Đức Quán Thế Âm Bồ Tát

1. Nguồn gốc của Quán Thế Âm Bồ-tát. 2. Đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ-tát. 3. Sự thị hiện của Quán Thế Âm Bồ-tát. 4. Hình tượng của Quán Thế Âm Bồ-tát. 5. Pháp môn của của Quán Thế Âm Bồ-tát
Bồ tát Quán Thế Âm

ĐỨC QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

PHÁP SƯ THÁNH NGHIÊM

* * *

TRONG BÀI NÀY:

Lời người dịch

Lời nói đầu

1. Nguồn gốc của Quán Thế Âm Bồ-tát

2. Đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ-tát

3. Sự thị hiện của Quán Thế Âm Bồ-tát

4. Hình tượng của Quán Thế Âm Bồ-tát

5. Pháp môn của của Quán Thế Âm Bồ-tát

* * *

LỜI NGƯỜI DỊCH

 



(HT. Thích Thánh Nghiêm)

 

Nhân một dịp về Suối Nghệ tiễn đưa linh cửu thân mẫu của một pháp lữ, tôi ghé thăm Tu Viện Chuyên Tu, Tân Thành, Bà-Rịa Vũng Tàu, được đại đức Thích Thiện Thuận tặng cho bốn quyển sách nhỏ bằng Hán ngữ. Khi về lại thành phố, tôi lần lượt đọc qua tất cả, nhưng không biết vì nhân duyên gì tôi lại quyết định chuyển ngữ cuốn “Quán Thế Âm Bồ-tát” sang tiếng Việt.

“Quán Thế Âm Bồ-tát”, tuy không phải là một tác phẩm sáng tác văn chương, nhưng với những gì được ghi lại từ lời giảng của Pháp sư Thánh Nghiêm cũng tạm cung cấp cho chúng ta đầy đủ những thông tin cần thiết về vị Bồ-tát vĩ đại này.

Như chúng ta được biết, trong tín ngưỡng dân gian ViệtNam, Bồ-tát Quán Thế Âm còn được gọi với tên rất thân thương, rất gần gũi là:“Mẹ Hiền Quán Thế Âm, Đức Mẹ hoặc Mẹ”. Công hạnh “cứu khổ, cứu nạn” của vị Bồ-tát này mắt thường không thể thấy được, trí thường không thể nhận biết được; cũng giống như sự mầu nhiệm của Phật pháp không thể bằng hiểu biết, tỉ giảo bình thường của phàm tình có thể cảm nhận được.

Sự mầu nhiệm, linh nghiệm của Bồ-tát cũng vậy! Sự nhiệm mầu ấy không phải hoàn toàn phụ thuộc vào Bồ-tát, mà quan trọng là xuất phát từ lòng tin nông, sâu và sự giao cảm của mỗi người.

Linh nghiệm như thế! Gần gũi như thế! Nhưng về công hạnh và hình tượng cũng như nguồn gốc xuất thân của Ngài thì lại ít ai biết đến.

Do đó, Pháp sư Thánh Nghiêm sẽ cho chúng ta biết về vị Bồ-tát này. Đồng thời để giúp cho những ai sẵn có niềm tin rồi, càng tin sâu hơn, thành khẩn hơn. Còn như những ai chưa tin, qua đây phát khởi lòng tin với “Quán Thế Âm Bồ-tát”. Pháp sư Thánh Nghiêm đã từng tự trình bày một cách rõ ràng, tỉ mỉ về vị Bồ-tát này qua năm mục:

1. Nguồn gốc của Quán Thế Âm Bồ-tát

2. Đạo tràng của Quán Thế Âm Bồ-tát

3. Sự thị hiện của Quán Thế Âm Bồ-tát

4. Hình tượng của Quán Thế Âm Bồ-tát

5. Pháp môn của của Quán Thế Âm Bồ-tát

Do khả năng và hiểu biết có giới hạn, nên dù đã cố gắng nhiều nhưng khi dịch bản văn này không sao tránh khỏi những sơ thất, người dịch rất mong, nếu ai đó tình cờ đọc được và phát hiện có sai sót gì xin lượng thứ và chỉ bảo cho.

Nếu dịch phẩm này có bao nhiêu lợi ích, xin hồi hướng cho tất cả mọi người một lòng tin sâu nơi Bồ-tát Quán Thế Âm, bỏ tà về chính, thực hành lợi tha. Và xin chân thành tri ân đại đức Thích Thiện Thuận đã tặng cho bản văn này.

Báo Ân, ngày 15 tháng 07 năm Bính Tuất

Người dịch kính ghi: Trí Hạnh

 



LỜI NÓI ĐẦU

Hôm nay là ngày vía đức Quán Thế Âm Bồ-tát, tôi xin giới thiệu với quý vị về vị Bồ-tát vĩ đại này. Riêng bản thân Thánh Nghiêm tôi cảm thấy vô cùng gần gũi, vô cùng ngưỡng mộ Ngài. Vì từ thuở nhỏ đến nay, ngày nào tôi cũng tắm mình trong  ánh hào quang nhân từ của vị đại Bồ-tát này.

Lúc mới sanh ra, tôi vốn là một đứa trẻ bệnh tật, ốm yếu, nếu không nhờ sự thành tâm cầu nguyện, lễ lạy Bồ-tát Quán Thế Âm của mẹ tôi thì chắc chắn tôi không còn sống  đến ngày hôm nay.

Một thời gian sau, nhân dịp anh chị tôi tham dự pháp hội,  tôi cũng tham gia trọn thời gian pháp hội diễn ra. Tuy pháp hội ấy chẳng phải chính tông của Phật giáo, tín ngưỡng trọng tâm là “Thánh Tông Cổ Phật”, nhưng kỳ thật cũng chính là nói về Bồ-tát Quán Thế Âm.

Thuở nhỏ, tôi xuất gia ở núi Thông Lang phía Nam Giang Tô và ở đó phụng thờ Đại Thánh Bồ-tát. Vào đời Vua Cao Tông đời Đường có vị cao tăng tên là Tăng-già từ Tây Vực đến Trung Hoa, trụ ở đây.

Theo Tống Cao Tăng truyện ghi lại: “Vị cao tăng này từng hiện mười hai khuôn mặt giống như Bồ-tát Quán Thế Âm, cho nên người đương thời cho ngài là hoá thân của Bồ-tát Quán Thế Âm”.

Thời niên thiếu, tôi là một đứa trẻ rất tối dạ, dù không giống như tôn giả Chu-lợi-bàn-đà đệ tử Phật. Trong kinh Phật nói, tôn giả ấy ba tháng mà học không  thuộc  một bài kệ. Sau đó tôn giả lại được đức Phật dạy cho hai chữ “Tảo Chửu”, nhưng hễ tôn giả nhớ chữ Tảo thì quên chữ Chửu và ngược lại. Thế nhưng dưới sự giáo hoá của Phật, cuối cùng tôn giả cũng chứng quả vị A-la-hán.

Còn tôi, theo lời mẹ tôi kể lại, năm lên sáu tuổi tôi mới biết nói, đến năm lên chín tuổi mới học vỡ lòng, năm mười chín tuổi tôi xuất gia và cũng chỉ mới học hết năm thứ tư của bậc tiểu học. Những hiểu biết mà tôi hiện có, là do sau khi xuất gia, tôi được thầy bổn sư giảng cho nghe một câu chuyện về Bồ-tát Quán Thế Âm, từ đó tôi bắt đầu quy kính Bồ-tát Quán Thế Âm, hướng về ngài cầu mong trí tuệ, và quả nhiên được trí tuệ.

Thầy tôi kể: “Vào đời nhà Tống có thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ, hành trì Pháp hoa sám pháp trải qua hai mươi mốt ngày thì mộng thấy ngài Quán Thế Âm Bồ-tát dùng nước cam lồ rót vào miệng Thiền sư. Chẳng bao lâu sau, Thiền sư trở thành người có biện tài vô ngại. Về sau, Thiền sư có trước tác bộ Tông cảnh lục, [1] 100 quyển và bộ Vạn thiện đồng quy tập,[2] sáu quyển. Hai bộ sách này đã trở thành những tác phẩm bất hủ trong lịch sử Phật giáo Trung Quốc. Qua đây cho chúng ta thấy địa vị của ngài trong Phật giáo rất cao vời.

Do đó, thầy tôi dạy tôi mỗi ngày ít nhất phải lạy đức Quán Thế Âm Bồ-tát hai trăm lạy. Tôi vâng lời và hành trì hơn nữa năm, vừa lạy vừa quán tưởng. Một hôm, tôi được Bồ-tát tay cầm dương chi, dùng nước cam lồ trong mát rới lên đầu tôi. Sau đó, tôi chọn lấy một bản “Thiền môn nhật tụng”, học suốt mấy tháng thì thuộc lòng không quên một chữ. Lúc ấy, ngay bản thân tôi và cả mọi người xung quanh đều không thể tin được việc này.

Sau đó, tôi đến Thượng Hải và ở lại trong hạ Viện chùa Đại Thánh, Lang Sơn. Ở đó, ngày ngày tôi chỉ tụng kinh, sám hối. Cũng vừa lúc ấy, Phật học viện chùa Tĩnh An thành lập, tôi xin hoà thượng bổn sư cho tôi đến đó cầu học. Biết tôi không đủ trình độ để tham dự khoá học nhưng hoà thượng vẫn đồng ý cho tôi đi. Quả nhiên đúng như vậy, lần thi tuyển thứ nhất tôi bị trượt, đến lần thi thứ hai tôi mới được tuyển vào trường; tuy vậy nhưng cuối cùng tôi cũng không theo học hết khoá học.

Trong lúc đang thất vọng ê chề, không biết làm gì, mỗi tối tôi đối trước tượng Bồ-tát Quán Thế Âm lễ bái Ngài. Tôi làm vậy được hơn nữa năm, cuối cùng mục đích cầu học của tôi cũng thành công. Tôi được chọn vào học ở Phật học viện chùa Tĩnh An. Việc này một lần nữa mang lại cho tôi niềm vui bất ngờ và lòng tin kiên cố nơi Bồ-tát.

Mùa Xuân năm Dân Quốc thứ 38, khi tình hình chiến sự ở Trung Quốc chưa có biến động lớn, tôi phải gia nhập quân đội đến Đài Loan. Vì lúc ấy sức khỏe tôi không được tốt nên có người bạn đồng học bảo: “Anh sống không quá ba tháng nữa”. Thế nhưng khi ở trong quân đội tôi vẫn sinh hoạt bình thường. Vì sao? Chỉ vì trong thâm tâm tôi lúc nào cũng nghĩ đến Bồ-tát Quán Thế Âm. Tôi tranh thủ lúc hành quân, khi thao luyện thầm niệm danh hiệu Bồ-tát. Cho nên, tôi luôn luôn được ánh hào quang đại từ của Bồ-tát bảo bọc. Tôi ở trong quân đội gần mười năm, cuối cùng cũng được giải ngũ. Sau đó, tôi theo Đông Sơ Lão Nhân xuất gia trở lại. Nguyện vọng của tôi là xin Bồ-tát ban cho một nơi tĩnh lặng để dụng công tu hành. Vì thế, ngày nào tôi cũng lễ Đại bi sám pháp và niệm thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm. Bấy giờ, những người bạn của tôi cho rằng, nguyện vọng của tôi chủ yếu chỉ cầu sự nhàn rỗi. Vì lúc ấy, ở Đài Loan cũng có một số vị trưởng lão Thượng toạ một lòng dụng công tu tập mà còn gặp rất nhiều khó khăn, huống chi tôi là người mới xuất gia! Hơn nữa, Phật giáo Đài Loan thuở đó đối với tôi có thể nói là “đất khách quê người”. Trong cảnh cô thân xứ người tôi không biết kiếm đâu ra người để xin giúp ít lương lộ, cũng không biết nương tựa vào đâu, lạc lõng bơ vơ, tấn thối lưỡng nan.

Cuối cùng, một hôm tình cờ tôi được pháp sư Hạo Lâm giới thiệu với một vị pháp sư khác và được vị này giúp đỡ. Rồi vị pháp sư này lại giới thiệu tôi với hai vị ni sư ở trấn Mỹ Nồng, khu Cao Hùng Sơn. Do đó, tôi đến chùa Triều Nguyên ở lại đó hơn sáu năm. Nếu không gặp một vị đại hoà thượng thức tĩnh và mời tôi đến chùa của ngài thì chắc có lẽ tôi vẫn còn tiếp tục bế quan ở đó.

Những gì tôi vừa trình bày về mình ở trên là tất cả những sự giao cảm hữu duyên giữa tôi với Bồ-tát Quán Thế Âm. Và đây là một sự thật mà tôi đã trải qua. Tôi cho rằng, nếu ai có lòng tin chân thành, tha thiết với Bồ-tát Quán Thế Âm, chắc chắn dù có cầu mong gì cũng được cảm ứng. Tôi tuyệt đối tin Bồ-tát Quán Thế Âm và vô cùng cảm phục ân đức từ bi của ngài.

