Thiền Tông Bản Hạnh - Phần VI

Thiền Tông Bản Hạnh - Phần VI
4. CHUYỆN TRẦN THÁNH TÔNG

4. CHUYỆN TRẦN THÁNH TÔNG

Tuổi Vua sáu mươi dư niên,

Nhường vị cho con là Trần Thánh Tông,

Mậu Ngọ cải hiệu Thiệu Long,

Trị vì thiên hạ tây đông an nhàn.

Trần triều dòng đức vua quan,

Những Tiên cùng Bụt thế gian khôn bì.

Cửu trùng củng thủ thùy y,

Hưng sùng đạo Bụt sớm khuya ân cần.

Trị vì nhị thập nhị xuân,

Lại toan học đạo tu thân phát lòng.

Cho con là Trần Nhân Tông,

Thay quyền kế trị nối dòng Đế Vương.

Sửa sang quốc chính kỷ cương, Cho cha du thủy du sơn tu hành.

Ở chùa Tư Phúc An Sinh,

Trì trai thế phát tụng kinh đêm ngày.

Đại Đăng quốc sư là thầy,

Thánh Tông đắc đạo, mừng thay thốt rằng:

“Tiền đăng lại điểm hậu đăng,

Mộng Bồ đề nở nhưng lòng ông cha.”

* * *

Về vua Trần Thánh Tông thì đây kể rất ít.

Tuổi vua sáu mươi dư niên,

Nhường vị cho con là Trần Thánh Tông.

Câu này có điểm sai. Tuổi vua là tuổi vua Trần Thái Tông. Theo câu trên đến hơn 60 tuổi Ngài mới nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông. Nhưng đúng ra lúc nhường ngôi cho con Ngài được 41 tuổi. Vì năm Ngài sanh là 1218 và năm Ngài nhường ngôi cho Trần Thánh Tông là 1258, tức có 40 năm, tuổi Việt là 41 tuổi. Hơn 60 tuổi là năm Ngài tịch.

Mậu Ngọ cải hiệu Thiệu Long,

Trị vì thiên hạ tây đông an nhàn.

Trần triều dòng đức vua quan,

Những Tiên cùng Bụt thế gian khôn bì.

Vua Trần Thánh Tông lên ngôi năm Mậu Ngọ (1258), cải niên hiệu là Thiệu Long, khắp cả nước đều được bình yên, người người được an nhàn.

Trong dòng họ triều nhà Trần, kể cả vua và quan đều là những bậc Tiên Phật, thế gian ít có ai bì được. Đây là lời tán thán của ngài Chân Nguyên.

Cửu trùng củng thủ thùy y,

Hưng sùng đạo Bụt sớm khuya ân cần.

Câu “Cửu trùng củng thủ thùy y” toàn là chữ Hán, chữ củng có chỗ đọc là cung. Cửu trùng là chín tầng, chín lớp (từ hàng cửu phẩm đến nhất phẩm), là chỉ nhà vua. Cung thủ là ngồi khoanh tay, thùy y là rủ áo, nghĩa là thời vua Trần Thánh Tông là thời bình yên dân chúng được an nhàn, yên ổn.

“Hưng sùng đạo Bụt sớm khuya ân cần” là hưng thịnh và kính thờ đạo Phật, ai nấy đều chuyên cần.

Trị vì nhị thập nhị xuân,

Lại toan học đạo tu thân phát lòng.

Cho con là Trần Nhân Tông,

Thay quyền kế trị nối dòng Đế Vương.

Vua Thánh Tông trị nước được hai mươi hai năm. Ngài lên ngôi năm 1258, đến năm 1278, tính ra như hai mươi năm, rồi Ngài nhường ngôi lại cho con là Trần Nhân Tông.

Sửa sang quốc chính kỷ cương,

Cho cha du thủy du sơn tu hành.

Ở chùa Tư Phúc An Sinh,

Trì trai thế phát tụng kinh đêm ngày.

Sau khi nhường ngôi, Ngài du sơn du thủy, dạo nơi này nơi kia, lo tu hành. Ngài tu ở chùa nào? - Chùa Tư Phúc là chùa ở trên núi Côn Sơn, thuộc làng An Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Hải Dương ngày nay.

“Trì trai thế phát tụng kinh đêm ngày” là trì trai, cạo tóc, ở đấy đêm ngày tụng kinh.

Đại Đăng quốc sư là thầy,

Thánh Tông đắc đạo mừng thay thốt rằng:

“Tiền đăng lại điểm hậu đăng,

Mộng Bồ đề nở nhưng lòng ông cha.”

Khi vua Trần Thánh Tông đắc đạo, Ngài mừng, thốt lên rằng: “Tiền đăng lại điểm hậu đăng”, nghĩa là ngọn đèn trước lại mồi cho ngọn đèn sau.

“Mộng Bồ đề nở nhưng lòng ông cha”. Chữ mộng, bản năm 1932 để là một, nhưng theo ý nghĩa ở đây nói “một Bồ đề nở” nghe không ổn. Mộng Bồ đề nở là người tu mơ ước được giác ngộ, nay được giác ngộ thì điều mơ ước được thành, gọi là mộng Bồ đề nở.

