, tức là xoay đầu lại là bờ Niết-bàn. Xoay mặt hướng ra là bờ mê, xoay mặt hướng vô là bến giác. Vì vậy kinh Đại thừa nói xoay ra ngoài gọi là “bối giác hiệp trần”, xoay trở lại là “bối trần hiệp giác”. Chúng ta đứng ở cửa xây mặt ra thì lưng trở vô ngọn đèn, gọi là bối, xây lưng lại ngọn đèn thì thấy toàn là cảnh vật bên ngoài. Nếu lúc chúng ta chịu xây lưng trở ra thì không thấy sự vật bên ngoài mà thấy ngọn đèn sáng. Như vậy bối giác hiệp trần hay bối trần hiệp giác chỉ là cái xây lưng mà thôi, mê hay ngộ chỉ là cái xây lưng lại thôi. Nhưng từ thuở bé đến giờ chúng ta đều xây mặt ra nhìn theo trần cảnh bên ngoài. Hiện nay chúng ta xoay nhìn trở lại mình, nào có khó gì? Cho nên Điều Ngự Giác Hoàng tức là vua Trần Nhân Tông, Tổ thứ nhất của phái Trúc Lâm, khi đồ đệ là Pháp Loa hỏi: “yếu chỉ của sự tu hành là thế nào”, Ngài đáp: “phản quan tự kỷ bổn phận sự”, nghĩa là xoay nhìn lại chính mình, đó là phận sự gốc của người tu.
Rất tiếc tất cả chúng ta đều xây mặt ra, nên muốn tu mà một bề chạy theo ngoài, lễ lạy những hiện tượng lạ bên ngoài, quên mất ông Phật của chính mình. Điều chính yếu là trở lại Tánh giác của mình, tự mình sáng suốt soi rõ sự vật, không phải nhờ người ngoài soi thế cho mình được. Ví dụ có người học rất giỏi rất cao, được cử làm Viện trưởng Viện đại học, ông ký cấp bằng cho những sinh viên đỗ đạt đầy đủ khả năng, ông không thể ký cấp bằng cho các con ông nếu chúng chưa học đến mức, chưa đủ khả năng đỗ đạt. Nếu muốn được cấp bằng cha ký cho, các con ông phải nỗ lực học hành cho đúng mức, và đỗ đạt thành tài. Cũng như vậy, tu là giác ngộ, mà giác ngộ thì trước phải sạch hết bụi bặm phiền não. Nếu bụi bặm phiền não không chịu phủi giũ cho sạch, trí tuệ không mở mang, mà muốn được điểm đạo cho thành Phật ngay, giống như anh học trò không chịu học tập cho đến nơi đến chốn, mà muốn người cha ký cấp bằng cho mình thành Cử nhân Tiến sĩ vậy.
Đa số Phật tử thường yếu đuối biếng nhác, muốn làm việc gì cũng chóng kết quả. Nghe nói tu phải cực khổ, phải bỏ phiền não tam độc, xem như lâu quá. Chỉ tập khí sân thôi mà dứt hoài không được, biết chừng nào thành Phật! Vì muốn được kết quả mau chóng nhờ điểm đạo mà phải lạc vào con đường tà giáo, nguyên do tại yếu đuối và tham lam. Cho nên người tu hành chân chánh phải biết đúng lẽ thật và phải thực hành đúng lẽ thật đó. Học đạo là tìm chân lý, dùng chính trí tuệ của mình để thấy lẽ thật, chớ không nhờ ai bên ngoài điểm đạo cho mình được. Cũng như học là mở mang trí tuệ của mình, đến đúng trình độ thì được phát cấp bằng, học chưa đủ sức mà muốn được cấp bằng sớm, cấp bằng đó chỉ là giả thôi, không có nghĩa lý gì.
Chúng ta tu hành, không nên tham mau, mà phải bền chí, ngày nào cũng gỡ bỏ phiền não, xây mặt ngó vào mình thì tự nhiên con đường giác ngộ sẽ đến với mình. Nếu chúng ta xây mặt trở ra đếm người đếm cảnh, nhìn mặt người đi qua, nhìn mặt kẻ đi lại, nhớ người nhớ cảnh hoài, thì làm sao giác ngộ cho được. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy tầm quan trọng của sự tu. Tu là biết xoay lại, biết trở về con đường giác, tức là bối trần hiệp giác, nghĩa là xây lưng với trần cảnh, trở về với Tánh giác của mình. Ngược lại như chúng ta hiện giờ, là bối giác hiệp trần, nghĩa là xây lưng với Tánh giác, chạy theo trần cảnh, mà muốn thành Phật, thì thành sao được! Chỉ cần một cái xây lưng thôi thật là dễ, nhưng lắm người không chịu xây, chả trách gì chúng ta làm chúng sanh mãi.
