Ly kỳ chuyện chùa Địa Ngục và 'rừng ma áo dứa'

Đến con dốc thứ 49, đồng hồ đã chỉ 2h chiều, khi đầu gối gần như rơi rụng thì chùa Địa Ngục hiện ra. Đó là một chiếc lán dựng tạm trên nền gạch đổ nát được bao quanh bởi rừng cây âm u. Nếu không thấy tiếng tụng kinh đố ai dám nghĩ đó là chùa.

Dụi mắt đến ba lần chúng tôi mới nhìn rõ cửa rừng Quốc gia Tam Đảo (Vĩnh Phúc) bởi mồ hôi ướt đầm, cay xè, dù nhiệt độ ở đây chỉ có 8oC. Ngay lập tức, bên tai đã nghe thấy tiếng reo: "Đây rồi! Không phải tìm nữa! Điện cho anh em quay về đi!". Đó là tiếng ông chủ Khách sạn K.M ở thị trấn Tam Đảo. Gần một giờ sau, bốn năm người của vườn Quốc gia Tam Đảo mới về đến nơi. Hóa ra, họ tỏa ra đi tìm chúng tôi. Cả ông chủ khách sạn và người gác cửa rừng lo chúng tôi đói, khát khi lạc vào "rừng ma ao dứa" - nơi có chùa Địa Ngục gắn liền với Phật tử đầu tiên: Chử Đồng Tử.
 

Con đường mòn lên đỉnh Tam Đảo đến chùa Địa Ngục.

 

Năm vạn bước chân và 50 dốc núi

Sáng sớm, sương trắng đổ bạc đầu trên những dãy núi trập trùng của núi Tam Đảo. "Hãy mang nước, mang dù (ô) và đủ thức ăn vào trong đó. Đi đến đâu, nhớ đánh dấu kí hiệu lên thân cây kẻo bị lạc", cô Nguyễn Thị Tâm, một người bán hàng ở thị trấn Tam Đảo dặn dò. Con đường từ cửa rừng đi vào (4km) ngày càng hẹp, có chỗ chỉ còn một mét, hoàn toàn là đường mòn. Đi sâu vào rừng là đường lên núi, dốc dựng đứng, cứ một cây số là hai con dốc. Hai mươi lăm cây số là 50 con dốc. Nhiều người lên chùa Địa Ngục trước chúng tôi nói chỉ đi được một nửa đã phải quay về bởi hai bàn chân đã bỏng rộp vì không quen.

Bên ven đường, sạn đạo năm xưa khi chưa mở đường mòn lên núi vẫn còn nguyên dấu vết. Đó là những cây gỗ làm trụ, cây nứa là sạp, một đầu vắt ngang thân cây, một đầu gác vào thân núi. Theo lời thầy Thích Thanh Toàn, trụ trì chùa Địa Ngục "sạn đạo đủ làm run chân những người kiên gan nhất". Đi đến con dốc thứ 30 đường mòn lại chia làm hai hướng. Những lá cờ trên đường mà nhà chùa đánh dấu lên chùa để khách bộ hành khỏi bị lạc cũng không còn. Chúng tôi đánh bạo chọn một đường với những dải rừng trúc thẳng đứng mà đi.

Cái lo lạc đường chỉ dừng lại khi gặp một nhóm kiểm lâm vườn Quốc gia Tam Đảo ì ạch đẩy xe thồ gạo lên tiếp tế trên chốt chùa Địa Ngục. "Chỉ còn 15 con dốc nữa là đến", anh Phan Văn Hùng, một cán bộ kiểm lâm trẻ măng động viên. "Đây là những đoạn âm u nhất,  chỉ khi nào đúng ngày hạ chí mới thấy một vài tia ánh sáng len được đến mắt người", anh Hùng nói. Bặm môi, bấm chân để khỏi ngã trên con đường trơn trượt mà mồ hôi ướt đầm vai áo. Đến con dốc thứ 49, đồng hồ đã chỉ 2h chiều, khi đầu gối gần như rơi rụng thì chùa Địa Ngục hiện ra. Đó là một chiếc lán dựng tạm trên nền gạch đổ nát được bao quanh bởi rừng cây âm u. Nếu không thấy tiếng tụng kinh đố ai dám nghĩ đó là chùa. 
 

Người chấp tác chùa Địa Ngục thỉnh đại hồng chung.