“Nhưng lòng ông cha.” Nhưng là theo, nghĩa là theo đúng như lòng ông cha.

Ông cha trước đi con đường đó, đạt được việc đó, nay mình cũng được giống như thế, đúng như đường lối ông cha đã làm."

5. CHUYỆN TRẦN NHÂN TÔNG

Này đoạn Nhân Tông kể ra:

Thánh Mẫu là mẹ lòng hòa có nhân.

Giấc hòe thoắt nhắp đêm xuân,

Chiêm bao xảy thấy thần nhân một người.

Cao cả tượng sứ nhà Trời,

Trao cho lưỡng kiếm, có lời bảo vay.

Hoàng Hậu sực thức đêm chầy,

Thấy điềm sự lạ tâu bày Thánh Tông.

Lòng vua thấy vậy cực mừng,

Bàn mộng thốt rằng: “Ấy Trời tộ ta” Từ ngày chiêm bao đã qua,

Hoàng Hậu thụ thai càng hòa tốt tươi.

Mãn nguyệt no tháng thoát thai,

Mình vàng kim sắc tướng người lạ thay.

Vua Cha thốt bảo rằng bay:

“Hai ta có đức, sinh nay Bụt vàng”.

Hữu kiên nốt ruồi bên nương,

Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bay:

Thái Tử trí cả bằng nay,

Gánh việc đại khí làm thầy mười phương.

Cha mẹ dưỡng dụ yêu đương,

Đặt hiệu cho chàng là Điều Ngự Vương.

* * *

Này đoạn Nhân Tông kể ra:

Thánh Mẫu là mẹ lòng hòa có nhân.

Giấc hòe thoắt nhắp đêm xuân,

Chiêm bao xảy thấy thần nhân một người.

Cao cả tượng sứ nhà Trời,

Trao cho lưỡng kiếm, có lời bảo vay.

Đoạn này kể về vua Trần Nhân Tông. Thánh Mẫu, mẹ Ngài là người nhân hậu. Chữ giấc hòe là giấc ngủ, thoắt nhắp: chữ nhắp có bản để là nhập, nhưng chữ nhắp ở đây đúng hơn, nhắp là mới, thoắt nhắp là vừa mới. Đêm xuân khi nằm ngủ, vừa mới nhắm mắt thì “Chiêm bao xảy thấy thần nhân một người”, bà thấy một vị thần nhân “Cao cả tượng sứ nhà trời”, to lớn như thiên sứ “Trao cho lưỡng kiếm có lời bảo vay”, trao cho hai thanh kiếm và có lời dặn dò.

Hoàng Hậu sực thức đêm chầy,

Thấy điềm sự lạ tâu bày Thánh Tông.

Lòng vua thấy vậy cực mừng,

Bàn mộng thốt rằng: Ấy Trời tộ ta"

Từ ngày chiêm bao đã qua,

Hoàng Hậu thụ thai càng hòa tốt tươi.

Hoàng Hậu chợt thức giấc, đem điềm lạ kể lại cho Thánh Tông nghe. Vua nghe qua rất đổi vui mừng, đoán biết là điềm mộng tốt nên thốt lên rằng: “Ấy Trời tộ ta”. Sau ngày Hoàng Hậu chiêm bao thấy thần nhân cho hai lưỡi kiếm rồi bà thọ thai, từ đó bà rất vui vẻ.

Đây là kể lại điềm mộng của bà, do mộng thấy thần nhân cho hai lưỡi kiếm rồi bà có thai, nên từ đó về sau bà rất vui vẻ. Mãn nguyệt no tháng thoát thai,

Mình vàng kim sắc tướng người lạ thay.

Vua Cha thốt bảo rằng bay:

“Hai ta có đức, sinh nay Bụt vàng”.

“Mãn nguyệt no tháng thoát thai”: Chữ no nghĩa là đủ, cho nên hiện nay chúng ta thường dùng hai chữ no đủ, còn thuở xưa chỉ nói là no thôi. Vì vậy no tháng là đủ tháng. Khi đủ tháng bà sinh ra ngài Trần Nhân Tông.

“Mình vàng kim sắc tướng người lạ thay”: Ngài có tướng lạ là thân sắc vàng.

“Vua cha thốt bảo rằng bay:

Hai ta có đức, sinh nay Bụt vàng”.

Vua cha rất đổi vui mừng bảo với Hoàng Hậu là nhà ta có đức mới sinh được Phật vàng.

Hữu kiên nốt ruồi bên nương,

Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bay:

Thái Tử trí cả bằng nay,

Gánh việc đại khí làm thầy mười phương.

Cha mẹ dưỡng dụ yêu đương,

Đặt hiệu cho chàng là Điều Ngự Vương.

Hữu kiên là vai bên phải, bên nương là một bên. Trên vai phải Ngài có nốt ruồi nằm một bên. Ai có nốt ruồi bên tay phải thì tốt lắm.