Trong kinh Lăng Nghiêm, không riêng đức Phật Thích-ca mà mười phương chư Phật đồng nói cho ngài A-nan và đại chúng nghe rằng: “Chính sáu căn của các ông là gốc của sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn của các ông là gốc của Bồ-đề Niết-bàn.” Tại sao vậy? Cũng trong kinh Lăng Nghiêm có câu “tri kiến lập tri tức vô minh bản, tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn”, nghĩa là thấy biết mà lập thấy biết là gốc của vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây là Niết-bàn. Tại sao? Như chúng ta xây mặt ra ngoài, nhìn người nhìn cảnh, phân biệt hay dở, tốt xấu v.v…, bởi chấp cái phân biệt cảnh vật ấy nên gọi là “tri kiến lập tri”, đó là nguồn gốc của vô minh, tức là quên mình chạy theo cảnh. Khi chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn biết mà không phân biệt tốt xấu hay dở, không thêm một lớp vọng tưởng phân biệt, gọi là “tri kiến vô kiến”, là gốc Bồ-đề Niết-bàn. Như thế Phật chỉ quá rõ ràng, gốc của sanh tử hay gốc của Niết-bàn là ngay nơi sáu căn của mình, không có ở đâu xa xôi.
Chúng tôi xin trích dẫn trong kinh Pháp Hoa, phần chỉ về Ông chủ. Kinh Pháp Hoa được gọi đầy đủ là kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nghĩa là kinh Diệu pháp dụ như hoa sen. Diệu pháp là gì? Trong kinh nói “chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật”. Tất cả chư Phật chớ không riêng gì đức Thích-ca ra đời, đều vì một việc lớn là khai mở và chỉ bày cho chúng ta nhận ra và nhập Tri kiến Phật của chính mình. Tri kiến Phật đó chính là Diệu pháp.
Trong kinh Pháp Hoa, phẩm nổi nhất về chỉ Ông chủ là phẩm Hiện Bảo Tháp, là phẩm Thị Phật Tri Kiến. Trong hội Pháp Hoa, các Bồ-tát và Thánh chúng đang nghe kinh, bất thần có tháp báu ở dưới đất vọt lên và trụ giữa hư không. Trong tháp ấy vang ra tiếng nói của Phật Đa Bảo khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni. Đức Đa Bảo khi xưa có bản nguyện, hội nào có giảng kinh Pháp Hoa thì Ngài đến trong hội đó v.v… Nếu chúng ta không đạt được lý kinh, nghe đến đây sẽ thấy huyền bí thần thoại. Tại sao dưới đất lại vọt lên một tháp bằng bảy báu, trong tháp ấy có Phật Đa Bảo đã chết từ vô số kiếp rồi mà hiện nay còn nói và khen ngợi đức Thích-ca Mâu-ni. Vậy phẩm này chỉ Tri kiến Phật ở chỗ nào?
Chúng tôi xin gỡ từng điểm một để quí vị thấy tầm quan trọng của kinh Pháp Hoa. Quí vị còn nhớ đoạn nói về “vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai” chăng? Nhà Như Lai là lòng từ bi, áo Như Lai là hạnh nhu hòa nhẫn nhục, tòa Như Lai là Nhất thiết pháp không, tức là thấy tất cả pháp, tánh nó là không. Như thế bảo tháp vọt lên lơ lửng trong hư không, không dính với cái gì hết, đó là tượng trưng cho tất cả pháp không. Do vì không dính với sáu trần cho nên mới thấy cái gốc của chính mình, đó là Tri kiến Phật hay là Phật Đa Bảo ngay chính mình, không phải Phật Đa Bảo ở trong tháp báu kia. Phật Đa Bảo là tượng trưng cho Pháp thân, cho Tri kiến Phật. Tháp làm bằng bảy báu, có nghĩa là kim ngân, lưu-ly, xa-cừ, mã não v.v… hay không? Đó chính là thân thất đại của chúng ta. Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật nói chúng ta mang thân thất đại, thất đại là bảy thứ lớn: đất, nước, gió, lửa, không, kiến và thức. Nơi chúng sanh mê lầm gọi là thất đại, khi chúng ta ngộ được Pháp thân rồi, gọi là thất bảo. Cho nên tháp của Phật Đa Bảo bằng thất bảo, tháp của chúng ta bằng thất đại.
Vì sao gọi Phật là Đa Bảo, tức là nhiều báu? Như trong các kinh, khi nói đến chỗ chân thật đều dùng các thứ báu để tượng trưng. Như ví dụ Hệ châu trong kinh Pháp Hoa: Có một anh chàng ăn xin nghèo khổ, gặp được người bạn cho anh hạt châu và cột vào chéo áo cho anh. Vì anh mê uống rượu quên mất hạt châu, nên phải đi xin ăn, lang thang đói khổ. Gặp lại người bạn xưa, chỉ cho hạt châu trong chéo áo, anh lấy hạt châu ra xài và trở nên giàu có.
Ví dụ thứ hai nói về nhà vua có hạt minh châu trong búi tóc, nhà vua thưởng hạt châu đó cho vị tướng tài giỏi nhất đi đánh giặc, thắng trận trở về. Hạt minh châu trong búi tóc là ví dụ cho Tri kiến Phật, còn vị tướng tài giỏi là dụ cho người có khả năng dẹp được các giặc phiền não. Như vậy hạt châu dường như ở ngoài tặng cho mà thật ra là chỉ cái mình có sẵn, tức là Tri kiến Phật hay là Pháp thân của chính mình.