Pháp sư Thánh Nghiêm

***

 



1.    Nguồn gốc Bồ-tát Quán Thế Âm

Ngày nay nếu chúng ta có dịp đọc lại trong kinh tạng, sẽ thấy có rất nhiều tư liệu nói về Bồ-tát Quán Thế Âm. Quá trình giáo hoá của đức Thế tôn được ghi lại trong các kinh Đại thừa nói rất nhiều về vị Bồ-tát vĩ đại này. Khi đức Phật khai hội Pháp hoa ở núi Linh Thứu; lúc ấy, trong pháp hội có hơn tám vạn vị đại Bồ-tát tham dự. Trong số đó có mười tám vị Bồ-tát đóng vai trò quan trọng mà Bồ-tát Quán Thế Âm là một trong số tám vị đại Bồ-tát ấy.

Ở những nước Phật giáo như: Ấn Độ, ViệtNam, Nhật Bản, Hàn Quốc, rất xem trọng tín ngưỡng Bồ-tát Quán Thế Âm. Trong các biểu tượng mỹ thuật Phật giáo cổ đại của các nước này, người ta phát hiện ra nhiều tác phẩm hội hoạ, điêu khắc, trong đó thánh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm chiếm tỉ lệ rất lớn. Cho nên, có thể lấy đó mà chứng minh.

Đặc biệt trong các trung tâm mật giáo ở Trung Quốc, Tây Tạng phần nhiều theo tín ngưỡng Quán Thế Âm “không có Quán Thế Âm thì cũng không có Phật giáo Tây Tạng”. Thậm chí trong dân gian của các địa phương như Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Đài Loan và những vùng thuộc Nam Dương của cộng đồng người Hoa, họ còn không biết có đức Phật Thích-ca Mâu-ni là giáo chủ của đạo Phật. Vậy mà, với họ không một ai lại không tin là có Bồ-tát Quán Thế Âm. Cho nên trong tục ngữ có câu:

“Nhà nhà Phật Di-đà

Cửa cửa Quán Thế Âm”

Từ đó cho chúng ta thấy địa vị, tầm quan trọng của Bồ-tát Quán Thế Âm trong Phật giáo đối với chúng ta và tất cả chúng sinhở thế giới ta-bà này có vị trí hơn cả Phật Thích-ca và Phật A-di-đà.

Mặc dù vị đại Bồ-tát này rất có duyên với chúng ta và chúng sinhở cõi ta-bà này “Tầm thính cứu khổ, hữu cầu tất ứng”, thế nhưng nguồn gốc, xuất xứ của vị đại sĩ này lại rất ít ai biết đến.

Tuy nhiên, đối với tín ngưỡng của mỗi người không hẳn nhất định phải dựa vào sự hiểu biết đạo lý. Trái lại, chỉ cần hiểu rõ lời Phật dạy, biết Bồ-tát Quán Thế Âm là vị Bồ-tát “có mong cầu ắt có cảm ứng” là vị hay cứu khổ cứu nạn ở thế gian, như thế cũng đã quá đủ rồi.

Tin vào ngài, cầu nguyện ngài thì bất cứ ai cũng có cơ hội đạt được sự linh nghiệm. Nhưng để lòng tin được chắc chắn, dũng mãnh, thiết nghĩ cần phải có những ví dụ cụ thể và những cơ sở lý luận thật sự làm nền tảng, mới có thể giữ vững, duy trì lòng tin luôn kiên cố. Vì lý do đó mà Thánh Nghiêm tôi mới soạn thảo đề tài này, giới thiệu cùng chư vị về Bồ-tát Quán Thế Âm; với mục đích cầu mong sao những người đã sẵn có lòng tin Bồ-tát rồi càng tin sâu hơn, thành khẩn hơn; những ai chưa tin xin hãy phát khởi lòng tin.

Trong kinh tiếng Phạn chữ “Quán Thế Âm Bồ-tát” đọc là Avalokitesvara. Trung Hoa phiên âm là A-phược-lô-chỉ-đế-thấp-phạt-la. Về tên gọi Quán Thế Âm Bồ-tát trong văn kinh Trung Quốc có những bản dịch nổi bậc như:

Như ngài Trúc Pháp Hộ dịch là “Quang Thế Âm.” Cách dịch cũ của ngài Cưu-ma-la-thập là “Quán Thế Âm.” Cách dịch mới của Ngài Huyền Tráng là Quán Tự Tại. Nhưng phần nhiều ở Trung Quốc thường xử dụng bản dịch của ngài Cưu-ma-la-thập. Mặt khác, vì người Trung Hoa ưa chuộng sự giản lược nên thông thường họ chỉ gọi là Quán Âm. Ngoài ra, nếu đối chiếu với nguyên nghĩa của tiếng Phạn thì chữ “Avalokitesvara” còn có nhiều cách dịch khác như: Quán Tự Tại, Quán Thế Âm Tự Tại, Khuy Âm, Hiện Âm Thinh, Thánh Quán Âm.v.v..

Ở Trung Hoa phần nhiều tín đồ Phật giáo thường xử dụng danh xưng “Quán Thế Âm” để gọi vị đại Bồ-tát này. Nguyên nhân chủ yếu là vì phẩm Phổ môn thứ hai mươi lăm trong kinh Pháp Hoa, bản dịch của pháp sư Cưu-ma-la-thập được tín đồ hành trì rất thịnh hành ở Trung Quốc. Vì thế, danh hiệu Quán Thế Âm được xưng tụng rộng rãi nhất ở Trung Quốc.

Thậm chí phẩm Phổ môn cũng đã được lưu truyền, đọc tụng rất thạnh hành vào giai đoạn đầu của thời kì loạn Ngũ Hồ ở Trung Quốc.

Thuở ấy, quốc chủ Bắc Lương là Thứ Cừ Mông Tốn[3] bị một cơn bạo bệnh, tất cả danh y thời ấy đều bó tay. Dù đã dùng trăm nghìn thứ thuốc nhưng không có hiệu nghiệm gì. Bấy giờ, có một vị pháp sư từ Ấn Độ đến Trung Hoa dịch kinh tên là Đàm-vô-sấm. Pháp sư khuyên Thứ Cừ Mông Tốn nên thành tâm tụng trì phẩm Phổ Môn. Pháp sư nói: “Nếu chí thành tụng phẩm kinh này thì có thể sớm tiêu trừ bệnh chướng, thân thể khỏe mạnh trở lại”.

Thứ Cừ Mông Tốn vâng lời pháp sư chỉ dạy chuyên tâm đọc tụng. Trải qua một thời gian tụng đọc, quả nhiên thật đúng như lời pháp sư khuyên, cơn bạo bệnh của ông ta không dùng thuốc mà tự nhiên hết. Vì thế, không những Quốc Vương ra lệnh cho nhân dân trong nước phải tụng đọc phẩm kinh Phổ Môn này mà số người tự phát tâm đọc tụng cũng nhiều vô kể. Cũng chính vì lẽ đó mà kinh Pháp hoa được xem là vua trong các kinh. Đặc biệt là phẩm Phổ môn lại là một phẩm thuộc kinh Pháp hoa và đối với người Trung Quốc đây là một phẩm kinh vô cùng có duyên với họ.

Tiếp theo đây chúng tôi sẽ giới thiệu sơ lược ý nghĩa Bồ-tát Quán Thế Âm. Có hai cách giải thích tiêu biểu về vị Bồ-tát này như sau:

1.1. Một là theo kinh Lăng nghiêm, quyển thứ sáu ghi: “Phương pháp tu hành của vị Bồ-tát này là không dùng nhĩ căn để nghe những âm thanh bên ngoài mà là hướng vào bên trong nghe công năng của tánh nghe ở bên trong nhĩ căn. Do đó, có thể nói một cách tóm tắt về vị Bồ-tát này : “Hai tướng động tịnh nghiễm nhiên không sanh”. Bồ-tát này không giống như người thường dùng nhĩ căn hướng ra ngoài để phân biệt âm thanh, dẫn đến phải chịu sự tác động của ngoại cảnh. Chẳng hạn như bị tiếng khen ngợi, chê cười rồi phát sanh tham lam, giận dữ, thích thú, ghét bỏ, buồn phiền, tạo thành những nghiệp ác như sát hại, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ .v.v… Vì thế chúng sinhphải chịu quả báo khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Ngược lại, vị Bồ-tát này dùng nhĩ căn để quán sát, phân tích tính chất giả tạm, không thật của âm thanh trong thế gian mà hoàn toàn không bị tác động. Nhờ thế Bồ-tát đi vào trạng thái như như bất động của đại giải thoát”.

1.2. Theo phẩm Phổ môn của kinh Pháp hoa ghi: “Nếu có vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng sinh chịu các khổ não, khi nghe được danh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, nhất tâm xưng niệm danh hiệu ngài, thì ngay lập tức Bồ-tát Quán Thế Âm xem xét âm thanh kia, rồi cứu cho tất cả đều thoát khỏi cảnh lầm than”.

Hoặc có đoạn kinh ghi: “Nếu có chúng sinh nào đang bị khổ não mà nghe được danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, rồi chuyên tâm, khẩn thiết xưng niệm thánh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, thì ngay lập tức Bồ-tát Quán Thế Âm xuất hiện, lắng nghe tất cả những âm thanh cầu cứu của chúng sinh, đồng thời cứu giúp cho chúng sinh thoát khỏi khổ não. Vì thế mà gọi Ngài là Quán Thế Âm”.

Kinh Bi hoa ghi: “Đức Phật Bảo Tạng nói: “Ông quán sát chúng sinh mà sinh lòng đại bi, vì muốn đoạn trừ các khổ não cho chúng sinh, làm cho chúng sinh được an ổn vui vẻ, sung sướng. Vì thế nên nay gọi ông là Quán Thế Âm”.

Tóm lại, kinh Lăng nghiêm căn cứ theo pháp môn tự tu của Bồ-tát Quán Thế Âm mà gọi tên. Còn theo phẩm Phổ môn và kinh Bi hoa dựa vào hạnh nguyện độ sinh của Bồ-tát Quán Thế Âm mà gọi tên.

Ngoài ra, danh xưng  Quán Tự Tại, theo cách dịch mới của pháp sư Huyền Tráng, đời Đường cũng rất nổi tiếng và cũng thông dụng không kém so với cách dịch cũ của pháp sư Cưu-ma-la-thập. Danh xưng này chúng ta hiện thấy xuất hiện ở câu đầu trong kinh Bát-nhã-ba-la-mật-đa. Mà hiện nay kinh này đang được nhiều người đọc tụng hằng ngày và phổ biến vô cùng rộng rãi. Bản Tâm kinh này là bản dịch của ngài Huyền Tráng. Nhưng nói về Tâm kinh Bát-nhã thì từ xưa đến nay có tổng cộng bảy bản dịch khác nhau. Bản dịch của ngài Huyền Tráng là bản dịch thứ hai, sau bản dịch của pháp sư Cưu-ma-la-thập.

Khi ngài Huyền Tráng chưa sang Ấn Độ cầu pháp, không những ngài đã học thông suốt bản tâm kinh này mà còn tuyệt đối tin vào sự che chở, bảo hộ của Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngài Huyền Tráng đã kể lại những linh nghiệm mà chính bản thân ngài đã trải qua, do chính ngài đã nhiều lần cầu Bồ-tát Quán Thế Âm gia hộ trên suốt lộ trình đi thỉnh kinh.

Ngài kể:

1. Trong suốt thời gian ngài vượt qua quãng đường dài tám trăm dặm trên Sa mạc, trên không có chim bay, dưới không có thú chạy, chỉ toàn là yêu ma, quỷ quái, lửa dữ rất nhiều giống như những chòm sao trên trời. Ngài không nhớ nổi đã gặp không biết bao nhiêu ác quỷ, tà yêu vây quanh ngài, nhưng nhờ chuyên tâm niệm Tâm kinh mà ngài có thể xua tan tất cả những sự ám chướng của ma quỷ tạo ra.

2. Khi ngài rời khỏi Ngọc Môn Quan, đi được một quãng thì trời tối, bất đắc dĩ ngài phải ngủ lại trên sa mạc. Những người Hồ đi theo ngài bỗng thay lòng đổi dạ, họ cầm dao xong về phía ngài, định giết. Trong lúc nguy khốn cận kề, Huyền Tráng chỉ còn biết tụng bàiTâm kinh và niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm. Ngay lập tức không những mấy người Hồ kia liền thay tâm chuyển ý, không còn muốn giết ngài, mà ngược lại họ còn vui vẻ, xin ngủ chung với ngài.

3. Khi ngài Huyền Tráng vượt qua tám trăm dặm đường dài trên sa mạc, suốt khoảng thời gian ấy, ngài không gặp một ai để xin cơm mà chỉ là một bãi sa mạc mênh mông không bóng người. Cuộc hành trình phải mất năm ngày bốn đêm liên tục, vậy mà không có một giọt nước thấm môi, ngài và con ngựa vì thiếu nước nên đã ngã quỵ giữa sa mạc hoang vu. Lúc ấy không còn cách gì khác, ngài thầm nguyện cầu Bồ-tát Quán Thế Âm, Huyền Tráng nguyện:“Huyền Tráng tôi đi chuyến này không phải vì cầu tài lợi, không mong danh dự, mà chỉ vì chánh pháp vô thượng mà thôi! Ngưỡng mong Bồ-tát thương tưởng đến quần sinh; Ngài đã nguyện lấy việc cứu khổ làm hạnh nguyện, đối với nỗi khốn khổ này, há ngài không biết sao?”