 

Đêm nghe chuyện "rừng ma ao dứa"

Chiều buông xuống rất nhanh trên đỉnh Tam Đảo. Mới 4h chiều ánh sáng đã tắt, sường mờ lối đi. Anh Nguyễn Văn Tú, người Lập Thạch, một công nhân xây dựng bị tai nạn tật nguyền một chân, ở lại trông chùa từ năm xây bảo tháp nổi lửa nấu cơm. "Tớ chưa được tu chính thức. Chỉ ở lại trông chùa giúp sư trụ trì (sư thầy Thích Thanh Toàn) thôi. Nhưng vẫn phải ăn chay và lo nhang khói khi sư thầy vắng nhà", anh Tú cho biết.

Anh Tú ở đây từ năm 2008 khi nền cũ chùa Địa Ngục được sư thầy Thích Thanh Toàn cất công tìm ròng rã một năm trời mới thấy. Từ đó đến nay, sư thầy chỉ một tháng hai lần vào thỉnh kinh, còn trông chùa lo nhang khói chính là anh Tú với một người chấp tác. "Đừng tưởng trên núi không có ao. Chiếc ao rộng hàng nghìn mét, nước xanh, sâu thẳm. Xung quanh là những bụi dứa dại gọi là dứa ma mọc um tùm. Trên ao mười mét, lúc nào cũng có mây mù giăng kín, mưa rơi không ngớt. Ao được một nhóm thợ săn bản địa phát hiện từ lâu nhưng chỉ còn một người thoát ra được kể lại câu chuyện..." -Anh Tú mở lời.

Theo lời anh Tú, mấy chục năm trước, khi rừng Tam Đảo vẫn chưa là vườn Quốc gia, người dân quanh vùng vẫn vào rừng đốn củi, săn bắt. Nghi rừng có hổ, một nhóm thợ săn lần theo dấu chân tìm đến chiếc ao kỳ bí kia. Chờ con hổ ăn mồi khát nước tìm đến, họ nằm mai phục. Một ngày, hai ngày, ba ngày, hổ vẫn không xuất hiện trong khi cơm nắm chỉ còn những hạt cuối cùng. Nhưng khi tìm ra, đi theo những dấu buộc lại trên thân cây từ trước nhưng kỳ lạ thay, đi cả ngày mà vẫn quay lại chỗ cũ. Mòn mỏi, đói khát những người thợ săn thiếp dần cạnh những bụi dứa. 

Vợ những người thợ săn phát hiện ra chồng mình không về nhà đổ xô đi tìm. Đề phòng lạc, những người vợ đã ròng dây từ chân núi đi lên. "Cả nhóm thợ săn chỉ còn đúng một người tóc tai bù xù như người rừng hóa điên, hóa dại. Tất cả những người còn lại đều không thấy dấu vết. Từ đó đến nay, thỉnh thoảng vẫn có người bị lạc không về. Người trong chùa vẫn nghe thấy những tiếng hú trong đêm khuya, không rõ của ma hay người đi lạc!", Anh Tú nói...

Người chấp tác lặng lẽ bỏ thêm củi vào bếp, tiếp lời: "Cách đây chưa lâu, hai người nước ngoài cắt rừng đi vào trong núi. Mê cung của “rừng ma ao dứa” lại không cho ra. Tín hiệu cấp cứu liên tục phát ra và chỉ đến khi hàng chục cán bộ vườn Quốc gia tỏa đi tìm kiếm mới thoát nạn. Cũng tại họ vào rừng với ý không tốt. Họ đem theo những thiết bị dò tìm khoáng sản quý. Đến khi ra đến cổng rừng mà đôi mắt xanh của họ vẫn lạc thần".
 

Người chấp tác nói chuông chùa Địa Ngục chỉ vang lên hai lần mỗi ngày vào 19g  và 5g . Chuông chùa có khối lượng 2,2 tấn, một trong những chiếc chuông lớn nhất Việt Nam hiện nay. Đánh chuông, thỉnh kinh xong, người chấp tác tuổi chỉ tầm hai mươi khẽ đọc  bài thơ trên đại hồng chung: "Nghe chuông phiền não tan mây khói/ Giác ngộ tâm từ một hướng đi"...

Tác giả bài viết: Đinh Tú

Nguồn tin: Đất Việt