Các Thiền sư cũng thường nói đến của báu ấy. Có vị Thiền sư đến hỏi Hòa thượng Thạch Cựu, đệ tử của Mã Tổ: “Trong tay Bồ-tát Địa Tạng có hạt minh châu, đó là ý nghĩa gì?” Ngài hỏi lại: “Trong tay ông có hạt minh châu không?” Vị Thiền sư thưa: “Con không biết.” Hòa thượng liền nói kệ:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân.
Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Kẻ nhìn gương mất đầu.

Nghĩa là: Mình không biết được kho báu nhà mình, cứ chạy theo những trần cảnh ở bên ngoài. Ví như đang ở giữa trưa trời nắng mà chạy đi trốn bóng, trốn có khỏi không, càng chạy trốn thì bóng càng đuổi theo. Như người xem gương mất đầu, đó là ví dụ trong kinh Lăng Nghiêm: Có chàng Diễn-nhã-đạt-đa, một buổi sáng xem gương, thấy đầu mặt của mình trong gương, úp gương lại không thấy đầu mặt mình đâu nữa, hoảng lên ôm đầu chạy la: “tôi mất đầu!” liền phát điên. Người đi cầu đạo cũng vậy, xin người chỉ dạy đạo cho mình mà không ngờ chính nó đã sẵn nơi mình rồi.
Trong Chứng Đạo Ca, ngài Huyền Giác ở Vĩnh Gia nói:
Ma-ni châu nhân bất thức
Như Lai tàng lý thân thâu đắc
Lục ban thần dụng không bất không
Nhất khỏa viên quang sắc phi sắc.
Ngọc ma-ni, người chẳng biết
Như Lai kho ấy thâu trọn hết
Sáu ban thần dụng không chẳng không
Một điểm viên quang sắc chẳng sắc.

Nghĩa là: Mỗi người có một hạt châu Ma-ni mà không tự biết. Hạt châu Ma-ni còn gọi là hạt châu Như ý, khi có hạt châu đó rồi thì ước muốn điều gì cũng được toại nguyện. Ngay nơi kho Như Lai của mình, chính nơi đó mà nhận. Sáu thứ thần thông mầu nhiệm dường như không mà chẳng phải không. Một viên tròn sáng sắc mà chẳng phải sắc. Đó là để diễn tả hạt châu riêng của mỗi người chúng ta ai cũng sẵn có.
Một câu chuyện khác như sau: Một Thiền khách đến, ngài Pháp Đăng hỏi: “Đầu sào trăm trượng làm sao tiến được?” Thiền khách trả lời: “Câm.” Ngài cứ khán câu đó hoài trong ba năm. Một hôm Ngài cưỡi ngựa đi qua cây cầu ván, ván mục, ngựa sụp chân té nhào, quăng Ngài rơi xuống cầu. Vừa rơi xuống Ngài liền ngộ, nói bài kệ:
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
Cửu bị trần lao quang tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Ta có một viên minh châu
Đã lâu bị bụi vùi sâu
Hôm nay bụi sạch phát sáng
Soi thấu núi sông muôn vật.

Nghĩa là: Ta có một hòn ngọc minh châu. Lâu rồi bị bụi bặm che lấp không thấy. Sáng nay bụi hết, ánh sáng phát ra, soi rõ khắp cả núi sông muôn vật. Như vậy chính chỗ nhận ra được Ông chủ hay là Pháp thân của mình thì luôn luôn ví dụ như được hạt minh châu.
Từ các kinh cho đến các Thiền sư đều dùng hạt minh châu để tượng trưng cho Pháp thân. Phật Đa Bảo hay Pháp thân là một kho báu quí vô lượng vô biên mà tất cả thế gian không gì sánh bằng. Cứu sống một sanh mạng được đền đáp bằng một số châu báu, sanh mạng ấy chỉ sống thêm được vài mươi năm. Nhận ra được mạng sống miên viễn bất tử, tức là Pháp thân hay Niết-bàn, chẳng là một kho báu vô lượng vô biên hay sao? Cho nên được tượng trưng là Phật Đa Bảo.
Nhưng làm sao thấy được Phật Đa Bảo, làm sao mở cửa tháp để thấy Phật? Đức Phật Thích-ca nói: “Phật Đa Bảo có bản nguyện là ‘sau này nếu nơi nào nói kinh Pháp Hoa, tháp ta sẽ hiện lên nơi đó, vị Phật đang thuyết pháp muốn thấy được thân ta thì các phân thân của vị Phật ấy đang giáo hóa ở các nơi phải thu hồi trở về một chỗ, rồi mở cửa tháp sẽ thấy được thân ta’.” Khi ấy cõi Ta-bà ô uế này biến thành thanh tịnh và các loại ngạ quỉ súc sanh đều dời đi nơi khác. Nghĩa lý đoạn này rất thâm sâu.