“Thuật sĩ xem tướng đoán lường rằng bay:

Thái Tử trí cả bằng nay,

Gánh việc đại khí làm thầy mười phương”.

Thuật sĩ xem tướng đoán Ngài về sau có trí tuệ hơn người, sẽ gánh vác việc lớn và làm thầy mười phương.

“Cha mẹ dưỡng dụ yêu đương.

Đặt hiệu cho chàng là Điều Ngự Vương”.

Đây là Điều Ngự Vương chớ không phải Điệu. Cha mẹ rất mực yêu thương nuôi nấng và đặt hiệu cho Ngài là Điều Ngự Vương tức là vua Phật. Như vậy chữ Điều Ngự Vương không phải do sau này Ngài được người tôn xưng, mà chính vua Thánh Tông đặt cho Ngài.

5.1 THÁI TỬ TRỐN LÊN YÊN TỬ

Tuổi mới mười sáu niên phương,

Vua cha định liệu cho thăng trị vì.

Điều Ngự hai phen tâu quỳ, Khiến nhường cho em trị vì thay anh.

Thái Tử lòng muốn tu hành,

Nhìn xem phú quí tâm tình dưng dưng.

Tuy ở điện bệ Đông Cung,

Lòng hằng chở nhớ tông phong nhà thiền.

Đêm khuya bóng nguyệt cài hiên,

Chiêm bao xảy thấy hoa sen mọc bày.

Có người chỉ bảo rằng bay:

“Gẫm thấy phen nầy Thái Tử có duyên.

Ấy là Phật báu hoa sen”,

Thái Tử từ ấy những nguyền ăn chay.

Mặt mũi mình vóc đã gầy,

Vua cha xem thấy, ngày rày hỏi con.

Thái Tử quỳ lạy tâu van,

Thánh Tông nước mắt hòa chan dòng dòng.

“Ai hầu nối nghiệp Tổ tông?

Tuổi cha già cả cong lòng khá thương”.

Thái Tử nước mắt đượm nương,

Phụ tử tình thâm, cảm thương thay là!

Học đạo báo ơn mẹ cha,

Đêm ấy Thái Tử thoát ra du thành.

Tìm lên Yên Tử một mình,

Đến Đông Cứu sơn, thiên minh rạng ngày.

Giả tướng lệ người thế hay,

Vào nằm trong tháp một giây đỗ dùng.

Tăng tự thấy tướng lạ lùng,

Làm bữa cơm thết cúng dàng cho ăn.

Hoàng Hậu liền tâu Minh Quân,

Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây.

Tìm đòi Thái Tử chớ chầy,

Bắt em thay trị liền tay tức thì.

* * *

Tuổi mới mười sáu niên phương,

Vua cha định liệu cho thăng trị vì.

Điều Ngự hai phen tâu quỳ,

Khiến nhường cho em trị vì thay anh.

Năm Ngài mười sáu tuổi, nhà vua định cho làm Đông Cung Thái Tử để kếvị sau này, nhưng hai phen Ngài đều thưa với vua cha xin nhường cho em thay

Ngài trị vì.

Thái Tử lòng muốn tu hành,

Nhìn xem phú quí tâm tình dưng dưng.

Tuy ở điện bệ Đông Cung,

Lòng hằng chở nhớ tông phong nhà thiền.

Đêm khuya bóng nguyệt cài hiên,

Chiêm bao xảy thấy hoa sen mọc bày.

Đoạn này nói về nỗi lòng của Ngài.

“Thái Tử lòng muốn tu hành”: Trong khi đang làm Thái Tử, Ngài đã muốn đi tu.

“Nhìn xem phú quí tâm tình dưng dưng”: Dưng dưng tức là dửng dưng.

Nghĩa là thấy giàu sang phú quí Ngài dửng dưng không bận lòng. Như vậy so với Ngài chúng ta cách Ngài bao xa? Hiện nay người tu phần lớn là do gặp cảnh không vừa ý hoặc vì lý do nào đó rồi bất mãn đi tu, còn Ngài làm Thái Tử mà xem sự giàu sang phú quí dửng dưng trong lòng, không chút bận bịu. Đó là để biểu hiện cho chúng ta thấy nơi Ngài đã có sẵn cái gì từ thuở nào rồi. Cho nên:

“Tuy ở điện bệ Đông Cung,

Lòng hằng chở nhớ tông phong nhà thiền”.

Tuy ở hàng Đông Cung Thái Tử mà Ngài luôn luôn nhớ đến tông phong nhà thiền. Chữ chở là vẫn, ngày xưa nói là chở, ngày nay đọc là vẫn, có nghĩa là luôn luôn.

“Đêm khuya bóng nguyệt cài hiên,

Chiêm bao xảy thấy hoa sen mọc bày”.

Ở bản 1932 để là kề hiên, nhưng chữ cài hiên nghe hay hơn. Đêm khuya bóng trăng rọi vào hiên, Ngài nằm ngủ chiêm bao thấy có đóa sen mọc.