Cầu nguyện xong, đến giữa canh năm, bỗng nhiên có luồng gió mát thổi vào thân ngài, rồi một cảm giác sảng khoái xuất hiện khắp cơ thể, như ngài vừa được ngâm mình trong nước lạnh, toàn thân khoan khoái vô cùng và mắt ngài từ từ sáng trở lại. Con ngựa cũng từ từ đứng dạy, ngài tiếp tục lên đường. Đi được vài dặm, con ngựa bỗng nhiên đi qua một lối rẽ, dù ngài cố ghìm cương lại nhưng nó vẫn không chịu dừng lại. Bất lực, ngài đành để mặt tình để cho nó tự do đi.

Đi được vài dặm ngài trông thấy mấy mẫu cỏ xanh rì và cả một hồ nước trong ngần hiện ra trước mắt. Lúc đó ngài mới biết người ngựa đã được cứu giúp, mạng sống thoát khỏi cơn hiểm nguy, thân thể một lần nữa được bảo vệ, che chở an toàn. Từ đó, ngài biết cỏ và nước kia chẳng phải sẵn có mà chính là do lòng từ bi của Bồ-tát Quán Thế Âm biến hoá ra.

Vì sao Bồ-tát Quán Thế Âm còn gọi là Quán Tự Tại?

Theo nguyên nghĩa tiếng Phạn tám chữ “A-phược-lô-chỉ-đế-thấp-phạt-la” hợp lại thì có nghĩa là “Quán Chiếu Túng Nhiệm” hay “Quân Chủ.” Có nghĩa là Quán chiếu vạn pháp và vận dụng một cách tự tại. Ngày nay chúng ta có thể dựa vào cách giải thích của đại sư Thái Hư. Đại sư Thái Hư giải thích: “Vì Bồ-tát Quán Thế Âm có trí tuệ Bát-nhã soi thấy tính chất của năm uẩn là không thật, cho nên ngài hay cứu khổ, cứu nạn. Người bình thường chấp ngũ uẩn, thế giới là ngã. Vì họ không thể soi thấy đặc tính của ngũ uẩn đều không thật, cho nên họ cho là có mình, có người, có nhân, có ngã. Nếu như có thể soi thấy tính chất của ngũ uẩn đều là không thật thì cái gọi là nhân, ngã, phải, trái đều có thể tiêu trừ. Nếu thật sự đã đạt được trạng thái không còn phân biệt nhân, ngã thì mới có thể cứu khổ cứu nạn cho mọi người. Có như thế mới có thể trở thành Vô Ngã Đại Bi Trí; mới có thể hoàn thiện nhân cách vĩ nhân đại chí công vô tư và mới phát huy hết công năng cứu khổ cứu nạn”.

Trong thực tế, danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát được nói rất nhiều trong hệ thống kinh đại thừa. Các kinh thuộc về Hiển giáo nói về vị Bồ-tát này như: kinh Thành cụ quang minh định ý; kinh Duy-ma-cật; kinh Phóng quang Bát-nhã; kinh Quang tán Bát-nhã; kinh Đại bửu tích, quyển 82 và quyển 100; kinh Lăng nghiêm, quyển 6; kinh Hoa nghiêm, quyển 51, cựu dịch; kinh Hoa nghiêm, quyển 68, tân dịch; kinh Bi hoa; kinh Địa tạng; kinh Đại A-di-đà, quyển thượng; kinh Vô lượng thọ, quyển hạ và kinh Quán vô lượng thọ .v.v..

Những kinh thuộc Mật giáo có nói đến vị Bồ-tát này là: kinh Kim cang khủng bố tập hội phương quảng quỹ nghi quán tự tại bồ-tát tam thế tối thắng tâm minh vương; kinh Đà-la-ni tập; kinh Nhất thiết công đức trang nghiêm; kinh Thanh tịnh quán thế âm phổ hiền đà-la-ni; kinh Bồ-đề tràng sở thuyết nhất tự đảnh luân vương; kinh Đại phương quảng mạn thù lợi; kinh Đại nhật kinh sớ, quyển 5; kinh Thiên quang nhãn quán tự tại bồ-tát bí mật pháp; kinh Lý thú; kinh Tối thượng căn bản đại nhạc kim cương bất không tam muội đại giáo vương; kinh A-lợi-mật-đà-la-ni-a-lỗ-lực; kinh Bất không quyên tố thần biến chân ngôn .v.v..

Từ đó cho chúng ta thấy cả Mật giáo lẫn Hiển giáo đều rất xem trọng Bồ-tát Quán Thế Âm và rất đặc biệt tôn kính, ngưỡng mộ vị Bồ-tát này. Mặt khác, ở Trung Quốc phẩm Phổ môn của kinh Pháp hoa và Tâm kinh Bát-nhã được truyền bá, tụng đọc vô cùng rộng rãi.

Nội dung trong phẩm Phổ môn chủ yếu nói về sự hóa hiện ra đủ các loại thân hình để cứu giúp những chúng sinh phàm phu khi chúng sinh gặp phải những khổ nạn trong sinh hoạt hằng ngày.

Riêng Tâm kinh Bát-nhã chỉ nói về pháp môn tu hành của Bồ-tát Quán Thế Âm. Đó là Bồ-tát nhờ vào quán sát chúng sanh, vũ trụ đều là vì pháp duyên sanh, không có thật tính mà chứng được lý thể tuyệt đối. Từ đó phát sinh tinh thần đại từ đại bi cứu thế.

Chính vì Bồ-tát có bi nguyện sâu dày, cảm ứng rộng lớn như thế cho nên từ nhiều đời đến nay trong truyện sử Phật giáo thuật về sự tích tín ngưỡng, linh cảm của Bồ-tát Quán Thế Âm có thể nói nhiều vô kể, không sao chép ra đây hết.

Các truyện nói về sự linh nghiệm của Bồ-tát như: truyện Pháp uyển châu lâm; truyện Tỳ-kheo ni; Lương cao tăng truyện; Danh tăng truyện sao; Đường cao tăng truyện; Xuất tam tạng ký tập; Hoằng minh tập; Quán âm nghĩa sớ; Pháp hoa nghĩa sớ; Biện chánh Luận; Hoằng tán Pháp hoa truyện; Pháp hoa kinh truyện kí; Tam bảo cảm thông yếu lược lục; Vãng sinh tập; Tống cao tăng truyện; Phật tổ thống ký; Thuyết phu; tiểu thuyết Ngũ triều; cựu tiểu thuyết Thái bình ngữ lãm; Kim thạch tục thiên .v.v.. những sách này đều có ghi lại rất nhiều về sự linh cảm của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Có thể nói, bắt đầu từ thời Bắc Nguỵ (386-534), tín ngưỡng Phật giáo mới xuất hiện ở Trung Quốc. Vì thế, căn cứ kinh nghĩa và lấy mốc thời gian này, chúng ta có thể xác định được những tác phẩm đã sáng tác trước như: Cao vương quán âm kinh. Những tác phẩm sáng tác sau thời Bắc Nguỵ gồm có: kinh Quán thế âm Bồ-tát cứu khổ; kinh Quán thế âm thập đại nguyện; kinh Quán thế âm Tam-muội; kinh Quán thế âm vịnh thác sinh. Trong số những tác phẩm vừa nêu trừ hai tác phẩm Cao vương quán âm kinh và Quán thế âm Bồ-tát cứu khổkinh hiện còn, những tác phẩm khác hầu như bị thất truyền. Nhưng tôi khuyên mọi người chớ cho rằng những hệ thống kinh điển do người Trung Quốc biên tập này hoàn toàn không có linh nghiệm.

Về điểm này, tám năm trước trong tạp chí Phật giáo ngày nay kỳ thứ 41viết: “Văn tự dù chỉ tạm dùng để trình bày thánh hiệu chư Phật và Bồ-tát, nhưng tất cả đều bắt nguồn từ kinh điển, vì thế đừng cho là không có linh nghiệm”.

Ví dụ như bộ Đại bi sám pháp là bộ sám pháp tôi có được đầu tiên và tôi cũng đã nhiều lần xem đi xem lại. Nếu nói tên gọi đầy đủ của bộ sám pháp thì phải nói là “Thiên thủtThiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni sám pháp”.

Bộ này ra đời vào triều đại nhà Tống, do đại sư Từ Vân sám chủ Tuân Thức căn cứ theo bản kinh Thiên thủcủa ngài Già-phạm-đạt-ma dịch mà viết thành. Chúng ta tuyệt đối không thể nói nghi thức sám pháp do vị tổ sư soạn thành không có linh nghiệm. Vì sự thật như bộ sám pháp trên là một bộ sám pháp cực kì linh nghiệm và sự linh nghiệm đạt đến mức “hữu cầu tất ứng”, là một sự thật không thể bàn cãi.

Chính vì lòng tin Bồ-tát Quán Thế Âm được phổ biến khắp nơi và ảnh hưởng đến đại đa số quần chúng như vậy, cho nên trong dân gian Trung Quốc người ta đã dùng Bồ-tát Quán Thế Âm để làm đề tài viết tiểu thuyết. Bộ tiểu thuyết ra đời sớm nhất có tên gọi làQuán thế âm đắc đạo, hay còn gọi là tiểu thuyết truyền kỳ Đại hương sơn.

Nói về bản tiểu thuyết này, đối với người có chút ít hiểu biết về Phật học thì ai cũng biết nội dung, quan điểm của nó hoàn toàn hư cấu, không chính xác. Nhưng tính đến nay, bản tiểu thuyết này đã được cải biên thành nhiều bộ phim hoạt hình, phim truyện rất hay.

Năm ngoái ở Hương Cảng công ti điện ảnh Thiệu thị lại cho ra đời một bộ phim với tựa đề là “Quán Thế Âm”. Bộ phim này cũng dựa vào bộ tiểu thuyết Quán thế âm đắc đạo cải biên thành.

Nội dung bộ tiểu thuyết này phần lớn nói về một vị vua tên là Diệu Trang. Nhà Vua sinh được ba nàng công chúa. Cô công chúa lớn thích tài viết văn và đã chọn được một phò mã có tài văn chương. Cô công chúa thứ hai lại thích võ thuật và cũng đã cưới được một phò mã giỏi võ nghệ. Riêng cô công chúa có tên Diệu Thiện chỉ thích tu hành học Phật. Nàng nhân hậu, hiếu thảo, trinh tiết, từ bi thương vật, quên mình vì người. Sau đó, nàng đến một Đại Hương Sơn tu hành thành chính quả.

Truyền thuyết này có nguồn gốc từ tác phẩm Nhữ châu chí. Nhữ Châu là một địa danh thuộc tỉnh Hà Nam, từ thời Dân Quốc về sau đổi thành huyện Lâm Nhữ. Bộ chí thư này chủ yếu nói về cha của Quán Âm, tên Sở Trang Vương, mà tên của bộ tiểu thuyết lại đổi thành Diệu Trang Vương. Có lẽ vì thế mà tình tiết câu chuyện Quán Âm Cảm Thông lục .v.v.. không được in trong kinh sách Phật giáo nên dẫn đến tình trạng không thể tin là có thật. Nhưng quyển sách này có ảnh hưởng rất lớn trong dân gian Trung Quốc.

Mặt khác, nguyên tắc giáo dục chung cho mọi người ở Trung Quốc là lấy nhân nghĩa, hiếu thảo, từ bi làm đầu; như vậy câu chuyện này đối với Phật giáo hoàn toàn không có gì trái nghịch.

Nhưng vì sự tích linh cảm của Quán Thế Âm Bồ-tát trong dân gian phát triển ngày một tăng cho nên có người phát tâm lấy những sự tích này biên tập trở lại cho nên mới dẫn đến sự lệch lạc như thế.

Đầu tiên là Tạ Đội ở Cối Kê và Lục Trừng ở Ngô quận, hai người cùng nhau soạn bộ Quán âm nghiệm ký. Lục Cao soạn bộ Tục quán âm ứng nghiệm truyện. Vương Diễm soạn bộMinh tường ký. Vào đời Tống, Lưu Nghĩa Khánh ở Lâm Xuyên soạn bộ Tuyên nghiệm nghĩa ký. Đến đời nhà Thanh, Chu Khắc Phục soạn bộ Quán âm kinh trì nghiệm ký và tác phẩm Quán âm từ lâm tập của ngài Hoằng Tán .v.v..

Gần đây có những tác phẩm ra đời, điển hình như: Chẩm dạng tri đạo hữu Quán Thế Âm bồ-tát (Vì Sao Biết Có Quán Thế Âm Bồ-tát), của pháp sư Từ Hàng. Bộ này được sưu tầm từ bộ Từ Hàng pháp sư toàn tập, quyển thứ chín. Đông Sơ Lão pháp sư ở Gia sư sáng tác bộ Cứu thế đại bi giả. Pháp sư Chử Vân sáng tác bộ Phổ đà sơn truyền kì dị văn lục. Ngoài ra còn có tác phẩm ký lục qua hai lần khai thị của Lão pháp sư Ấn Thuận, khi ngài trụ trì chùa Thiện Đạo cũng rất có giá trị. Ngày nay kết tập lại thành tập văn từ cuốn sách có tên là Ngoan thạch điểm đầu.