Phật Đa Bảo là Pháp thân hay Tri kiến Phật của chính mình, muốn thấy Phật thì các tưởng nhớ đến nơi đây nơi kia, chuyện này chuyện khác phải gom về một chỗ, tức là trụ. Cho nên nói các Hóa thân Phật trở về một chỗ không còn phân tán, tức là định vậy. Khi trụ một chỗ rồi thì tâm ô uế trở thành thanh tịnh, tham sân si không còn nữa, nên nói các cõi nước liền biến thành thanh tịnh, các loại ngạ quỉ súc sanh (dụ cho tham sân si) đều dời đi nơi khác, chỉ còn Phật thôi. Đức Phật Thích-ca dùng thần thông bước lên tháp, mở cửa tháp thấy Phật Đa Bảo, vào tháp được ngồi chung với Phật một tòa. Cũng vậy, sau khi tâm chúng ta an trụ rồi, không còn phóng tâm ra ngoài nữa thì lúc đó gọi là định. Khi định xong thì thấy Phật Pháp thân hay là thấy Phật tri kiến của chính mình. Đó là ý nghĩa Phật tri kiến trong kinh Pháp Hoa.
Đến đây chúng tôi xin nói về Ông chủ, được chỉ qua các câu chuyện thiền. Đọc lại lịch sử Thiền tông, chúng ta nhớ lại lần đầu tiên đức Phật truyền chánh pháp cho vị Tổ thứ nhất là ngài Ma-ha Ca-diếp. Trong hội Phật nói kinh ở núi Linh Thứu, tức núi Linh Sơn, khi chúng hội đông đủ, đức Phật lên tòa, tay cầm hoa sen đưa lên, cả chúng hội đều ngơ ngác, chỉ có ngài Ca-diếp chúm chím cười. Phật bảo: “Ta có chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, nay phó chúc cho Ma-ha Ca-diếp v.v…” Như thế ngài Ca-diếp được truyền pháp là do đức Phật đưa cành hoa sen, Ngài nhìn thấy rồi ngộ đạo, được truyền tâm ấn. Ngài Ca-diếp thấy hoa sen ngộ đạo hay thấy cái gì? Trong nhà thiền gọi là “Kiến sắc minh tâm”, là thấy sắc mà ngộ được tâm của mình. Đức Phật đưa cành hoa sen, không phải để nói về hoa sen, chính là nhân nhìn thấy hoa sen biết được mình có cái chưa bao giờ sanh diệt. Ngài Ca-diếp mỉm cười, biết được ý Phật, nên nhận tâm pháp của Phật truyền trao.
Trong nhà thiền cũng vậy, các Thiền sư khi có người đến hỏi đạo, liền đưa cây phất tử lên, không chịu trả lời. Trường hợp ngài Mã Tổ Đạo Nhất là một Thiền sư nổi tiếng, sau Lục Tổ hai đời. Một hôm Ngài đi dạo vườn với Thị giả là ngài Bá Trượng Hoài Hải, thình lình có bầy chim bay qua, Tổ hỏi ngài Bá Trượng: “Cái gì đó?” Ngài Bá Trượng nhìn lên thấy bầy chim bay qua, nói: “Dạ, bầy chim le le bay.” Giây lát Tổ hỏi: “Đâu rồi?” Ngài trả lời: “Bay qua mất rồi!” Khi nghe trả lời như thế, Mã Tổ nắm mũi của ngài Bá Trượng véo mạnh đau điếng. Ngài Bá Trượng la lên thất thanh. Tổ bảo: “Sao không nói bay qua mất đi?” Ngài Bá Trượng nhân đó liền ngộ.
Như thế là ngộ cái gì? Ngộ cái mũi đau hay ngộ bầy chim? Bầy chim bay qua là bay mất đi, nhưng cái thấy bầy chim bay và cái thấy bay mất, cái thấy ấy đâu có mất bao giờ! Chúng ta cứ cho thấy bầy chim là có thấy và chim mất đi là mất cái thấy của mình. Cho nên ngài Bá Trượng bị nắm mũi kéo mạnh, hoảng la lên. Tổ hỏi: “Sao không nói mất đi?” Nhân đó biết rằng cái mũi không bao giờ mất. Trong nhà thiền, lỗ mũi luôn luôn tượng trưng cho Bản lai diện mục, nó ngay trước mắt mà mình quên. Vì vậy khi bị kéo mạnh lỗ mũi, biết rằng lỗ mũi không bao giờ mất, ngài Bá Trượng ngộ liền.
Đến khi ngài Bá Trượng làm thầy, có người đệ tử là Qui Sơn Linh Hựu. Một hôm trời lạnh, Qui Sơn đứng hầu thầy, ngài Bá Trượng bảo bới tro trong lò lấy lửa. Qui Sơn bới trong lò, không thấy lửa, bạch: “Bạch Hòa thượng, lửa hết rồi.” Ngài Bá Trượng lại bới sâu trong lò, lấy được cục lửa, đưa lên hỏi: “Nói hết lửa, cái này là gì?” Qui Sơn liền ngộ, và sụp xuống lễ thầy.