“Gẫm thấy phen nầy Thái Tử có duyên.

Ấy là Phật báu hoa sen”,

Thái Tử từ ấy những nguyền ăn chay.

Nghĩa là khi Ngài mộng thấy hoa sen từ rún mọc lên, trên hoa sen lại có đức Phật hiện ra, cho nên nói đó là điềm Phật báu và từ đó Ngài phát nguyện ăn chay.

Mặt mũi mình vóc đã gầy,

Vua cha xem thấy, ngày rày hỏi con.

Thái Tử quỳ lạy tâu van,

Thánh Tông nước mắt hòa chan dòng dòng.

“Ai hầu nối nghiệp Tổ tông? Tuổi cha già cả cong lòng khá thương”.

Vì ăn chay nên mặt mũi, vóc dáng Ngài gầy ốm. Vua cha thấy thế mới hỏi lý do vì sao gầy ốm. Thái Tử quỳ lạy, tâu bày mọi việc vì Ngài ham tu, ăn chay cho nên gầy ốm. Chữ dòng dòng là ròng ròng. Vua cha nghe xong thì khóc, hai hàng nước mắt chảy ròng ròng và bảo:

“Ai hầu nối nghiệp Tổ tông?

Tuổi cha già cả cong lòng khá thương”.

Nghĩa là ta sanh ra con, mong con nối nghiệp tổ tiên, nay cha đã già, con lại gầy ốm thế này thì lấy ai nối nghiệp. Chữ cong nghĩa là trong.

Thái Tử nước mắt đượm nương,

Phụ tử tình thâm, cảm thương thay là!

Học Đạo báo ơn mẹ cha,

Đêm ấy Thái Tử thoát ra du thành.

Thái Tử thấy cha khóc cũng rướm nước mắt khóc theo, vì là tình thâm của người con đối với cha. Nhưng Ngài nghĩ học đạo là báo ân cha mẹ, nên đêm ấy, Ngài mới trốn ra khỏi thành để đi tu. Như vậy, chúng ta thấy người tu chân chính không phải là người quên ơn cha mẹ, mà chính vì nghĩ rằng muốn đền ơn cha mẹ, chỉ có tu hành đạt đạo mới đủ báo đáp thâm ân. Thế nên Ngài quyết trốn đi tu.

Tìm lên Yên Tử một mình,

Đến Đông Cứu sơn, thiên minh rạng ngày,

Giả tướng lệ người thế hay,

Vào nằm trong tháp một giây đỗ dùng.

Tăng tự thấy tướng lạ lùng,

Làm bữa cơm thết cúng dàng cho ăn.

Chữ “Đến Đông Cứu sơn” ở bản 1932 ghi là “Đến non Đông Cứu”, tôi thấy câu sau hay hơn. “Thiên minh rạng ngày” chữ rạng ở bản khác là sáng. Vì vậy câu này cần sửa lại cho thích hợp hơn là “Đến non Đông Cứu, thiên minh rạng ngày”.

Thiên minh là sáng mai. Đêm đó Ngài vượt thành đi một mình, tìm lên trên núi Yên Tử. Khi đến núi Đông Cứu, trời đã rạng sáng.

“Giả tướng lệ người thế hay”: Giả tướng là giả ra người thường dân, lệ là sợ, vì sợ người đời hay biết nên Ngài giả dạng thường dân.

“Vào nằm trong tháp một giây đỗ dùng”: Chữ đỗ là dừng lại, tức là vào trong tháp ở chùa Đông Cứu nằm nghỉ một mình trong giây lát.

“Tăng tự thấy tướng lạ lùng,

Làm bữa cơm thết cúng dàng cho ăn”.

Thầy trụ trì ở chùa thấy tướng lạ của Ngài nên làm bữa cơm để cúng dường. 

Hoàng Hậu liền tâu Minh Quân, Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây.

Tìm đòi Thái Tử chớ chầy,

Bắt em thay trị liền tay tức thì.

Khi Hoàng Hậu hay tin con trốn đi tu, liền tâu với vua rao khắp thiên hạ, phải tìm cho ra Thái Tử rồi tạm thời bắt người em thế làm Thái Tử.

5.2 TRỞ VỀ LÀM VUA VỪA TU ĐẠO

Thuở ấy Thái Tử lại về,

Vua cha nhượng vì cho trị vạn dân.

Nhị nguyệt vừa năm Mậu Dần,

Cải hiệu Thiệu Bảo, Nhân Tông trị vì.

Niệm Bụt Di Đà chẳng khuy,

Ngày thì xem trị, đêm thì tụng kinh.

Hương hoa đèn nến một mình,

Chiêu tập thiền khách vào thành mà tham.

Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ nam,

Nhân Tông tác lễ mới tham đạo thầy.

Tuệ Trung trỏ bảo liền tay:

Tức Tâm Thị Phật xưa nay Bụt truyền.

Tâm kinh vốn thấy căn nguyên,

Tâm là Nhất Tự Pháp Môn Thượng Thừa.