Ngoài những tác phẩm như đã vừa nêu, còn có nhiều tác phẩm có liên quan đến phẩm Phổ môn do các pháp sư giảng ký, chú thích, dịch thuật kết tập thành. Tất cả những tác phẩm thuộc thể loại này đều có ghi lại rất nhiều về sự tích linh cảm của Bồ-tát Quán Thế Âm.

 

2. Đạo Tràng Của Quán Thế Âm Bồ-Tát

Cuối cùng, Bồ-tát Quán Thế Âm là người như thế nào? Họ gì? Ở đâu?

Thiết nghĩ những điều này chắc chắn có rất nhiều người đang chờ đợi và mong muốn được biết! Và việc trước tiên nếu gặp được mặt Ngài chắc họ sẽ hỏi quý tánh, đại danh và thân thế gia đình ra sao? Sau đây, tôi xin giới thiệu cùng mọi người về Bồ-tát Quán Thế Âm thông qua các kinh, qua lời thuật của người xưa, hay bằng những bài giảng có ghi chép về Ngài.

Kinh Bi hoa ghi: “Bồ-tát Quán Thế Âm là một pháp thân Đại sĩ nhất sinh bổ xứ ở Tây phương Cực lạc thế giới. Ngài là một vị Bồ-tát sẽ thành Phật tiếp theo sau đức Phật A-di-đà. Trong thời gian đức Phật A-di-đà còn đang ở địa vị tu nhân thì ngài là một vị Chuyển luân thánh vương. Là vị Thái tử lớn trong một nghìn người con, tên là Bất Huyễn. Sau khi Thái tử xuất gia có hiệu là Quán Thế Âm. Đức Phật A-di-đà nhập diệt rồi ngài sẽ thành Phật hiệu là Nhất Thiết Quang Minh Công Đức Sơn Vương Như Lai. Thuở ấy, cõi nước của ngài tên là Nhất Thiết Trân Bảo Sở Thành Tựu Thế Giới.

Ngoài ra, các kinh Đại A-di-đà, kinh Vô lượng thọ và kinh Quán thế âm thụ ký .v.v… cũng nói Bồ-tát Quán Thế Âm thường sát cánh bên đức Phật A-di-đà ở thế giới Tây phương Cực lạc. Ngài thờ đức Phật A-di-đà làm thầy và phụ giúp Phật A-di-đà giáo hoá chúng sinh.

Kinh Quán vô lượng thọ ghi: “Cái mũ báu mà Quán Thế Âm Bồ-tát đội có hình đức Phật A-di-đà. Nếu chúng sinh nào phát nguyện sanh về Cực lạc thì lúc sắp lâm chung có đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm và các vị thánh .v.v… đồng đi đến thế giới ấy, tay cầm đài sen tiếp dẫn cho người đó được vãng”. Vì thế có thể nói đạo tràng căn bản của Bồ-tát Quán Thế Âm là ở thế giới Tây phương Cực lạc.

Nhưng theo kinh Hoa nghiêm ghi lại, tự thuật quá trình Thiền Tài Đồng Tử đi tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức. Vị đại thiện tri thức thứ hai mươi tám mà Thiện Tài tham vấn chính là Bồ-tát Quán Thế Âm.

Truyện kể rằng: “PhíaNamẤn Độ có ngọn núi tên là Bổ-đát-lạc-ca, có một vị Bồ-tát trụ ở đây, tên là Quán Tự Tại. Ngọn núi ấy nằm giữa biển và do các loại báu vật kết hợp tạo thành, vô cùng thanh tịnh; hoa quả, cây cối đầy cả núi. Cũng có suối nước chảy, những hồ nước trong lành và được phân bố khéo léo, hài hoà. Bồ-tát Quán Thế Âm ngồi kiết già ở đó và vô lượng Bồ-tát cung kính vây quanh lắng lòng nghe Bồ-tát Quán Thế Âm thuyết pháp Đại Từ Bi.

Những gì kinh sách ghi lại cho chúng ta biết thêm đạo tràng của Bồ-tát Quán Thế Âm cũng ởNamẤn Độ ngay tại cõi Ta-bà của chúng ta đây.

Nhưng đối với giới bình dân Trung Quốc thì họ cho rằng Bồ-tát Quán Thế Âm không phải ở Tây Phương Tịnh Độ, cũng không ở Nam Ấn Độ mà là Bồ-tát đang cư ngụ tại núi Phổ Đà, huyện Hải Định, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.

Địa danh Nam Hải, Phổ Đà Sơn thực chất bắt nguồn và chịu ảnh hưởng từ địa danh Bổ-đát-lạc-ca mà trong kinh Hoa nghiêm đã nói.

Sau đây sẽ trình bày sơ lược về các bản dịch của kinh Hoa nghiêm để minh chứng cho việc này.

Bản dịch của ngài Phật-đà-bạt-đà-la, dịch vào đời nhà Tấn, 60 quyển. Bản dịch của ngài Thật-xoa-nan-đà, dịch vào đời Đường, 80 quyển. Bản dịch của ngài Bát-nhã, 40 quyển. Như vậy, có cả thảy ba bản dịch về kinh Hoa nghiêm.

Thậm chí Phổ Đà Sơn ở huyện Định Hải, tỉnh Chiết Giang vốn tên là Mai Sầm.

Vào đời xưa, Trung Quốc và các nước như Nhật Bản, Cao Lệ (Triều Tiên) v.v… qua lại với nhau, phần đông đều lấy ốc đảo này làm nơi neo thuyền, đợi đến lúc có gió rồi mới căng buồn đi tiếp.

Đến nhà Hậu Lương đời Ngũ Hồ, năm Trinh Minh thứ hai (416), có một vị Tăng người Nhật Bản tên là Tuệ Ngạc đến Trung Hoa cầu pháp thỉnh được một tôn tượng Quán Thế Âm, vị Tăng này định mang về Nhật Bản cúng dường. Nào ngờ thuyền của vị ấy khi đi qua quần đảo Đơn Sơn lại bị sóng to gió lớn làm cho chuyến hồi hương bị trở ngại. Truyện kể lại rằng: Lúc ấy mặt biển bỗng nhiên mọc lên vô số hoa sen bằng sắt làm cho thuyền không tiến về phía trước được. Vì thế bắt buộc phải thỉnh thánh tượng lên một hòn đảo nhỏ, dựng một thảo am để cúng dường. Bồ-tát Quán Thế Âm rất có duyên với hòn đảo này. Lâu ngày nhiều người bắt đầu biết và họ đến đây lễ bái ngày một đông. Và cuối cùng nơi này đổi thành tên là Phổ Đà Sơn. Ngày nay nơi đây trở thành một trong bốn đại danh sơn của Phật Giáo Trung Quốc. Nghĩa là ngoài Phổ Đà Sơn chỗ mà đức Quán Thế Âm Bồ-tát cư ngụ còn có các địa danh như: Ngũ Đài Sơn là nơi Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát cư ngụ; Nga Mi Sơn là nơi Phổ Hiền Bồ-tát cư ngụ; Cửu Hoa Sơn là nơi Bồ-tát Địa Tạng cư ngụ. Đây là bốn danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Trung Quốc.

Theo tín đồ Phật giáo Tây Tạng thì họ cho rằng dân tộc Tây Tạng là do Bồ-tát Quán Thế Âm hóa hiện ra. Lịch sử đất nước Tây Tạng có kể về một vị vua và một vị Cao Tăng nổi tiếng. Cả hai con người này đều là hoá thân của Bồ-tát Quán Thế Âm. Như ngày nay đức Đạt-lại-lạt-ma vẫn được tin là do Quán Thế Âm quyền hiện ra. Họ tin thế giới như một đoá hoa sen mà Lạp Tát của Tây Tạng là trung tâm của hoa sen và cũng chính là Tịnh Độ của Quán Thế Âm. Cho nên chỗ ngồi của đức Đạt-lại-lạt-ma ở gọi là Bố-đạt-lạp cung. Gọi Bố-đạt-lạp thì cũng giống như Trung Quốc gọi Phổ Đà Sơn. Cả hai danh xưng này đều xuất phát từ tiếng Phạn là Bổ-đát-lạc-ca mà ra.

Chúng ta ai cũng biết dân tộc Tây Tạng ngoại trừ Phật giáo thì không có văn hoá. Hay nói cách khác, nhân dân Tây Tạng nếu không có Bồ-tát Quán Thế Âm thì hoàn toàn không có tín ngưỡng Phật giáo. Cho nên người Tây Tạng dù không thể tiếp thụ tính hệ thống của giáo dục Phật giáo giống như Lạt-ma mà họ chỉ cần có một vị Quán Thế Âm Bồ-tát thì cũng đủ để an ủi họ rồi.

Chúng ta còn được biết trong Phật giáo có sáu chữ Đại minh vương chú “Án-ma-ni-bát-di-hồng”. Câu thần chú này được trì tụng rất thạnh hành ở Trung Quốc. Cách đây không lâu, vào đời nhà Nguyên theo sự sùng tín Đạt-ma giáo của người Mông Cổ mà câu thần chú này từ Tây Tạng được truyền vào khắp đất nước Trung Hoa.

Ở Tây Tạng nhà nhà đều biết sáu chữ Đà-la-ni của Quán Thế Âm. Người dân Tây Tạng đều cho rằng trì tụng lục tự chân ngôn này có thể đạt được công hiệu không thể so lường, tính kể. Cho nên, trong các cuộc lễ hội, mọi người cùng nhau trì tụng mãi không dứt câu thần chú này. Còn những khi bình thường mà gặp phải tai nạn thì họ cũng hay trì tụng chơn ngôn này.

Như vậy, cuối cùng đạo tràng của Bồ-tát Quán Thế Âm ở đâu? Ở Ấn Độ, ở Chiết Giang, Trung Quốc hay ở Lạp-tát Tây Tạng? Có thể nói đây là một câu hỏi lớn mà chưa có lời giải đáp thỏa đáng. Nhưng thật ra đối với vấn đề này đại để chúng ta không cần phải thắc mắc nhiều. Tôi (pháp sư Thánh Nghiêm) có thể tạm đưa ra một ví dụ để mọi người hiểu.

Ví dụ có một cư sĩ, anh ta là một người ở Khách Gia, huyện Mai, tỉnh Quảng Đông, nhưng lại lớn lên ở Thượng Hải. Sau đó anh ta du học ở Mỹ, đỗ thạc sĩ và tiếp tục sang Đức du học, đỗ tiến sĩ. Sau khi lấy bằng tiến sĩ, anh ta hồi hương, dạy học, viết sách tại một trường đại học ở Bắc Bình. Đến thời kì kháng chiến anh ta lại đến Trùng Khánh phục vụ trong quân ngũ. Khi Đại Lục bị xâm lăng anh ta và chúng tôi cùng ở tại đảo Bảo Đài Loan. Anh ta là một thiên tài ngôn ngữ học. Anh ta có thể sử dụng thông thạo tiếng Khách Gia, tiếng Quảng Đông, tiếng Thượng Hải, tiếng Bắc Bình, tiếng Tứ Xuyên và cả tiếng Đài Loan. Ngoài ra anh ta còn sử dụng thông thạo các ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha.

Về lãnh vực tín ngưỡng tôn giáo, cũng có mấy lần anh ta thay đổi tín ngưỡng. Đầu tiên khi còn thanh niên anh ta không tin theo bất cứ tôn giáo nào cả. Nhưng trong thời gian đang du học ở Mỹ anh ta theo Cơ Đốc giáo. Đến Đức anh ta chuyển sang tin Thiên Chúa giáo. Khi sang Đài Loan anh ta lại chọn Phật giáo để kí thác tâm linh. Như vậy, cuối cùng anh ta tin theo tôn giáo nào?

Bây giờ tôi xin hỏi quý vị rốt cuộc vị cư sĩ kia quê quán ở đâu? Nói tiếng gì? Theo tôn giáo nào? Đương nhiên chúng ta có thể nói quê quán anh ta ở Quảng Đông, là tín đồ của Phật giáo. Nhưng như vậy có thể nói một cách đầy đủ về anh ta chưa? Bởi vì như trên đã nói, suốt cuộc đời anh ta từng ở rất nhiều nơi khác nhau, tiếp xúc, sinh hoạt trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Tương tự như vậy, Bồ-tát Quán Thế Âm cũng tuỳ lúc, tuỳ duyên hóa hiện ở rất nhiều nơi khác nhau. Vì lẽ đó nên Bồ-tát mới có thánh hiệu là Quán Tự Tại. Có nghĩa là Bồ-tát có khả năng xem xét những mong cầu của chúng sinh mà tuỳ cơ ứng hiện đến bất cứ nơi nào, lúc nào để cứu giúp họ.

Theo Thiên Thư Đà-la-ni v.v… ghi lại Quán Thế Âm Bồ-tát chính là hiện thân của đức Phật quá khứ Chính Pháp Minh Như Lai. Từ rất xa xưa, ngài đã là một vị Cổ Phật, nhưng vì hạnh nguyện cứu độ chúng sinh nên ngài mới hiện thân Bồ-tát.

Tóm lại, dù Bồ-tát Quán Thế Âm ở cõi Tây Phương Cực lạc thì đó cũng chỉ là phương tiện quyền biến hoá hiện ra thôi. Chứ chẳng phải đạo tràng cố định của ngài ở Tây Phương Cực lạc, huống chi ở thế giới Ta-bà này!