Chúng ta vì không hiểu nên giải thích, đệ tử bới không thấy lửa là vì bới cạn, còn vị thầy nhờ bới sâu trong lò nên được lửa, và nói rằng Phật tánh phải tìm sâu mới gặp. Không ngờ chỗ ngộ của ngài Qui Sơn là do câu hỏi của thầy: “Nói hết lửa cái này là cái gì?” Ngài Qui Sơn liền thấy cục lửa và ngộ liền. Nhân thấy lửa mà biết mình có cái thấy hằng sẵn nơi mình, chưa bao giờ mất. Có thấy là có biết, cái biết đó là tâm, có nghe là có biết, cái biết đó là tâm. Cái biết đó không bao giờ động, bất sanh bất diệt và thường hiện hữu. Nhận ra cái ấy là đã bước vào con đường của chư Tổ đã đi.
Hai câu chuyện trên dùng cái thấy để chỉ cho chúng ta cái chưa bao giờ mất ở nơi mắt, gọi là “Kiến sắc minh tâm”.
Sau khi Tổ Ca-diếp ngộ đạo, đức Phật đem y bát truyền để làm tin. Khi đức Phật diệt độ rồi, vị đệ tử đa văn nhất của Phật là ngài A-nan hỏi ngài Ca-diếp: “Đức Thế Tôn, ngoài việc truyền y Kim lan cho sư huynh, còn truyền cái gì nữa không?” Ngài Ca-diếp liền gọi: “A-nan!” Ngài A-nan: “Dạ!” Ngài Ca-diếp bảo: “Cây phướn trước chùa ngã.” Ngài A-nan liền ngộ, ngộ việc ngoài lá y còn truyền cái khác.
Vậy cái khác là cái gì? Có phải là cây phướn trước chùa chăng? Phần nhiều chúng ta cứ giải thích cây phướn trước chùa ngã. Không ngờ khi kêu: “A-nan” -  “Dạ”, vừa kêu liền dạ, cái đó đã sẵn có, nhận ra cái đó là cái Phật đã truyền cho Tổ Ca-diếp. Như vậy ngài A-nan nhận được cái đó, ngộ đạo, được truyền y bát làm Tổ thứ hai.
Trường hợp Thiền sư Hoàng Bá (?-850), đệ tử của Tổ Bá Trượng, đến ngụ tại một ngôi chùa, nhằm lúc Tướng quốc Bùi Hưu đến thăm chùa. Ông Bùi Hưu thấy trên vách chùa có vẽ hình các vị Cao tăng. Ông hỏi thầy Trụ trì: “Hình Cao tăng ở đây, Cao tăng đâu?” Vị Trụ trì không trả lời được. Ông Bùi Hưu hỏi: “Ở đây có Thiền sư không? Thầy mời hộ tôi.” Vị Trụ trì nói: “Hình như có một Thiền sư, để tôi mời ra.” Và ngài Hoàng Bá được mời ra. Ông Bùi Hưu nói: “Khi nãy tôi có hỏi một câu mà quí Đại đức tiếc lời không đáp. Bây giờ xin hỏi Thiền sư, Thiền sư đáp giùm tôi”. Ngài Hoàng Bá nói: “Ông cứ hỏi.” Ông Bùi Hưu lặp lại câu hỏi: “Hình Cao tăng ở đây, Cao tăng đâu?” Ngài Hoàng Bá liền gọi: “Bùi Hưu!” - “Dạ!” Ngài hỏi: “Ở đâu?” Ông Bùi Hưu liền ngộ. Như vậy Cao tăng ở đâu? Đến đây chúng ta thấy thuật truyền thừa có hệ thống rõ ràng, người ngoài đọc sẽ ngạc nhiên vì nghe lạ tai.
Đến trường hợp khác, ngài Thanh Nguyên Hành Tư (?-740), đệ tử của Lục tổ Huệ Năng, có vị môn đệ là ngài Thạch Đầu Hy Thiên (695-785). Có Thiền sư Linh Mặc (747-818) đến hỏi đạo ngài Thạch Đầu Hy Thiên và tự nói “nếu một câu khế hợp thì ở, chẳng hợp thì đi”. Nhưng khi thưa hỏi, Thiền sư Linh Mặc không được hài lòng nên bỏ ra đi. Ngài Thạch Đầu theo sau tiễn đến cửa liền gọi: “Xà lê!” Sư xoay đầu lại. Ngài Thạch Đầu bảo: “Từ xưa đến giờ chỉ cái ấy, xoay đầu chuyển não làm gì?” Sư nhân câu nói này liền đại ngộ, dừng lại đây hai năm. Như thế chúng ta thấy sự truyền thừa theo hệ thống này đã bắt nguồn từ đức Phật đến ngài Ca-diếp, đến ngài A-nan và đến các Thiền sư sau này: chỉ bày cái thấy, cái nghe, cái biết luôn luôn có sẵn nơi chính mình. Tri kiến Phật là gồm cả Kiến văn giác tri và hằng biểu lộ nơi sáu căn.