Tâm bao bọc hết Thái Hư,

Tâm năng ứng dụng tùy cơ trong ngoài.

Tâm hiện con mắt lỗ tai,

Hay ăn hay nói mọi tài khôn ngoan.

Tâm năng biến hóa chư ban,

Vạn pháp cụ túc, lại hoàn như như.

Nhân Tông Hoàng Đế Điệu Ngừ,

Nghe Tuệ Trung thốt, ngộ đà viên thông.

* * *

Thuở ấy Thái Tử lại về,

Vua cha nhượng vì cho trị vạn dân.

Nhị nguyệt vừa năm Mậu Dần,

Cải hiệu Thiệu Bảo, Nhân Tông trị vì.

Niệm Bụt Di Đà chẳng khuy,

Ngày thì xem trị, đêm thì tụng kinh.

Đoạn này nói khi tìm được Ngài đem về cung, Ngài vẫn giữ ngôi Thái Tử, lúc đó vua cha mới nhường ngôi cho Ngài. Nhị nguyệt là tháng hai. Tháng hai năm Mậu Dần tức là năm 1278, vua truyền ngôi lại cho Thái Tử, đổi niên hiệu Thiệu Bảo, Ngài lấy hiệu là Trần Nhân Tông. Trong khi làm vua, Ngài vẫn không quên lãng việc tu hành. Tuy tu thiền nhưng ở đây nói Ngài niệm Bụt Di Đà, vì nói vậy cho dân quê dễ hiểu. Chẳng khuy tức là không thiếu.

“Ngày thì xem trị, đêm thì tụng kinh”: Ngày thì lo trị dân, trị nước, đêm thì tụng kinh, tọa thiền.

Hương hoa đèn nến một mình,

Chiêu tập thiền khách vào thành mà tham.

Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ nam,

Nhân Tông tác lễ mới tham đạo thầy.

Đoạn này nói lẫn lộn, không rõ ràng. Nghĩa là nói Ngài niệm Phật Di Đà, nhưng ở đây lại nói:

“Hương hoa đèn nến một mình,

Chiêu tập thiền khách vào thành mà tham”.

Tức là mời các thiền khách vào trong thành để tham vấn.

“Tuệ Trung Thượng Sĩ chỉ nam,

Nhân Tông tác lễ mới tham đạo thầy”.

Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ là người chỉ hướng cho và Nhân Tông làm lễ tôn Tuệ Trung làm thầy.

Tuệ Trung trỏ bảo liền tay:

Tức Tâm Thị Phật xưa nay Bụt truyền.

Tâm kinh vốn thấy căn nguyên,

Tâm là Nhất Tự Pháp Môn Thượng Thừa.

Tâm bao bọc hết Thái Hư,

Tâm năng ứng dụng tùy cơ trong ngoài.

Tâm hiện con mắt lỗ tai,

Hay ăn hay nói mọi tài khôn ngoan.

Tâm năng biến hóa chư ban,

Vạn pháp cụ túc, lại hoàn như như.

Nhân Tông Hoàng Đế Điệu Ngừ,

Nghe Tuệ Trung thốt, ngộ đà viên thông.

Ở đây là đoạn ngài Chân Nguyên thêm. Ngài nói ngài Trần Nhân Tông được Tuệ Trung Thượng Sĩ dạy và tham vấn với Tuệ Trung, tôn Tuệ Trung là bậc thầy. Tuệ Trung chỉ dạy tức tâm là Phật, xưa nay Phật truyền như thế.

“Tâm kinh vốn thấy căn nguyên,

Tâm là nhất tự pháp môn thượng thừa”. Nhất tự tức là một chữ, pháp môn một chữ, đó là chữ tâm, là pháp môn thượng thừa.

“Tâm bao bọc hết thái hư”: Tâm trùm hết cả thái hư.

“Tâm năng ứng dụng tùy cơ trong ngoài”: Nhờ có tâm nên mới tùy cơ ứng dụng.

“Tâm hiện con mắt lỗ tai,

Hay ăn hay nói mọi tài khôn ngoan”.

Như vậy ở mắt thấy, ở tai nghe, ở miệng biết ăn biết nói, đều có tâm; nghĩa là tâm hiện tất cả chỗ.

“Tâm năng biến hóa chư ban”: Tức là tâm hay biến hóa đủ mọi thứ.

“Vạn pháp cụ túc lại hoàn như như”: Muôn pháp đầy đủ thì trở về chỗ như như. Trong đây ngài Chân Nguyên nói Thượng Sĩ dạy như vậy là theo tinh thần thiền, nhưng ở trong kia có khác một chút.

“Nhân Tông Hoàng Đế Điệu Ngừ”: Chữ Điệu Ngừ tức là Điều Ngự.

“Nghe Tuệ Trung thốt ngộ đà viên thông”: Nhân Tông nghe Tuệ Trung dạy như vậy thì Ngài ngộ được và thấu suốt tròn đầy.

5.3 NHƯỜNG NGÔI LÊN Ở CHÙA VÂN YÊN

Thuở ấy con là Anh Tông,

Nhường cho tức vị Hưng Long hiệu rày,

Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài,

Quyết lên Yên Tử tu chùa Hoa Yên.