Đức Phật lấy toàn pháp giới, ngang thì trùm khắp mười phương, rộng thì tận cùng ba cõi làm lý thể. Bồ-tát Quán Thế Âm dù hiện thân Bồ-tát nhưng ở trong kinh điển thuộc hệ Mật giáo đã ghép Bồ-tát Quán Thế Âm và đức Phật A-di-đà lại thành một. Và cho rằng Bồ-tát Quán Thế Âm là nhân tướng của đức Phật A-di-đà; đức Phật A-di-đà là quả đức của Quán Thế Âm. Cho nên người tu tập theo pháp môn cầu sanh Tịnh độ của đức Phật A-di-đà công đức do niệm thánh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm và Phật A-di-đà sẽ bổ trợ cho nhau.

Như vậy, đạo tràng của Bồ-tát ở đâu? Thật sự đối với vấn đề này không cần phải thắc mắc! Chỉ cần người thực hành pháp môn Quán Thế Âm chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài thì Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ luôn luôn sẵn sàng xuất hiện ngay trước mặt mọi người. Vì thế đại sư Thái Hư nói:

Phiên âm:

Thanh tịnh vi tâm giai Bổ đát

Từ bi tế vật tức Quán Âm”

Tạm dịch:

Tâm thanh tịnh là Bổ-đát

Lòng từ cứu vật chính đức Quán Âm.

 

3. Sự Thị Hiện Của Bồ-tát Quán Thế Âm

Trong khóa tụng hằng ngày có một bài kệ tán thán đức Quán Thế Âm Bồ-tát gồm bốn câu như sau:

Phiên âm:

Tam thập nhị ứng biến trần sát

Bách thiên vạn kiếp hoá Diêm phù

Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ hiện

Khổ hải thường tác độ nhân chu

Tạm dịch:

Phân thân hiện khắp cõi trần,

Trăm ngàn vạn kiếp hóa nhân gian này.

Đáp lời cầu nguyện ứng ngay

Thuyền từ cứu khổ không giây tạm ngừng.

Kinh A-di-đà ghi: “Đức Phật A-di-đà thành Phật đến nay đã trải qua mười kiếp, trong khoảng thời gian mười kiếp ấy, đối với chúng sinh phàm phu ở cõi Ta-bà này mà nói, quả thật đó là một khoảng thời gian dài đằng đẵng. Nhưng so với chư Phật và Bồ-tát, thì khoảng thời gian ấy vô cùng ngắn ngủi, không đáng là bao. Chúng ta biết, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật sau khi đức Phật A-di-đà nhập diệt. Nhưng chúng ta cũng biết, tuổi thọ của đức Phật A-di-đà là vô hạn lượng. Vậy nên đến khi nào Bồ-tát Quán Thế Âm mới thành Phật?

Điều quan trọng là không sao chúng ta có thể xác định được thời điểm đức Phật A-di-đà nhập niết-bàn. Từ đó, đủ để chứng minh rằng bi nguyện độ sinh của Bồ-tát Quán Thế Âm tương đương với Bồ-tát Địa Tạng Vương. Mà đức Địa Tạng Vương thệ nguyện: “Địa ngục chưa trống không thì quyết không thành Phật; khi nào độ hết chúng sinh mới chứng Bồ-đề.” Còn Bồ-tát Quán Thế Âm nguyện cứu giúp chúng sinh trong thế gian đến khi nào đức Phật Vô Lượng Thọ nhập diệt rồi ngài mới thành Phật.

Rõ rằng! Không giống như những chúng sinh phàm phu bình thường luôn luôn mong muốn đạt đến sự vui sướng, tốt đẹp tột cùng của cá nhân. Trong lịch sử loài người, thậm chí còn có trường hợp Thái tử đã không hiếu thuận mà còn mưu sát vua cha để mình sớm được lên  ngôi.

Vì vậy, như trên vừa nói: “Trăm nghìn vạn kiếp giáo hoá ở cõi Diêm Phù đề.” Trăm nghìn vạn kiếp cũng chỉ là cách diễn đạt khác của bốn chữ “kiếp số không lường” mà thôi. Ý chỉ hạnh nguyện cứu khổ cứu nạn của Bồ-tát là vô thời hạn.

Hai chữ “Diêm Phù” chinh là chỉ cho thế giới Ta-bà mà chúng ta đang sinh sống đây.

Quán Thế Âm dùng tâm nguyện và phương pháp như thế nào để độ hết tất cả chúng sinh? Để giải thích điều này cần lập lại câu: “Ba mươi hai ứng thân biến hiện khắp nơi”.

Theo kinh Lăng nghiêm, quyển sáu, ghi: “Sở dĩ Bồ-tát hiện ra Ba mươi hai ứng thân chính là để thích ứng với mọi căn tính, mọi loài chúng sinh khác nhau, mà thuyết pháp, giáo hoá cho thuận tiện”. Những thân ấy là: thân Phật, thân Độc giác, thân Duyên giác, thân Thanh văn, thân Phạm vương, thân Đế Thích, thân Tự tại thiên, thân Đại tự tại thiên, thân Thiên đại tướng quân, thân Tứ thiên vương, thân Tứ Thiên Vương Quốc Thái Tử, thân Nhân Vương, thân Trưởng giả, thân Cư sĩ, thân Tể quan, thân Bà-la-môn, thân Tỳ-kheo, thân Tỳ-kheo-ni, thân Ưu-bà-tắc, thân Ưu-bà-di, thân Nữ chủ, thân Quốc phu nhân mệnh phụ đại gia, thân Đồng nam, thân Đồng nữ, thân Thiên, thân Long, thân Dược-xoa, thân Càn-thát-bà, thân A-tu-la, thân Khẩn-na-la, thân Ma-ha-hô-la-già, thân Nhân, thân Phi nhân (là thân do biến hoá ra hoặc có hình tướng, không hình tướng, có tưởng, không tưởng).

Phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa lại nêu ra ba mươi hai ứng thân của Bồ-tát Quán Thế Âm, nhưng thứ tự và tên gọi đại để gần giống với ba mươi ba ứng thân mà trong kinh Lăng Nghiêm đã trình bày.

Các loại thân hình ấy là: thân Phật, thân Bích-chi Phật (tức thân Duyên giác, Độc giác), thân Thanh văn, thân Phạm vương, thân Đế Thích, thân Tự tại thiên, thân Đại tự tại thiên, thân Thiên đại tướng quân, thân Tỳ-sa-môn (một trong Tứ đại thiên vương, ở Ấn Độ lại cho đó là vị Thần Tài), thân Tiểu vương, thân Trưởng giả, thân Cư sĩ, thân Tể quan, thân Bà-la-môn, thân Tỳ-kheo, thân Tỳ-kheo-ni, thân Ưu-bà-tắc, thân Ưu-bà-di, thân Trưởng giả Phụ nữ, thân Cư sĩ Phụ nữ, thân Tể quan phụ nữ, thân Bà-la-môn nữ, thân Đồng nam, thân Đồng nữ, thân Long, thân Dạ-xoa, thân Càn-thát-bà, thân A-tu-la, thân Ca-lâu-la, thân Khẩn-na-la, thân Ma-hầu-la-già, thân nhân và phi nhân thân Chấp kim cang thần v.v…

Theo bản kinh Pháp hoa bằng tiếng Phạn được phát hiện gần đây, thì trong kinh chỉ nói có mười sáu thân hình mà thôi, đó là: thân Phật, thân Bồ-tát, thân Duyên giác, thân Thanh văn, thân Phạm thiên, thân Đế Thích, thân Càn-thát-bà, thân Dạ-xoa, thân tự tại thiên, thân Đại tự tại thiên, thân Chuyển luân vương, thân Quỷ thần, thân Tỳ-sa-môn, thân Tướng quân, thân Bà-la-môn, thân Chấp kim cang thần.

Sở dĩ những hoá thân mà các kinh như vừa nêu số lượng nhiều ít chênh lệch nhau là vì trong quá trình phiên dịch, truyền tụng, hoặc ghi lại đầy đủ, hoặc ghi giản lược, hoặc có chỗ thêm, có chỗ lại bớt đi mà thôi. Những điều này đối với lòng từ bi hoá hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm hoàn toàn không ảnh hưởng một mảy may nào. Còn đối với các kinh dù có nêu ra các thân hình, nhưng cũng chỉ nêu ra một cách sơ lược. Thực tế trên cũng chỉ vì chúng sinh thiên sai vạn biệt, cũng có thể vì theo từng thời đại, hoàn cảnh sai khác, phẩm loại bất đồng mà Bồ-tát hoá hiện ra các thân hình cũng thiên sai vạn biệt. Có thế mới thuận tiện cho việc giáo hoá, cứu giúp chúng sinh.

Như trên nói Bồ-tát có ba mươi hai thân, ba mươi ba thân và mười sáu thân, là vì để thích ứng với xã hội Ấn Độ thời ấy mà đức Phật nói vậy. Nếu như bây giờ, đức Phật ở Trung Quốc nói kinh Pháp hoa, nhất định đức Phật sẽ nói khác; hoặc lại phải thêm vào nhiều ứng thân hơn nữa, nhưng cũng có thể Phật sẽ bỏ bớt đi vài ứng thân. Bởi vì sự thật về Bồ-tát Quán Thế Âm như trên đã nêu, chính là Bồ-tát vì mỗi loài chúng sinh mà ứng hiện hóa thân. Nếu không cùng loài thì không hiện thân và Bồ-tát luôn xuất hiện trong khắp pháp giới nhiều như cát bụi.

Nói pháp giới chính là chỉ cho các loại thân tâm khác nhau của chúng sinh và cả giới hạn thời gian, không gian chúng sinh đang cư ngụ.

Quán Thế Âm Bồ-tát biến hiện nơi nơi, bình đẳng cứu giúp chúng sinh, cho nên không thể dùng thân phận hữu hạn để so lường các thân hình ứng cơ thị hiện của Bồ-tát.

Như vậy, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa câu: “Thiên xứ kỳ cầu thiên xứ hiện, khổ hải thường tác độ nhân chu”.

Nói “Thiên xứ” (nghìn nơi) ấy cũng chỉ là tính chất tượng trưng của một hình dung từ, chứ chẳng phải chỉ giới hạn trong một nghìn nơi cầu Bồ-tát thì ngài mới ứng hiện thân đến để cứu giúp, còn nhiều hơn số ấy thì ngài bặt tăm không xuất hiện. Nếu hiểu như vậy thì thật là nhầm lẫn!

Khổ hải (biển khổ) cũng không hẳn chỉ giới hạn ở trong biển mà chính là biểu trưng cho cái khổ sanh tử của chúng sinh như biển cả mênh mông không bờ bến, không thể diễn tả bằng lời được cho nên mới mượn hình tượng của biển để biểu đạt.

Ở đây xin lưu ý với mọi người rằng, đối với văn tự trong kinh điển Phật giáo mọi người chớ dùng tài năng suy xét, phân tích. Bởi vì, ý nghĩa thâm sâu trong kinh điển thường vượt  ra ngoài ngôn ngữ, văn tự bình thường.

Giảng đến nay tôi không hề gặp bất cứ một trở ngại nào, dù có rất nhiều người theo các tôn giáo bạn đặt vấn đề rằng: Quán Thế Âm Bồ-tát là người nam hay người nữ? Thậm chí gần đây các đài phát thanh, truyền hình thường đưa vấn đề này ra trước công chúng để thảo luận.

Năm tôi lên mười tuổi có lần tôi nghe song thân tôi tranh luận về thánh tượng Quán Thế Âm Bồ-tát.

Cha tôi nói:

- Quán Âm đại sĩ nhất định là một Bồ-tát nam. Bởi vì, đại sĩ có đôi chân to lớn của người nam và bàn chân cũng rất vạm vỡ.

Mẹ tôi nói:

- Bồ-tát Quán Thế Âm vốn không phải là người nam. Bởi vì, Bồ-tát thường lui tới để cứu khổ cứu nạn, cho nên nếu buộc chặt chân lại một chỗ thì chẳng khác gì đôi chân bé bỏng của tôi, tự mình còn không thể bước ra khỏi cửa, sao có thể cứu giúp cho người khác? Nhưng lý do vô cùng quan trọng đối với mẹ tôi là vì còn có rất nhiều người gọi Bồ-tát Quán Thế Âm là Quán Thế Âm nương nương, Quán Âm Lão Mẫu.  Mặt khác, Quán Âm luôn luôn chiếu cố đến người nữ. Và quan trọng hơn, không có người mẹ nào không muốn đem lại sự thông minh, trí tuệ cho con cái của mình. Kết quả, đương nhiên là mẹ tôi thắng.

Sự thật về Bồ-tát Quán Thế Âm như trong các kinh Lăng nghiêm hay phẩm Phổ môn đã nêu, vì mục đích cứu độ, giáo hóa chúng sinh, tất nhiên Quán Thế Âm có thể ứng hiện các loại thân hình người nữ; lại cũng có thể thị hiện đủ các loại thân hình của người nam. Nhưng thân tướng đích thực của Bồ-tát Quán Thế Âm chính là thân người nam, có đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Giống như tám mươi tùy hình trong kinhHoa nghiêm, quyển 68 nói: Quán Âm Bồ-tát ngự tại núi Bổ-đát-lạc-ca trong biển phíaNam Ấn Độ, cho nên mới gọi là Dũng Mãnh Trượng Phu Quán Âm Tự Tại.