Để chỉ Tri kiến Phật, chúng tôi xin dẫn câu chuyện trong kinh Pháp Bảo Đàn, nhân bài thuyết pháp đầu tiên của Lục tổ Huệ Năng cho ngài Huệ Minh. Khi nhận được tâm ấn của Ngũ Tổ, Lục Tổ đi trốn về phương Nam. Tu sĩ Huệ Minh, khi chưa xuất gia là một võ tướng, cưỡi ngựa rượt theo định giành lại y bát. Chẳng ngờ đến khi thấy y bát, Huệ Minh nhấc lên không nổi, biết có việc gì mầu nhiệm, vội kêu lên: “Hành giả! Hành giả! Tôi đến đây vì pháp, chớ không phải vì y bát.” Lục Tổ lúc đó mới ra mặt và bảo ngài Huệ Minh hãy lặng tâm ý nghe Tổ hỏi: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Vừa hỏi đến đó ngài Huệ Minh liền ngộ. Thế là ngộ cái gì? Nghĩ thiện, nghĩ ác là cái nghĩ hai bên, là tướng động, là tướng sanh diệt. Trong vũ trụ từ con người đến vạn vật, cái hai bên là nguồn gốc của sự sanh diệt, ở người thì có nam nữ, ở điện thì có âm dương v.v… Nếu buông được cái hai bên thì sự sanh diệt không còn nữa. Cho nên khi Lục Tổ bảo “không nghĩ thiện, không nghĩ ác” ngay đó liền thấy Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh.
Câu chuyện sau đây thuật việc ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) đến hỏi đạo nơi Thiền sư Hoàng Bá: “Bạch Hòa thượng thế nào là đại ý Phật pháp?” Ngài Hoàng Bá liền đập cho ba gậy mà không trả lời. Ba lần hỏi đạo, ngài Lâm Tế đều bị ba lần ăn đòn đau đớn. Buồn tủi Ngài ra đi, Tổ Hoàng Bá bảo ông nên đến Thiền sư Đại Ngu mà hỏi đạo. Khi đến nơi, Thiền sư Đại Ngu hỏi: “Ông ở đâu đến?” Ngài Lâm Tế thưa: “Dạ con ở Hoàng Bá đến.” Hỏi: “Hoàng Bá dạy ông cái gì?” Thưa: “Con ba lần hỏi đại ý Phật pháp, ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay không lỗi.” Vừa nghe như vậy ngài Đại Ngu liền nói: “Hoàng Bá thật là tâm lão bà (tâm như mẹ thương con), dạy người rất thống thiết, ngươi lại đến trong ấy hỏi có lỗi không lỗi.” Ngài Lâm Tế ngay câu ấy liền đại ngộ, thưa: “Vậy thì Phật pháp của Hoàng Bá rất ít.” Ngài Đại Ngu liền nắm đứng lại bảo: “Con quỉ đái dưới sàng, vừa rồi nói có lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ngươi thấy đạo lý gì, nói mau, nói mau.” Ngài Lâm Tế liền thoi vào hông ngài Đại Ngu ba cái. Ngài Đại Ngu xô ra nói: “Thầy của ngươi là Hoàng Bá, chẳng can hệ gì đến ta.” Về sau, khi ngộ đạo rồi, Ngài làm Tổ dòng Lâm Tế, còn truyền đến hiện nay.
Chúng ta không khỏi thắc mắc ngài Lâm Tế ngộ tại chỗ nào, ngài Hoàng Bá từ bi như thế nào? Nếu ngài Lâm Tế không ba phen bị đòn thì chắc Ngài không làm Tổ dòng Lâm Tế đến ngày nay. Ngài Hoàng Bá thật có tâm lão bà, nhưng nếu không có người bạn đồng hành là ngài Đại Ngu biết được chỗ đó, và gợi ý thì chắc ngài Lâm Tế không bao giờ ngộ được. Nhờ ngài Đại Ngu nhấn mạnh câu “có lỗi không lỗi” ngài Lâm Tế ngay đó liền bừng ngộ. Tại sao vậy? Vì vừa dấy niệm “có lỗi không lỗi” là đã sai đại ý Phật pháp rồi, cho nên bị ăn đòn. Bị ăn đòn mà không được trả lời, dồn người hỏi đến chỗ bế tắc, đau đớn cùng tột, đến khi được khai mở thì nhớ đời đời không quên. Đó là tâm lão bà thống thiết của người xưa. Vị thầy phải biết căn cơ của người học trò, có đủ khả năng chịu đựng sức dồn ép đến chỗ tột cùng không, nhờ người bạn đồng hành khai thông để dẫn đến chỗ ngộ đạo.
Đến câu chuyện của ông Tú tài Trương Chuyết hỏi đạo ngài Thạch Sương Khánh Chư (806-888). Thiền sư Thạch Sương hỏi: “Ông tên gì?” Ông Tú tài đáp: “Dạ con tên Trương Chuyết.” Thiền sư bảo: “Trong đây cái xảo (khéo) còn không có, huống là cái chuyết (vụng).” Ông chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ như sau:
Quang minh tịch chiếu biến hà sa
Phàm Thánh hàm linh cộng ngã gia
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện
Lục căn tài động bị vân già.
Phá trừ phiền não trùng tăng bệnh
Thú hướng Chân như tổng thị tà
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại
Niết-bàn sanh tử đẳng không hoa.
Sáng soi lặng lẽ khắp hà sa
Phàm Thánh hàm linh chung một nhà
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện
Sáu căn vừa động bị che lòa.
Muốn trừ phiền não càng thêm bệnh
Hướng đến Chân như thảy đều tà
Tùy thuận các duyên không quái ngại
Niết-bàn sanh tử thảy không hoa.