Quần thần nghĩa sĩ dưới trên,

Đưa Vua tu Đạo thoát duyên phàm trần.

Đến chùa Long Động mới phân,

Tất trừ phiền não ái ân, phát nguyền.

Nhân Tông khắn khắn lòng tin,

Thành tâm trai giới bước lên chiền già.

Cung tần thể nữ trở ra,

Người về phối thất, kẻ ra kinh kỳ.

Mặc ai ra chợ về quê,

Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng.

Thế gian vạn sự của chung,

Sinh không, tử lại hoàn không những là.

Rày Trẫm đầu Phật xuất gia,

Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi.

Chị hầu, bà Mụ, Cung phi, Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây.

Lòng Vua thấy vậy thương thay,

Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền.

Cho nên tích để lưu truyền:

Làng Nàng, làng Mụ, phúc duyên đã chầy.

* * *

Thuở ấy con là Anh Tông.

Nhường cho tức vị Hưng Long hiệu rày.

Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài,

Quyết lên Yên Tử tu chùa Hoa Yên.

Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho con là Anh Tông. Anh Tông lên ngôi đổi niên hiệu là Hưng Long nhằm năm 1293. Tuy nhường ngôi cho con, song Ngài vẫn còn ở lại triều đình làm Thái Thượng Hoàng sáu năm, mãi đến năm Kỷ Hợi 1299, Ngài mới thật sự ra khỏi triều chính, lên núi Yên Tử chùa Hoa Yên để tu.

Quần thần nghĩa sĩ dưới trên,

Đưa Vua tu Đạo thoát duyên phàm trần.

Đến chùa Long Động mới phân,

Tất trừ phiền não ái ân, phát nguyền.

Khi Ngài quyết tâm đi tu thì quần thần, tướng sĩ đều theo đưa Ngài lên núi. Đến chùa Long Động Ngài dứt bỏ những phiền não, ái ân để phát nguyền tu hành.

Nhân Tông khắn khắn lòng tin,

Thành tâm trai giới bước lên chiền già.

Cung tần thể nữ trở ra,

Người về phối thất, kẻ ra kinh kỳ.

Mặc ai ra chợ về quê,

Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng.

Thế gian vạn sự của chung,

Sinh không, tử lại hoàn không những là.

Rày Trẫm đầu Phật xuất gia,

Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi.

Chị hầu, bà Mụ, Cung phi,

Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây.

Lòng Vua thấy vậy thương thay,

Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền.

Cho nên tích để lưu truyền:

Làng Nàng, làng Mụ, phúc duyên đã chầy. Khi Vua phát nguyện tu là Ngài đã dứt khoát tất cả để vào chùa, giữ gìn trai giới thanh tịnh. Lúc ấy cung tần thể nữ phải trở về, không được theo Ngài nữa.

“Người về phối thất kẻ ra kinh kỳ”: Phối thất là lập gia đình. Người nào muốn lập gia đình thì về lập gia đình. Ai không muốn thì trở lại cung triều tức về kinh kỳ tùy thích.

“Mặc ai ra chợ về quê”: Mặc tình ai muốn ra chợ, về quê tùy ý.

“Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng”: Hoặc làm ruộng, buôn bán hay muốn làm gì cũng được.

“Thế gian vạn sự của chung”: Thế gian muôn việc là của chung, không có gì riêng cho ai cả.

“Sinh không, tử lại hoàn không những là”: Sinh là không, tử lại cũng là không, thế thôi chớ đâu có gì khác. Vì khi sinh ra tay ta chỉ hai bàn tay trắng. Khi nhắm mắt cũng là hai tay trắng có gì theo mình được đâu mà cố giữ. Thế nên Ngài nói tất cả tùy ý ai muốn đi đâu thì đi, không có gì phải giữ lại.

“Rày Trẫm đầu Phật xuất gia,

Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi”.

Nay Trẫm là vua đi tu, trăm đường bỏ sạch không còn luyến tiếc thứ chi.

“Chị hầu, bà Mụ, Cung phi,

Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây”.

Ngài đuổi những người hầu, bà mụ, cung phi đi về, nhưng họ không chịu, muốn ở lại tu.

“Lòng vua thấy vậy thương thay,

Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền”.

Vì vậy nhà Vua động lòng thương nên truyền cho cất dãy nhà trong vùng gần núi gần rừng để các bà ở tu.

“Cho nên tích để lưu truyền,

Làng Nàng, làng Mụ, phúc duyên đã chầy”.

Hiện nay vẫn còn tên làng Nàng, làng Mụ là những xóm làng ngày xưa của các bà cung phi, bà mụ, chị hầu ở tu. Làng Nàng có chỗ gọi là làng Nường.

Như vậy chúng ta thấy Ngài có thái độ rất dứt khoát. Khi còn ở thế gian làm vua, có đủ trăm thứ ; khi đã tu thì buông bỏ tất cả không giữ gì lại riêng cho mình. Tùy ý ai muốn tu thì tu, ai muốn về nhà lập nghiệp thì về hoặc ai muốn trở lại kinh kỳ cũng được.