Theo nghiên cứu về thánh tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ở Trung Quốc, từ đời Đường trở về trước tượng Bồ-tát Quán Thế Âm đều mang hình tướng của người nam. Từ đời Đường trở về sau, mới thấy xuất hiện tượng Bồ-tát Quán Thế Âm có dáng dấp người nữ. Sở dĩ người ta tạo tượng Bồ-tát Quán Thế Âm ra dáng người nữ vì Bồ-tát thường hiện thân người nữ để cứu độ mọi người.

Trong Quán âm cảm ứng truyện ghi: Vào niên hiệu Nguyên Hòa, thứ hai, Vua Đường Hiến Tông, ở Thiểm Hữu người ta còn chưa biết gì đến Tam Bảo. Một hôm bỗng nhiên từ trên bãi cát vàng xuất hiện một thiếu nữ nhan sắc tuyệt trần, tay cầm xâu cá đến Thiểm Hữu rao bán. Bấy giờ, có rất nhiều thanh  niên bị sắc đẹp kiều diễm của cô gái bán cá làm ngây ngất lòng, họ một mực xin cầu hôn với cô ta.

Cô gái nói: “Chỉ một mình tôi thế nào có thể cùng một lúc kết hôn với nhiều người như thế này được? Nếu trong vòng một đêm ai có thể đọc thuộc phẩm Phổ môn thì tôi sẽ kết hôn với người đó”.

Qua ngày hôm sau có tới hai mươi người đọc thuộc.

Cô gái lại nói: “Tôi cũng không thể cùng một lúc kết hôn với hai mươi người được. Vậy, nếu trong vòng một đêm mà ai đọc thuộc kinh Kim cang thì tôi sẽ đồng ý kết hôn với người ấy”.

Kết quả, qua một đêm trì tụng cuối cùng còn lại mười người thuộc lòng kinh Kim cang. Vì thế, cô gái cũng chưa thể thuộc về ai được.

Cô gái lại nói: “Nếu trong một đêm ai có thể đọc thuộc lòng kinh Pháp hoa thì người ấy là chồng tôi”. Cuối cùng chỉ có một thanh niên họ Mã đọc thuộc lòng kinh Pháp hoa. Nhưng thật không sao ngờ được, vào ngày tân hôn trọng đại ấy, khi người con gái vừa mới bước vào đến cửa nhà chồng nàng bỗng nhiên phát sốt nặng và tử vong. Chốc lát sau thân thể nàng thối rã, không ai dám nhìn, chỉ có người thanh niên họ Mã kia một mình vội vàng tẩm liệm và mai táng thi thể của nàng. Nhưng trong lòng chàng ta vô cùng đau buồn. Mấy ngày sau, có một vị tăng đến khuyên anh ta mở quan tài ra xem thử. Khi quan nấp tài được mở ra thì anh ta hết sức ngạc nhiên vì trong quan tài không có tử thi của vợ mình. Vị tăng kia liền nói cho anh ta biết: “Đây không phải là nương tử bán cá mà ngươi từng gặp, thật sự nàng ta là hiện thân của Bồ-tát Quán Thế Âm đấy!” Nói vừa dứt lời vị tăng kia cũng biết mất.

Vì trong các hình tượng ứng hiện của Bồ-tát Quán Thế Âm có hình tượng người nữ mang tên Ngư Lãm Quán Âm mà trong kinh Pháp hoa hiển ứng  lục gọi là Mã Lang Quán Âm. Ngoài ra, trong các tác phẩm ghi lại sự tích ứng nghiệm của Bồ-tát Quán Thế Âm kể về Bồ-tát hiện thân người nữ còn có rất nhiều. Vì sao Bồ-tát Quán Âm thường hay hiện thân người nữ?

Thứ nhất: Vì từ trước đến nay những khổ nạn của người nữ so với người nam bao giờ cũng nhiều hơn.

Thứ hai: Bản tính của người nữ là từ hòa và nhẫn chịu. Ví dụ như tình thương bao la của người mẹ không bao giờ tìm thấy có ở nơi người cha. Vì thế Bồ-tát Quán Thế Âm ứng hiện thân người nữ chính là nhờ vào tánh hay chịu khó, chịu khổ của người nữ để nói tinh thần nhẫn nại của Bồ-tát Quán Thế Âm; mượn lòng yêu thương bao la của người mẹ để thể hiện cho sự từ bi vô bờ bến của Bồ-tát. Đặc biệt là chính vì hiện thân người nữ mới dễ dàng len lõi vào quần chúng phụ nữ rộng độ cho những phụ nữ nhiều khổ nạn. Đồng thời, trong kinh nói: “Trước dùng móc ham muốn kéo ra, rồi sau mới làm cho vào trí Phật”. Thị hiện thân người nữ thì có thể dễ dàng độ cho người nữ và trẻ em. Ngoài ra thị hiện thân người nữ xinh đẹp cũng có thể độ người nam. Điển hình như trường hợp hiện Ngư Lam Quan Âm vừa nói trên là một ví dụ. Thị hiện thân người nữ lớn tuổi mới có thể gần gũi với mọi người.

 

4. Hình Tượng Của Bồ-Tát Quán Thế Âm

Bồ-tát muốn thị hiện trong chốn nhân gian, nhất định hình hài cũng phải giống với người thường. Có khác hơn chăng nữa, tướng mạo cũng chỉ thanh lịch hơn, xinh đẹp hơn người bình thường đôi chút mà thôi. Nếu không như vậy, Bồ-tát không thể gần gũi mọi người được; hoặc ngược lại, dù mọi người có tôn kính, ngưỡng mộ cũng không dám thân gần với Bồ-tát. Thông thường khi Bồ-tát hiện thân độ người, người được độ không khi nào biết được mà họ chỉ phát giác khi sự việc đã xong. Cho nên trong lúc đang hành sự rất hiếm ai nhận ra đó là sự ứng hiện của Bồ-tát.

Vì thế, từng có một tín đồ Cơ đốc giáo đến chùa hỏi một vị pháp sư: “Phật giáo của các anh giảng về Từ-bi, vì sao tượng Quán Thế Âm lại có một nghìn mắt, nghìn tay, trong tay lại cầm các loại binh khí thời cổ đại; đối với những người yếu vía, như thế há chẳng phải họ bị Bồ-tát làm cho hoảng sợ sao? Nếu Bồ-tát thật sự có hình tướng như thế thì ngài cũng nên đổi cách trang bị mới cho mình bằng đại pháo, tên lửa, xe tăng, bom nguyên tử, há chẳng phải so với những loại binh khí cổ đại, những binh khí thời hiện đại có uy lực lớn hơn không? Tôi tin tất cả chư vị đang có mặt ở đây phần đông đều theo tín ngưỡng Phật giáo, như vậy đứng trên lập trường Phật giáo chư vị phải giải thích như thế nào?”

Lúc ấy, vị pháp sư bị cật vấn bình thản nói với vị tín đồ Cơ đốc giáo rằng: “Phật giáo của chúng tôi có mặt khắp nơi, và phần nhiều dùng phương pháp tượng trưng. Đặc biệt, Phật giáo đã dùng cách tôn thờ thánh tượng Phật và Bồ-tát để làm biểu tượng tín ngưỡng. Nhưng Phật giáo không đồng hóa thánh tượng với Phật và Bồ-tát là một. Như vậy, tượng Bồ-tát Quán Thế Âm nghìn tay, nghìn mắt cũng chỉ là một cách biểu trưng mà thôi.

Nghìn tay là tượng trưng cho Đại từ bi nguyện lực của Bồ-tát Quán Thế Âm. Dù cho chúng sinh trong toàn vũ trụ cũng một lúc cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm ngài cũng cùng một lúc dùng nhiều cách khác nhau để cứu độ tất cả chúng mà không hề bỏ sót một ai.

Rõ rằng! Dù nói ngài có một nghìn tay còn không thể mường tượng cụ thể và trọn vẹn tất cả hiệu lực cứu giúp của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Thiên nhãn là tượng trưng cho trí tuệ vô hạn của Bồ-tát Quán Âm. Có thể cùng một thời điểm mà ngài biết tất cả những mong cầu của chúng sinh trong khắp vũ trụ và dùng những phương pháp cứu tế khác nhau. Nếu căn cứ vào năng lực quán sát thực tế của ngài mà nói thì dù nói ngài có nghìn mắt cũng không thể hình dung một cách tường tận trí tuệ của Bồ-tát. Những binh khí mà Bồ-tát cầm có lạc hậu hay không điều đó hoàn toàn không đáng để chúng ta thảo luận.

Về lai lịch nghìn tay, nghìn mắt, theo kinh Đại bi tâm Đà-la-ni có ghi: “Vào thời quá khứ, sau khi được đức Phật Quán Âm Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ chỉ dạy Bồ-tát phương pháp trì tụng chú Đại Bi, ngài đã phát đại nguyện: ‘ Nếu đời sau tôi là người có thể làm lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh nguyện cho thân tôi khi mới sinh ra có đủ nghìn tay, nghìn mắt’. Vì đã phát nguyện như vậy nên sau khi sinh ra ngài có đủ nghìn tay, nghìn mắt.” Thực chất đây cũng chỉ là một cách tượng trưng cho đại nguyện lực, đại trí tuệ của Bồ-tát mà thôi.

Tuy nhiên, nếu dùng thần thông lực của Bồ-tát mà hóa hiện ra thân hình có nghìn tay, nghìn mắt, việc ấy cũng không phải khó khăn gì đối với Bồ-tát. Cho nên, vào những thời điểm cấp bách, Bồ-tát có thể hiển hiện những thân hình khác nhau. Đó cũng không phải là chuyện lạ.

Như vào đời vua Lương Vũ Đế, Trung Quốc có ngài Bảo Chí Đại sĩ, bấy giờ cũng có danh họa Trương Tăng Dao. Bảo Chí Đại sĩ đứng trước mặt họa sĩ hiện ra hình tượng Quán Thế Âm có mười hai khuôn mặt khác nhau. Giả sử lúc ấy, Trương Tăng Dao nhận lệnh vua Lương Võ Đế phải vẻ hình ảnh Bảo Chí Đại sĩ, chắc chắn không thể nào ông vẻ được!

Về hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm trong kinh Lăng nghiêm, quyển 6 ghi: ngài có bốn tay, sáu tay, tám tay, mười tay, mười hai tay, mười bốn tay, bốn mươi tay, một trăm lẻ tám tay, một nghìn tay, mười nghìn tay, tám vạn bốn nghìn cánh tay. Và có hai mắt, ba mắt, bốn mắt, chín mắt, cho đến một trăm lẻ mắt, nghìn mắt, mười nghìn mắt, tám vạn bốn nghìn mắt.

Vì Bồ-tát Quán Thế Âm ứng hiện các thân hình như vậy nên kinh điển Phật giáo cũng nêu ra nhiều thân hình khác nhau cả về số lượng và phẩm loại.

Luận Ma-ha chỉ quán, quyển hai nói có sáu vị Quán Thế Âm như: Đại Bi Quán Thế Âm, Đại Từ Quán Thế Âm, Thiên Nhân Trượng Phu Quán Thế Âm, Đại Phạm Phàm Viễn Quán Thế Âm, Sư Tử Vô Úy Quán Thế Âm và Đại Quang Phổ Chiếu Quán Thế Âm.

Trong Chư Tôn chân ngôn nghĩa sao nói có mười lăm loại tượng Quán Thế Âm. Trong kinh Thiên quang nhãn quán tự tại Bồ-tát bí mật nói, có hai mươi lăm loại tượng Quán Thế Âm. Nhưng thông thường nhất là theo tác phẩm Phật tượng Bồ-tát vựng nói, có ba mươi ba loại tượng Bồ-tát Quán Thế Âm.

Những cách phân loại, số lượng này đều có nguồn gốc từ các lần biên tập mà ra. Điển hình như tượng Ngư lam quán âm vào đời Đường như trên đã trình bày; sự tích này vì mới xuất hiện sau các lần kết tập kinh điển nên không được chép vào kinh điển là điều hiển nhiên.

Pháp môn Quán Thế Âm rất nhiều, nhưng đại để tạm chia làm hai môn: Hiển môn và Mật môn.

Mật môn phần nhiều sử dụng phương pháp Quán tưởng. Tức là cần phải giữ ba nghiệp thân, khẩu và ý cho thanh tịnh. Người tu học theo pháp môn này cần phải có thầy hướng dẫn và thường là được thầy trực tiếp truyền dạy. Trong khi tu hành cần phải cúng dường, quán tưởng và thực hiện các nghi lễ của đàn tràng v.v… Đặc biệt, pháp môn này không thể chỉ thực hiện trong một thời gian ngắn mà có thể mong được thành tựu hoàn mĩ.

Trái lại, Hiển môn thì không câu nệ hình thức, không lệ thuộc thời gian, không phân biệt thầy trò, quan trọng là sự hành trì phải được đảm bảo tính liên tục, như thế nhất định sẽ có hiệu nghiệm. Vì thế, tôi khuyên mọi người nên tu tập theo pháp môn Quán Âm Hiển Pháp.

 

 

5. Pháp Môn Của Quán Thế Âm

Sau đây xin giới thiệu cùng mọi người pháp môn tu hành Quán Âm, mong mỗi người tự chọn cho mình pháp môn thích hợp để hành trì và cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ-tát gia hộ tất cả mau thành tựu đạo quả.

5.1. Pháp môn Nhĩ Căn Viên Thông của kinh Lăng Nghiêm

Đây là phương pháp tu định phát tuệ. Pháp môn này được rút ra từ quyển thứ sáu, kinhPhật đảnh thủ lăng nghiêm.

Kinh ghi: “Bấy giờ có đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Quán Thế Âm. Ta ở chỗ đức Phật kia phát tâm bồ đề. Đức Phật kia dạy Ta ba pháp Văn, Tư và Tu, nhờ đó mà nhập vào Tam ma địa (đại định). Mới đầu từ trong văn đi vào dòng quên lãng, rồi cái gọi là nhập ấy cũng đã vắng lặng cho nên hai tướng động tịnh đương nhiên không sanh. Cứ như thế tăng dần, chủ thể nghe và đối tượng nghe đều dứt, không trụ vào sự chấm dứt và sự nghe, giác và cái giác đều không, không và giác hoàn toàn tròn đủ, không và cái không đều diệt, sanh và diệt cũng đã diệt, tịch diệt hiện tiền, bỗng nhiên vượt ra khỏi thế và xuất thế gian, mười phương tròn sáng, đạt được hai điều thù thắng.

Một, trên thì hợp với mười phương chư Phật, bản tâm diệu giác cùng với Phật Như lai đồng một từ lực.

Hai, dưới thì hợp với tất cả chúng sinh trong sáu đường ở mười phương, cùng với chúng sinh đồng một đường Bi ngưỡng”.

Đây là một pháp môn tu tập mà cấp bậc, thứ tự vốn không rõ ràng. Đối với người mới thực hành chắc chắn khó có thể nắm được yếu lĩnh của nó. Cho nên, khi tôi dạy cho  những người mới bước đầu tu học, tôi gọi pháp môn này là Văn thinh âm pháp, và chia ra làm bốn bước.

a. Chuyên chú lắng nghe tất cả âm thanh, không có ý nghĩ lựa chọn, không phân biệt đối tượng, từ lớn đến nhỏ, từ gần đến xa không dùng nhĩ căn để nghe mà để cho âm thanh tự nhiên tìm đến.

b. Biết mình đang nghe âm thanh và cũng có âm thanh được mình đang nghe. Lúc ấy hoàn toàn chỉ có âm thanh và mình đang giao thoa nhau mà không có bất cứ ý nghĩ gì khác.

c. Duy nhất chỉ có âm thanh mà quên bẵng bản thân mình. Bản thân mình dung nhập vào trong âm thanh không còn phân biệt, không còn giới hạn.

d. Âm thanh và bản thân đều song vong, song chiếu. Song vong là không có trong, không có ngoài, không có mình, không có người. Song chiếu là vẫn rõ ràng phân minh. Cho nên Tứ thiền, Bát định của thế gian chỉ còn cảnh giới Độc đầu ý thức và Diệt thọ tưởng định của Tiểu thừa.

Trải qua bốn cấp bậc này đối chiếu với pháp môn Nhĩ căn viên thông của kinh Lăng nghiêm và tiếp tục dụng công tu hành.

5.2. Pháp Môn Thấy Tính Chất Của Năm Uẩn Đều Không Của Bát-Nhã Tâm Kinh

Mở đầu Tâm kinh ghi: “Khi Bồ-tát Quán Tự Tại thực hành và hiểu thấu đáo về Bát-nhã-ba-la-mật-đa liền thấy tính chất không thật của năm uẩn, cho nên ngài vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc của khổ”.

Pháp môn Quán Âm này là pháp môn căn bản của cả tiểu thừa lẫn đại thừa và cũng là nguồn giáo lý nền tảng của đại thừa.

Chính là dùng phương pháp phân tích, quán sát chúng sinh và hoàn cảnh chung quanh chúng sinh cư ngụ; bao gồm cả thế giới vật chất của sắc pháp lẫn thế giới tinh thần của tâm pháp, ngài thấy tất cả đều không thoát ra ngoài ngũ uẩn. Sắc pháp của vật chất chính là thân thể của chúng sinhvà hoàn cảnh mà thân thể nương tựa sinh sống hoạt động.

Thế giới tinh thần của tâm pháp chính là hoạt động của tâm lý và động nhân, động lực, kết quả động của tâm lý. Kết quả này lại tạo thành một vòng tuần hoàn động nhân khác. Danh từ chuyên môn của Phật học gọi là Tâm niệm hay Thức. Thông thường động xuất phát từ nhân và động đều thường sinh ra quả. Tác dụng của động trong thời gian đó gọi là tạo nghiệp. Kết quả của tạo nghiệp gọi là nghiệp lực cảm thọ quả báo.

Nếu chúng sinh quán sát rõ ngũ uẩn tạo thành thế giới, chẳng phải chân thật, không thường còn, từ đó không còn khởi tham lam, sân hận, chấp trước v.v… vì không còn chấp trước nên trong chốc lát liền thoát khỏi buồn rầu, khổ não. Vì tham lam, sân hận đã đoạn trừ nên không còn tiếp tục tạo nghiệp, không còn sinh tử xoay vần triền miên. Giả sử đang ở trong vòng sinh tử nhưng cũng đã hoàn toàn xa lìa tất cả khổ.

Bồ-tát Quán Tự Tại dùng trí tuệ thâm sâu thấy thấu suốt vào các pháp ngũ uẩn thế gian chỉ là không. Hàng tiểu thừa biết không nhưng còn chấp vào hữu (có), cho nên mới cầu vượt ra khỏi thế gian. Còn hàng Bồ-tát chứng không, ngay cả không cũng không có, cho nên mới phát nguyện đi vào đời. Hàng phàm phu chưa chứng được ngũ uẩn đều không, cho nên luyến tiếc thế gian, mê hoặc, đã không biết đi về đâu, mà lại chấp trước đủ điều, phiền não dẫy đầy.

5.3. Pháp Môn Trì Danh Của Phẩm Phổ Môn Trong Kinh Pháp Hoa

Phẩm Phổ môn ghi: “Phật dạy Bồ-tát Vô Tận Ý: Thiện nam tử! Nếu có  vô lượng trăm nghìn vạn ức chúng chịu các khổ não, nghe tên của Bồ-tát Quán Thế Âm rồi nhất tâm xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, lập tức Bồ-tát xem xét những âm thanh kia và cứu giúp cho đều được giải thoát”.

Nếu xưng niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, dù vào trng lửa cũng không bị lửa đốt cháy, vào trong nước không bị nước cuốn trôi, ác quỷ tránh xa, dụng cụ hành hình tự huỷ, giặc cướp rút lui, trừ tất cả chướng ngại, khỏi tất cả nạn tai, mãn tất cả nguyện, thành tựu tất cả phước đức và tùy loại ứng hiện, hóa thân khắp nơi, cứu khổ cứu nạn, không cầu không ứng.

Đây là pháp môn bình dị và gần gũi với mọi người ai ai cũng có thể tu tập, có thể thực hành bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào và hiệu nghiệm cũng vô cùng rõ ràng. Quan trọng là phải trì tụng cho bền lòng, lòng tin phải tha thiết, dù lúc nhàn rỗi hay khi bận rộn cũng đều có thể thực hành pháp môn niệm danh hiệu này.

5.4. Trì Tụng Chú Đại Bi Theo Tinh Thần Kinh Đại Bi Tâm Đà-La-Ni

Kinh này thuộc hệ thống kinh của Mật giáo, cũng là một mật pháp đơn giản, dù không có thầy truyền dạy nhưng mọi người đều có thể tu trì. Cho nên,  trong kinh ghi: “Bồ-tát Quán Thế Âm lại bạch Phật rằng: Thế Tôn! Con nhớ vô lượng ức kiếp về quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Thiên Quang Vương Tĩnh Trụ Như lai. Đức Phật Thế Tôn kia vì thương tưởng đến con và tất cả chúng sinh mà nói kinh Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà-la-ni này”. Đức Phật ấy dùng cánh tay sắc vàng xoa đầu con và nói như thế này: “Thiện nam tử! Ông nên trì tụng tâm chú này và làm lợi ích cho tất cả chúng sinhtrong đời ác ở vị lai”. Lúc ấy con mới trụ vào sơ địa, vừa nghe bài chú ấy liền vượt lên tới địa thứ tám.”

Bài chú này Bồ-tát Quán Thế Âm nghe được từ đức Phật Thiên Quang Vươn Tĩnh Trụ trong vô lượng ức kiếp trước. Khi vừa mới nghe bài chú này, Bồ-tát từ địa thứ nhất liền chứng tới địa thứ tám. Ngoài ra, Bồ-tát còn nhận lời chỉ dạy của đức Phật truyền lại cho tất cả chúng sinh trong đời ác vị lai. Vì bài chú này có thể làm lợi lạc lớn cho chúng sinh.

Về sau, Bồ-tát Quán Thế Âm lại ở trước vô lượng đức Phật, trong vô lượng pháp hội nghe lại bài chú này. Nhờ tụng trì bài chú này nên khi Bồ-tát sinh ra bất cứ đâu cũng được gặp Phật, cũng do hoa sen hóa sinh.

Nên kinh ghi: “Nếu người nào tin sâu, không chút nghi ngờ và dốc lòng trì tụng chú này sẽ được vô lượng lợi lạc. Như lúc sắp lâm chung được chư Phật ở mười phương để hỗ trợ, không đọa vào ba đường ác, sanh về cõi nước của chư Phật, được vô lượng tam-muội biện tài, đời hiện tại có cầu mong chi đều được toại nguyện, chuyển thân gái thành thân trai, diệt được tội nặng do xâm phạm tổn hại của thường trụ, có thể trừ được mười tội ác và năm tội ngỗ nghịch; trừ được các tội như chê bai chính pháp, hủy bán người, tội phá trai, phạm giới, tội phá tháp, phá chùa, tội trộm vật dụng của tăng già, tội làm nhơ phạm hạnh v.v… Đồng thời có thể đạt được mười lăm thứ thiện sinh và trừ mười lăm loại ác tử.

Lại nói tướng mạo của thần chú này chính là tâm đại bi, tâm bình đẳng, tâm vô vi, tâm không nhiễm trước, tâm không quán, tâm cung kính, tâm khiêm nhường, tâm không tạp loạn, tâm vô kiến thủ, tâm vô thượng bồ-đề. Cho nên người trì tụng chú này có thể thông hiểu kinh sách của ngoại đạo, có thể trị được tám vạn bốn ngàn thứ bịnh ở thế gian, có thể hàng phục tất cả thiên ma quỷ thần, có thể khống chế sơn tinh, li, mị, võng, lượng và có thể cảm được tất cả thiện thần, long vương, Kim cang lực sĩ, thường theo bên mình bảo vệ.

Người trì chú này không luận thời gian, không gian, nếu có bất cứ điều gì lo sợ, tai nạn gì, nguy hiểm gì, lạc đường, bệnh tật, phiền não nghiệp chướng chắc chắn có thể ứng nghiệm hóa giải. Cho nên gọi là vô ngại đại bi cứu khổ, diên thọ, diệt ác thú, phá ác nghiệp chướng, viên mãn, tùy tâm tự tại và chóng lên thượng địa.

Đại bi tâm chú này còn gọi là Đại bi chú, tổng cộng có tám mươi bốn câu, được chép lại trong các kinh thường tụng, ở đây xin không chép lại.

Theo điều kiện của kinh thì người tụng trì chú này cũng có những tiêu yêu cầu cần thiết như: phải phát Bồ-đề rộng lớn độ hết tất cả chúng sinh, thân phải trì trai giữ giới. Đối với chúng sinh phải khởi tâm bình đẳng thường tụng chú này không gián đoạn và cần phải đốt đèn trong tịnh thất, tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, treo phan đốt đèn, hương hoa và các loại ẩm thực; các thứ như vậy dâng cúng Quán Thế Âm. Sau đó nhiếp tâm tư duy không khởi tạp niệm, thọ trì đúng như pháp. Qui định này cũng chính là nghi quỹ. Nếu có thể như pháp như nghi quỹ tụng trì đương nhiên hiệu nghiệm lớn vô cùng.

Nếu không thì tối thiểu cũng nên có tâm cung kính và chuyên chú tụng trì chú này. Nếu có thể cung kính, chuyên chú tụng trì thì nguyện những gì cũng đều thành tựu cả.

5.5. Lục Tự Đại Minh Chú

Lục đại minh chú chính là câu chú: “Án ma ni bát di hồng” được lưu truyền ở Trung Quốc. Vào đầu nhà Nguyên câu chú này theo chân các nhà truyền giáo của Mật giáo Tây Tạng và Lạt-ma truyền vào đất Hán. Cho nên, trước nhà Nguyên trong kinh điển Phật giáo vẫn chưa thấy xuất hiện câu chú này. Đến đầu nhà Thanh câu chú này mới được ghi lại  trongThiền môn nhật tụng cùng với chín bài chú ngắn khác.