Nghĩa là: Ánh sáng lặng lẽ chiếu soi khắp hết. Phàm Thánh và tất cả chúng hàm linh đều ở trong nhà của ta, tức là nhà của Phật Đa Bảo. Một niệm không dấy lên thì cái quang minh tịch chiếu hiện rõ ràng. Sáu căn vừa dấy động, thấy cảnh dấy niệm phân biệt, liền bị che ngăn. Muốn trừ phiền não là thêm một lớp bệnh nữa, vì phiền não là niệm dấy lên, nó là giả tướng hư ảo, tìm nó thì nó mất tăm mất dạng, biết nó không thật thì trừ cái gì? Nếu cố tình trừ phiền não vì tưởng nó là thật thì thêm một lớp bệnh. Nếu nhắm hướng về Chân như thì đó là tà. Vừa dấy niệm tìm Chân như thì Chân như ở ngoài mình rồi. Chân như là Tâm thể chân thật ngay nơi mình, chỉ cần đừng theo vọng tưởng thì Chân như hiện. Tìm Chân như tức là quên cái thật nơi mình đi tìm cái giả, không phải tà là gì? Chỉ có sống tùy thuận với mọi duyên thì không có gì ngăn trở. Sanh tử và Niết-bàn cũng như hoa đốm giữa hư không, không có gì thật hết. Nếu còn thấy hai bên là còn thấy tướng đối đãi, giả dối không thật.
Người tu hành phải biết rõ tất cả niệm phân biệt hay dở, phải quấy v.v… đều là gốc của sanh tử. Cho nên khi sự việc đến, tâm không dấy động, như gương soi ảnh, người tới thì hiện ảnh người, vật tới hiện ảnh vật, người vật đi rồi gương vẫn trong sáng. Cũng như tâm không dấy niệm thì không có gì chướng ngại. Đó là đạo vậy. Khi ấy chúng ta mới nhận thấy rằng Niết-bàn sanh tử chỉ là một lối nói, còn nằm trong đối đãi, chớ chưa phải đến chỗ cứu kính. Trong kinh Pháp Hoa đức Phật nói “những pháp Phật dạy hoặc Tam thừa hoặc Nhị thừa chẳng qua là Hóa thành, chớ không phải là Bảo sở”. Dù nói được Niết-bàn cũng là tạm thôi, chưa phải là cứu kính. Cứu kính là không còn kẹt hai bên.
Sau đây là câu chuyện gia đình ông cư sĩ Bàng Long Uẩn. Một hôm ngồi trong am, ông chợt nói: “Nan, nan, nan! Thập thạch du ma thọ thượng than.” (Khó, khó, khó! Mười tạ dầu mè vuốt trên cây.) Nghĩa là: Dầu mè thì trơn mà muốn trèo lên cây đã vuốt mười thạch dầu mè là chuyện khó vô cùng. Long bà đáp lại: “Dị dị dị, bách thảo đầu thượng Tổ sư ý.” (Dễ dễ dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư.) Cô con gái tên Linh Chiếu đáp: “Dã bất nan dã bất dị, cơ lai khiết phạn, khốn lai thùy.” (Cũng chẳng khó cũng chẳng dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò.)
Qua câu chuyện trên chúng ta thấy trên phương tiện công phu tu hành, ông Bàng Uẩn thấy thật là khó, vọng tưởng là cái gốc của sanh tử luân hồi, mà nó khởi liên tiếp không ngừng, buông bỏ hết vọng tưởng là một việc hết sức khó khăn. Nhưng nếu mình thấy rõ cái gì cũng là ý Tổ sư thì không còn khó nữa. Ông bảo là khó, bà nói là dễ, đó là còn hai bên, cho nên cô con gái kết thúc lại: Cũng không khó, cũng không dễ, đói đến thì ăn, mệt ngủ khò. Để chỉ trong mọi hành động Tâm thể đều như, không đòi hỏi, không tính toán, tùy duyên hành động mà tâm không loạn.
Thiền sư Huệ Hải cũng cùng một ý trên, khi được hỏi: “sự tu hành của Ngài như thế nào”, Sư bảo: “đói thì ăn, mệt thì ngủ”. Người hỏi bảo: “Như vậy thì Ngài giống hệt như người thế gian. Người thế gian cũng đói thì ăn, mệt thì ngủ, Ngài có gì hơn đâu?” Sư đáp: “Người thế gian đói mà không chịu ăn, đòi trăm thứ, mệt mà không chịu ngủ, nghĩ trăm việc, khác nhau ở chỗ đó.” Có một số người không hiểu chỗ khác nhau này, nên nói đói thì ăn nên tha hồ ăn, mệt thì ngủ nên tha hồ ngủ, bê tha biếng nhác gọi đó là tu thiền, là lầm lẫn quá nặng.
Ông Bàng Long Uẩn lại có làm bài kệ:
Hữu nam bất thú
Hữu nữ bất giá
Đại gia đoàn biến đầu
Cộng thuyết vô sanh thoại.
Có con trai không cưới vợ
Có con gái không gả chồng
Cả nhà cùng đoàn tụ        
Đồng nói lời vô sanh.