5.4 THÀNH ĐẠO VUA ĐI HÀNH HÓA.

Vua ngự Yên Tử bằng nay,

Tụng kinh thiền định đêm ngày cần tu. Thiên hạ phủ huyện lộ chu,

Hưng sùng đạo Bụt thành đô trong ngoài.

Thiên hạ học đạo mọi nơi,

Kiến Phật trai tăng nối đời Thiền tông.

Thì vừa Giáp Thìn niên trung,

Đầu Đà hành hóa tham lòng thế gian.

Du phương sơn thủy mọi ngàn,

Người tôn kẻ báng thế gian sự thường.

Dân phàm chẳng biết Đế Vương,

Thế đầu học đạo chẳng phương thân mình.

Dù ai dẻ dói kiêu hành,

Chứng được pháp nhẫn tâm tình vui thay.

Giảng pháp Nam Bắc Đông Tây,

Anh Tông có biểu thỉnh nay vào thành.

No mặt bách quan triều đình,

Cùng thụ giáo pháp tu hành làm nơi.

Tại gia tiệm giới tiệm trai,

Tác phúc niệm Phật thương loài chúng sinh.

Khoan nhân mẫn tuất nhân tình,

Phúc truyền con cháu hiển vinh muôn đời.

Ngày rằm mồng một chả nguôi,

Tiến dâng lục cúng Bụt trời chứng minh.

Tây phương cũng được thượng trình,

Di Đà tiếp dẫn hóa sinh Liên Đài.

Hoặc người giải thoát trần ai,

Chẳng tham phú quí, tiền tài lợi danh.

Xuất gia đầu Phật tu hành,

Quả chứng công thành cứu được tổ tiên.

* * *

Vua ngự Yên Tử bằng nay,

Tụng kinh thiền định đêm ngày cần tu.

Thiên hạ phủ huyện lộ chu,

Hưng sùng đạo Bụt thành đô trong ngoài.

Từ khi nhà vua lên tu ở núi Yên Tử, ngày đêm Ngài chỉ chuyên cần tụng kinh, tọa thiền. Nghe vua đi tu nên thiên hạ trong phủ, huyện, lộ, châu, (chữ chu là châu), ai ai cũng kính thờ đạo Phật, kể cả trong ngoài thành đô cũng vậy.

Thiên hạ học đạo mọi nơi, Kiến Phật trai tăng nối đời Thiền tông.

Thì vừa Giáp Thìn niên trung,

Đầu Đà hành hóa tham lòng thế gian.

Du phương sơn thủy mọi ngàn,

Người tôn kẻ báng thế gian sự thường.

Ngài lên núi vào năm 1299 đến nay là năm Giáp Thìn 1304, trong khoảng năm, sáu năm này, Ngài không đi đâu chỉ ở chùa trên núi tu.

“Thiên hạ học đạo mọi nơi,

Kiến Phật trai tăng nối đời Thiền tông”.

Khắp nơi mọi người đều học đạo, dựng lập điện Phật, cúng dường chúng tăng để nối dòng Thiền tông.

“Thi vừa Giáp Thìn niên trung,

Đầu Đà hành hóa tham lòng thế gian”.

Đến giữa năm Giáp Thìn, Ngài tu hạnh Đầu Đà đi giáo hóa nơi này nơi kia để truyền bá và dọ hiểu lòng người ở thế gian.

“Du phương sơn thủy mọi ngàn”: Du phương tức là dạo khắp mọi nơi nào sông, nào rừng núi, nào các bến bờ.

“Người tôn kẻ báng thế gian sự thường”: Khi đến nơi này, lúc dạo nơi kia, có người hiểu biết quí kính, tôn trọng một ông vua dám bỏ ngai vàng đi tu. Người không biết lại phỉ báng xem thường như kẻ ăn mày. Như vậy, tuy Ngài là vua đi tu mà vẫn có người tôn kính, có kẻ phỉ báng, đó là chuyện thường ở thế gian.

Dân phàm chẳng biết Đế Vương,

Thế đầu học đạo chẳng phương thân mình.

Dù ai dẻ dói kiêu hành,

Chứng được pháp nhẫn tâm tình vui thay.

Khi Ngài đi tu, dân chúng không biết Ngài là vua, nên thấy một ông thầy tu cạo tóc học đạo không thương thân mình. Chữ thế đầu tức là cạo tóc, chữ phương là hại; cạo tóc học đạo chẳng hại thân mình, chẳng hại tức là không có thương.

Như vậy người đời chỉ thấy Ngài là một thầy tu cạo tóc học đạo không thương thân mình. Nghĩa là Ngài sống rất kham khổ, không thương, không nghĩ đến thân, nên nói:

“Dân phàm chẳng biết Đế Vương,

Thế đầu học đạo chẳng phương thân mình”.

“Dù ai dẻ dói kiêu hành”: Chữ dẻ dói nghe rất khó hiểu. Dẻ dói là khinh bạc, kiêu hành tức là kiêu căng. Dầu cho ai có khinh bạc, có kiêu căng.

“Chứng được pháp nhẫn tâm tình vui thay”: Ngài được vô sanh pháp nhẫn rồi, nên chê khen hay khinh bạc Ngài cũng vui chớ không buồn, không bực. Còn chúng ta nếu được làm vua mà đi tu, có ai khinh, chắc chịu không nổi. Bởi vì tự nghĩ, ta đây thế này mà họ dám xem thường, còn Ngài là một ông vua đi tu mà bị người khinh hay bị người coi rẻ gì cũng được, đối sao cũng tốt, vì Ngài được vô sanh nhẫn rồi nên an nhiên vui vẻ. Chữ dẻ dói ở bản khác ghi là dễ dãi ; kiêu hành ghi là nhiều hàng, nghe khó hiểu. Ở đây chữ dẻ dói, kiêu hành là khinh bạc và kiêu căng ; nghĩa là có vẻ coi rẻ, khinh khi, không quí trọng.

Giảng pháp Nam Bắc Đông Tây,

Anh Tông có biểu thỉnh nay vào thành.

No mặt bách quan triều đình,

Cùng thụ giáo pháp tu hành làm nơi.

Tại gia tiệm giới, tiệm trai,

Tác phúc niệm Phật thương loài chúng sinh.

Khi nghe tin Ngài đi giáo hóa nơi này nơi kia, vua Anh Tông mới làm biểu thỉnh Ngài về để giáo hóa trong thành. Khi Ngài trở về thành.

“No mặt bách quan triều đình”: Chữ no mặt bách quan là đủ mặt bá quan trong triều.

“Cùng thụ giáo pháp tu hành làm nơi”: Tức là ai nấy cũng đều qui y, thọ giáo, tu hành.

“Tại gia tiệm giới tiệm trai”: Những người thọ giáo, tức nào là trai giới, tu theo tiệm tiến, nào là tam quy, ngũ giới v.v...

“Tác phúc niệm Phật thương loài chúng sinh”: Ngài dạy phải làm phước, phải niệm Phật, phải thương các loài chúng sinh.

Khoan nhân mẫn tuất nhân tình,

Phúc truyền con cháu hiển vinh muôn đời.

Ngày rằm mồng một chả nguôi,

Tiến dâng lục cúng, Bụt trời chứng minh.

Lời dạy này chắc là của ngài Chân Nguyên. Ngài nói:

“Khoan nhân mẫn tuất nhân tình”: Khoan là mở rộng lòng, nhân là thương yêu mọi người, mở rộng lòng thương yêu mọi người ; chữ mẫn là thương xót, chữ tuất là giúp đỡ, mở rộng lòng thương, giúp đỡ mọi người, nhân tình tức là tình đời.

Như vậy Ngài dạy phải tu bằng cách mở rộng lòng mình, thương yêu mọi người để giúp đỡ họ, đó gọi là tu. Được như vậy:

“Phúc truyền con cháu hiển vinh muôn đời”: Phúc truyền cho con cháu được giàu sang muôn đời.

“Ngài rằm, mồng một chả nguôi”: Tức là những ngày đó phải luôn luôn nhớ không thể quên.

“Tiến dâng lục cúng, Bụt trời chứng minh”: Phải dâng lục cúng để cúng Trời, cúng Phật. Lục cúng là cúng những gì? Thường thường làm lễ lục cúng, là dâng hương, đăng, hoa, quả, trà, phạn gọi là lục cúng.

Tây phương cũng được thượng trình,

Di Đà tiếp dẫn hóa sinh Liên Đài.

Hoặc người giải thoát trần ai,

Chẳng tham phú quí, tiền tài lợi danh.

Xuất gia đầu Phật tu hành,

Quả chứng công thành cứu được tổ tiên.

Đây là tư cách của ngài Chân Nguyên, chớ không phải của Sơ tổ Trúc Lâm.

Ngài Chân Nguyên nói rằng nếu người biết dâng lục cúng thì sau này:

“Tây Phương cũng được thượng trình,

Di Đà tiếp dẫn hóa sinh Liên Đài”.

Nghĩa là được về Tây Phương, được Phật Di Đà tiếp dẫn lên đài sen.

“Hoặc người giải thoát trần ai,

Chẳng tham phú quí tiền tài lợi danh”.

Người nào tu giải thoát trần ai thì không còn tham giàu sang phú quí, cả tiền tài, lợi danh, đều không tham hết.

“Xuất gia đầu Phật tu hành,

Quả chứng công thành cứu được tổ tiên”.

Nếu người tu chứng được quả thì sau này độ được tổ tiên mình. Như vậy phần căn bản của ngài Điều Ngư đi giáo hóa đã được tóm tắt lại ở phần trên.

Mục lục
Phần : I - II - III - IV - V - VI - VII - VIII - IX XI - XII

Tác giả bài viết: HT Thích Thanh Từ