Trong các phạm vi giáo hóa của Lạt-ma giáo Tây Tạng, Mông Cổ, câu chú này trở thành pháp môn trì tụng của giới bình dân Phật tử. Ngoài ra, câu chú này là một câu thần chú tiêu biểu mà Bồ-tát Quán Thế Âm vận dụng để làm lợi ích cho chúng sinh trong sáu đường.

5.6. Bạch Y Đại Sĩ Thần Chú

Thời điểm ra đời và lưu truyền của bài chú này xuất hiện rất muộn. Không biết nó xuất phát từ kinh nào, do ai dịch! Đại khái, nó cũng có nguồn gốc từ sự hóa hiện của Đại sĩ và trở thành một pháp môn được ai  đó thọ trì, nhưng không phải được truyền dịch từ Ấn Độ. Câu chú ấy nói về các vị thần như là: Thiên la thần, địa la thần, nhân ly nạn, nạn ly thân, nhất thiết tai ương hóa vi trần. Câu chú này tương đương với văn hóa bình dân và gần gũi, dung hợp với tín ngưỡng dân gian Phật giáo.

Tóm lại, đó cũng là một sự quy kính Tam Bảo, quy kính Bồ-tát Quán Thế Âm, quy kính Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật. Chính là nội dung mà tín đồ Phật giáo từ xưa đến nay thường nhật vẫn hay hành trì. Cho nên, linh nghiệm phi thường vô cùng và nó được truyền tụng rất phổ biến trong dân gian.

Cách thức trì tụng thần chúng này là cứ trì tụng một vạn hai nghìn biến nguyện một lần. Nếu nguyện lần thứ nhất không thành thì phải trì tụng tiếp và nguyện lần hai, cho đến nguyện nhiều lần, nhất định sẽ thành tựu. Sau khi mãn nguyện nên in bài chú này một nghìn hai trăm bản để cúng dường.

Nội dung bài chú này là:

Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quảng Đại Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ-Tát (3 lần).

NamMô Phật

NamMô Pháp

NamMô Tăng

NamMô Cứu Khổ Cứu Nạn Quán Thế Âm Bồ-Tát

Đát-điệt-đa. Án-già-la-phạt-đa, già-la-phạt-đa, già-la-phạt-đa, la-già-phạt-đa, la-già-phạt-đa, sa-bà-ha.

Thiên la thần

Thiên địa thần

Nhân li nạn

Nạn li thân

Nhất thiết tai ương hóa vi trần

Nam Mô Ma-ha-bát-nhã-ba-la-mật.

Người ta tìm thấy chánh văn của bài chú này vào thời Đại Lục. Bài chú chỉ được chép vỏn vẹn trong một tờ giấy. Trong đó lại có in hình Bạch Y Đại Sĩ, văn chú và sáu trăm cái vòng tròn nhỏ.

Để biết số biến đã trì tụng, người ta quy định cứ tụng hai mươi mốt biến là chấm một vòng tròn nhỏ rồi theo đó mà tính số biến đã tụng.

Ngày nay có người đã tham khảo qua nghi thức trì tụng chú Đại Bi, rồi ghi vào bài thần chú này thêm phần phương pháp trì tụng và cho rằng người nào muốn trì tụng chú này trước tiên phải đến trước tượng Đại sĩ, rửa tay, đốt hương, cung kính cúng dường, chí thành đảnh lễ. Sau khi tụng xong phải phát nguyện, hồi hướng. Nếu nguyện với tâm chân, như nguyện cầu khỏi bịnh, cầu chức, cầu con, cầu sống lâu v.v… thì đều có sự ứng nghiệm.

5.7. Kinh Diên Mạng Thập Cú Quán Thế Âm

Kinh này là phần căn bản của kinh Cao vương quan âm. Kinh này bắt nguồn từ sự mộng thấy và truyền lại của người xưa.

Vào đời Đông Nguyện kinh Cao vương quán âm đã được truyền bá. Còn kinh Diên mạng thập cú quán âm xuất hiện vào niên hiệu Nguyên Gia thứ hai mươi bảy, đời Lưu Tống (năm 450).

Theo bộ Tứ minh chí bàn nghi: “Từ đời Triệu đến đời Tống, trong vòng 1269 năm, người ta soạn thành bộ Phật tổ thống kỷ, trong đó quyển ba mươi sáu ghi: ‘niên hiệu Nguyên Gia, thứ 27, Vương Huyền Mưu đi đánh phương Bắc bị thua trận, Tiêu Bàn định giết ông ta nhưng Thẩm Khanh lại can rằng: Phật Li oai chấn thiên hạ, há Huyền Mưu có thể đương đầu được sao? Giết chiến tướng cũng chỉ là tự làm yếu mình mà thôi! Nghe vậy, Tiêu Bàn mới thôi.’”

Không những Vương Mưu thoát khỏi hình phạt mà về sau ông còn làm quan đến chức Khai Phủ, sống tới năm 82 tuổi và qua đời ngay trên bàn làm việc.

Vì sao Vương Huyền Mưu gặp được sự may mắn đó? Bởi vì trước ngày chuẩn bị đưa ông ra hành hình, trong đêm trước đó ông mộng thấy dị nhân mách cho: “Nếu tụng 1000 biến kinh Quán Âm thì có thể thoái khỏi nạn chết”. Và dị nhân kia đã dạy cho ông câu kinh : “Quán Thế Âm. Nam Mô Phật, dữ phật hữu nhân, dữ phật hữu duyên, Phật pháp tăng duyên, thường lạc ngã tịnh, triêu niệm Quán Âm, mộ niệm Quán Âm, niệm niệm tùy tâm khởi, niệm niệm bất li tâm.”[4] 

Bộ kinh Quán Âm này, tuy xuất phát từ giấc mộng của người xưa, lại cũng chẳng phải được truyền dịch từ Ấn Độ. Nó chỉ có vỏn vẹn có mười câu, nhưng có đầy đủ pháp trì niệm danh Tam Bảo và Quán Âm. Cho nên từ đời Triệu, Tống cho đến nhà Thanh vẫn được phật giáo truyền tụng rất phổ biến.

Đặc biệt cùng thời với nhà Thanh ở Trung Quốc, đời Giang Hộ ở Nhật Bản cũng có thiền sư Bạch Ẩn (1685-1768) vì hoằng dương kinh này, nên thiền sư đã bỏ công sưu tầm tài liệu và đã viết ra một bộ sách có tên là Diên mạng thập cú quán âm linh nghiệm ký.

Vào thời cận đại ở Nhật Bản nổi tiếng nhất là thiền Tương Nguyên Điền Tổ Nhạc cũng có sáng tác một bộ gọi là Diên mạng thập cú quán âm linh kinh giảng thoại. Thế nhưng ở Trung Quốc lại rất ít người biết đến pháp môn này, vì thế tôi xin giới thiệu cũng mọi người pháp môn này để chúng ta cùng nhau tụng trì.

Như trên chúng ta đã trình bày bảy pháp môn, là phương tiện cứu khổ của Bồ-tát Quán Thế Âm, có sâu có cạn, có trước có sau. Như pháp môn nhĩ căn viên thông của kinh Lăng nghiêm là dùng phương pháp thiền định quán chiếu mà đạt đến sự đạt ngộ rốt ráo. Đối với pháp môn quán tính chất không thật của năm uẩn thuộc Tâm kinh, chính là dùng phương pháp quán chiếu vô thường, vô ngã, để chứng nhập thật tướng Bát-nhã.

Hai bộ kinh này chủ yếu làm cho chúng sinh quay về với pháp tính và đại được một thể, như thể của Phật; đồng thời trừ tất cả phiền não để thấy được bản lai diện mục.

Phương pháp trì danh của phẩm Phổ môn thì chú trọng đến sự cứu tế của Bồ-tát Quán Thế Âm, đặt vấn đề giải quyết những khổ đau, nạn tai hiện tại của con người lên hàng đầu ở trần gian này.

Phương pháp trì tụng chú Đại bi, tuy chú trọng đến việc giải trừ khổ hiện thực, nhưng cũng nói chính nhờ nhân trì tụng chú Đại bi đó mà được hóa sinh trong hoa sen, thường ở trước Phật.”

Công năng trì tụng Bạch Y Đại Sĩ thần chú hầu như chỉ vì mục đích đạt được lợi ích ngay đời này, cho nên pháp môn này bị dân gian hóa và phổ cập hóa.

Tóm lại, dù là pháp môn nào, không luận cấp bạc cao thấp điều quan trọng là không hủy báng Tam Bảo, không trái nguyên lí nhân quả, đều nên thọ trì, phát triển.

Đối với người tin Phật, học Phật bình dân thường phần đông đầu tiên cầu cho đời này được lợi lạc, hạnh phúc; sau là gieo trồng thiện căn và dần dần nghe hiểu Phật pháp, từ từ thăng tiến và có thể tu tập theo các pháp môn đã trình bày như kinh Tâm kinh, Lăng nghiêm .v.v…

Do đó, Bạch Y thần chú tuy gần giống với tín ngưỡng dân gian nhưng cuối cùng cũng chính là một cấp bậc, giai đoạn tu tập trong Phật pháp.

Quán Thế Âm Bồ-tát là một vị Bồ-tát có nhân cách vĩ đại và pháp môn tự độ, độ người của ngài cũng vô cùng vĩ đại. Bồ-tát thị hiện trong thế giới này với chí nguyện đến để xây dựng tình thương cho mọi người. Ngài đến để xây dựng những tình thương, hạnh phúc chứ không phải đến để phá hoại hạnh phúc. Cho nên, nếu chúng ta có thể vận dụng lòng tin và nguyện lực của mình thực hành theo Quán Thế Âm Bồ-tát, rất có thể dễ dàng tương ứng với nguyện lực của Bồ-tát Quán Thế Âm và càng dễ dàng được cảm ứng hơn. Vì thế, nếu có ai đang lúc gặp phải khổ nạn, ngay lúc ấy nghĩ nhớ đến Bồ-tát Quán Thế Âm cầu cứu, Bồ-tát chắc chắn hiện đến cứu giúp người đó. Nhưng nếu người nào thường ngày không hề niệm thánh hiệu Quán Âm, đến khi gặp nạn khổ, e rằng lúc ấy không thể nào nhớ niệm  danh hiệu ngài. Do đó, tuy nói hạnh nguyện của Bồ-tát là “hữu cầu tất ứng” nhưng nếu không người cầu thì nhất định ngài cũng không hiện ứng.

Vì thế, sự cảm ứng của Bồ-tát chính là bắt nguồn từ lòng tin và sự thành kính. Điều quan trọng là khi chúng ta niệm thánh hiệu Quán Thế Âm chớ có ý nghĩ cầu công danh lợi dưỡng. Vì Bồ-tát sẽ không bao giờ giúp cho ta việc đó. Vì sao? Bởi vì, Bồ-tát phát nguyện cao quý ấy với mục đích ngăn ngừa không cho chúng ta làm hại người để đem lợi về cho mình.

Cho nên, khi cúng dường Tam Bảo cầu phước còn phải phát tâm thanh tịnh. Nếu ai thường niệm thánh hiệu Quán Thế Âm thì nhất định Bồ-tát luôn luôn có mặt quanh người đó, tùy thời mà che chở cho họ.

Nếu có người nào muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói mà cầu nguyện ngài thì trước tiên Bồ-tát ban phát cho họ vật thực, y phục để họ được đầy đủ, rồi sau mới đem giáo pháp dạy cho họ khiến họ tu tập tăng trưởng đạo tâm. Phẩm Phổ môn có ghi: “Nếu chúng sinh nào lòng nhiều dâm dục, thường niệm và kính lễ Bồ-tát Quán Thế Am, ngài sẽ giúp cho người đó trừ bỏ lòng dâm dục. Nếu người nào hay giận hờn mà siêng năng niệm danh hiệu và cung kính Bồ-tát Quán Thế Âm thì tâm giận hờn liền nguôi ngoai. Người nào nhiều ngu si chuyên niệm danh hiệu và lễ bái Bồ-tát Quán Thế Âm thì liền được khôn lanh”.

Chùa Thiện Đạo, 17 tháng 3 năm Dân Quốc, thứ 57.

Pháp sư Thánh Nghiêm giảng

 


[1] Tông cảnh lục 宗景錄: còn gọi là Tông giám lục, Tâm cảnh lục. Đây là tác phẩm kinh lục, 100 quyển, do ngài VĨnh Minh Diên Thọ (904-975) soạn vào đời Tống, hoàn thành vào nă 961, được xếp vào Đại Chính Tạng tập 48.

[2] Vạn thiện đồng quy tập 萬善同歸: tác phẩm này gồ có 6 quyể, do ngài Diên Thọ đời Bắc Tống soạn, được  xếp vào Đại Chính Tạg, tập 48. Đây là mộ bộ sách nói rộng về tâm yếu của nhà thiền trong các kinh luật và lời giải thích của chư Tổ.

[3] Thứ Cừ Mông Tốn (386-433) lập Bắc Lương (401-439).

[4] Đại Chính Tạng kinh, quuyển 49 tờ 345

Theo Ban dịch thuật Hán Tạng Pháp Âm

Nguồn tin: www.daibi.vn