Như vậy trong nhà con trai con gái không lập gia đình, không sanh con cái, cả nhà tụ họp lại nói lời vô sanh; vô sanh trên hình thức và vô sanh trên tâm niệm. Cả gia đình ông Bàng Long Uẩn đều được sanh tử tự tại, tự do, không có gì chướng ngại. Sở dĩ được như vậy là do không kẹt ở hai bên, cho nên được chỗ vô sanh, nếu còn mắc kẹt hai bên là còn ở chỗ sanh hóa.
Khi chúng ta ngồi thiền, vọng dấy lên thì biết có vọng, vọng lắng thì biết không vọng. Như vậy vọng khởi vọng lặng là khách, còn cái biết vọng thì thường hằng, là chủ. Chủ thì có mặt luôn luôn, hiện hữu rõ ràng, không sanh không diệt, không mắc kẹt ở hai bên có không, còn mất v.v… Trong mọi phương pháp tu hành đức Phật đều nói có định rồi mới có tuệ. Định là dừng vọng tưởng, vọng tưởng lặng rồi thì Thể giác sáng suốt của chính mình hiện bày, đó gọi là tuệ. Như vậy trăm ngàn pháp môn Phật dạy đều gom về một mối, không có điều thứ hai, cứu kính không có hai.
Hình ảnh chúng ta thường thấy trong các chùa, ở phía sau nhà Tổ là hình Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Ngài quảy trên vai một chiếc giày, tại sao như vậy? Vì đó là hình ảnh cụ thể của giáo lý Thiền tông hay giáo lý Đại thừa. Quảy trên vai là tượng trưng cho sự gánh vác đảm đang, một chiếc giày là vượt ngoài đối đãi. Thông thường giày có một đôi là còn hai bên, quảy một chiếc là vượt qua cái hai bên đó, bỏ cái tương đối đi đến chỗ không hai. Cho nên khả năng gánh vác của Tổ là đem con người đến chân lý tuyệt đối, không còn kẹt hai bên, thoát ra ngoài vòng đối đãi. Từ thủy chí chung, Phật, Tổ đều nói như nhau. Phải vượt qua cái đối đãi mới đến cái chân thật cứu kính, đó là thoát ly sanh tử.
Để kết thúc buổi nói chuyện “Chỉ Ông Chủ” hôm nay, chúng tôi xin kể một câu chuyện do chúng tôi vọng tưởng sau thời gian nhập thất ba tháng để ví dụ:
Có anh chàng trớ trêu nọ, để trước nhà anh một bên là lọ mực đỏ một bên là lọ mực đen. Mỗi khi anh ra vào nhà, anh phết lên mặt anh hoặc một vết mực đỏ hoặc một vết mực đen. Anh bôi mực trên mặt hoài mà không chịu rửa mặt. Lâu ngày người ta nhìn vào mặt anh thấy phân nửa đỏ phân nửa đen. Người ta gọi anh là chú mặt đỏ mặt đen và quên tên thật của anh. Anh có một người bạn thân từ thuở nhỏ (lúc mười hai, mười ba tuổi) đi xa về, người bạn gặp anh thì nhìn không ra, hỏi: “Cái mặt chú mày sao lạ vậy?” Anh trả lời: “Cái mặt tôi như vầy, chớ có chi lạ đâu.” Người bạn nói: “Mặt của chú mày ngày xưa đâu có đỏ đen như thế này.” Anh nói: “ Mặt của tôi đỏ đen như vậy chớ sao.” Người bạn nói: “Không phải vậy, tao chơi với chú mày lâu năm tao biết rõ, mặt thật của chú mày hồi trước không phải đỏ và đen, đỏ và đen là tại chú mày bôi mực vào đó. Bây giờ muốn có cái mặt thật như hồi xưa, chú mày đừng bôi mực vào nữa, và chịu khó chùi rửa hết các vết mực đi, thì mới lộ được cái mặt thật xưa nay của chú mày.” Anh nghe có lý, từ đó không bôi mực vào mặt nữa, và bắt đầu tẩy rửa các vết mực đi. Vì anh bôi mực vào mặt lâu ngày quá, nên công phu tẩy rửa phải khó khăn nhọc nhằn. Nhưng ngày qua ngày, anh cố tình tẩy rửa, màu đen đỏ nhạt dần, chỉ còn ửng ửng đỏ, thâm thâm đen. Anh ráng dùng mọi phương tiện rửa thật sạch hết các vết ửng thâm còn sót lại, cho đến một hôm khi soi gương thì cái mặt thật của anh hiển bày.
Câu chuyện này kết thúc buổi nói chuyện “Chỉ Ông Chủ” hôm nay của chúng tôi. Như thế là chúng tôi đã đưa quí vị từ “Vào cổng nhà Thiền” bước “Vào cửa Không” và “Chỉ Ông chủ”. Đây là trách nhiệm và bổn phận của chúng tôi xong.

Nguồn tin: Thiền viện thường chiếu
Từ khóa:

n/a

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 84
  • Khách viếng thăm: 80
  • Máy chủ tìm kiếm: 4
  • Hôm nay: 40252
  • Tháng hiện tại: 300184
  • Tổng lượt truy cập: 59740201

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile