Lời vàng trong mộng - Phần 1

Lời vàng trong mộng - Phần 1
Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi.

LỜI VÀNG TRONG MỘNG

Thanh sĩ Thích Huệ Duyên

****

 

Từ phương xa tiếng gà gáy rộ,

Dội vào tai liền mở mắt ra;

Xem giờ vừa đúng canh ba,

Trong lòng liền nhớ lại tòa Kim-Sơn.

Phật dạy phải cất chơn ra thế,

Cứu nhơn-gian khỏi bể ái-hà;

Đường trần đèo ải thẳm xa,

Nạn tai chồng chất quỉ ma dẫy đầy.

Con mạnh tiến đừng phai trí đạo,

Giúp được đời quí báu hơn châu;

Thảng như lâm phải nạn sầu.

12. Khuyên con mật niệm thường câu Di-Đà,

Chẳng những được trừ tà diệt quái,

Còn thoát qua khỏi ải gai chông,

Con đừng hèn nhát nơi lòng,

Tây-Phương có Phật hộ tùng ngày đêm;

Nguyện độ con gieo thêm giống thiện,

Quả Bồ đề được tiến đến nơi;

Phật khuyên con nhớ thêm lời,

Bởi cơ tận diệt người đời quá lanh.

Các thế giới chung quanh trái đất

Vì quả mùi duyên nghiệp đã thâm

Đồng sanh trong cõi tục phàm,

24. Tạo gây lắm việc hung hăng khôn lường.

Tranh lấn nhau tự cường tự bạo,

Đủ phương châm trở tráo khó đo;

“Dò sông dò biển dễ dò,

Mấy ai lấy thước mà đo lòng người”.

Câu nầy rất đúng đời mạt hạ,

Quá hiểm sâu lòng dạ thế gian.

Giết người bằng mọi kế ngoan,

Nghĩa nhơn lánh mặt đạo đàng ngơ tai.

Khắp Âu Á tranh tài đấu sức,

Tạo khí binh ác độc vô ngằn.

Khí hùng càng lúc càng tăng;

36. Tăng cho đến tột đầu săn mới dừng

Trên con đường tách chơn giáo đạo,

Sẽ gặp nhiều gió bão hãi hùng.

Yêu tinh chận đón khắp cùng,

Vậy con lấy kiếm Thư Hùng bảo thân.

Lưỡi kiếm nầy biến phân đủ phép

Con khéo dùng để dẹp tà tông;

Gặp khi yêu dụng hỏa công,

Nhẫn Bồ Đề chú khá hòng niệm ngay.

Hỏa-Vô-Yên-Tinh hay đột xuất

Động nó đều có khắp mọi nơi

Nó hay khêu tức người đời,

48. Bằng câu danh vọng hoặc lời gác cao

Gia trụ con nó vào ra dễ,

Cửa huệ môn nhớ bế cho cần.

Đầu tiên chưa vẹn trí thần;

Đôi khi hờ hỏng nó lần chen vô,

Đạo tâm khá qui mô cẩn mật,

Vững cứng như muôn vách núi đồng;

Sẽ là khỏi phải lo phòng,

Hỏa-Vô-Yên-Quái khó xông phá vào.

Tuy nhiên cũng không sao hết việc.

Còn có nhiều yêu nghiệt khác hơn,

Khắp trong thành thị thôn lân,

60. Tham-Vô-Tận-Quái chúng từng tới lui.

Từ hạng tuổi nên mười nên bảy,

Đến cấp người thành đại thành gia;

Nó thường dùng lấy phép tà,

Làm cho phút chốc mắt lòa như sương.

Nó lừa phỉnh vào đường uế trược,

Mê hồn như bị thuật thôi miên;

Tay luôn ham nắm lấy tiền,

Sát nhơn bội ước không kiêng món gì.

Hạng bần tiện thường khi đạo tặc,

Kẻ phú hào chẳng ngớt tham lam.

Tham-Vô-Tận-Quái khéo làm

72. Người đời như kẻ tục phàm đăng tiên

Từ tim não đến bên tai mắt

Nó thường hay biến các cuộc vui;

Kẻ buồn nó muốn cho nguôi,

Bày trường đổ bát với mùi tửu hoa.

Câu thắng bại khi lòa mắt tục

Tự tay mình khuấy đục giá danh;

Gái không còn trọng tiết trinh,

Ném xuân đổi bạc, gieo tình lấy ngân.

Kể gì lẽ vạn ân nhứt nhựt,

Chỉ biết câu bán tịch thiên kim;

Nó xui những kẻ hữu quyền,

84. Đoạt ngôi cướp nước mưu riêng cho mình.

Khiến cho cả sanh linh đồ thán,

Làm thần sầu người oán khắp nơi;

Nó xui người nỡ giết người,

Để mưu lấy của hoặc lời tặng khen.

Xúi nghèo khó lòng ghen phú hiển,

Mưu hại lừa để chiếm cao sang;

Gớm ghê tên quái Tham Tàn,

Khéo dùng lắm thuật mù loàn nhơn sanh.

Xui vợ nỡ phụ tình chồng khó,

Khiến chồng đem dạ bỏ vợ nghèo;

Xui con đạo hiếu không theo,

96. Riêng thân no ấm rẻ bèo mẹ cha.

Nó lại xúi nồi da xáo thịt,

Giữa gia đình cốt nhục đệ huynh;

Dẫn nhau kiện cáo tù hình,

Bởi tranh ruộng đất vì ganh của tiền.

Con ơi! Nhớ lời khuyên của Phật,

Thứ yêu nầy ác nghiệt vô cùng;

Cổ kim nào bá nào hùng,

Nó đều nắm chắc trong lòng bàn tay.

Cõi thế gian các-đài hoa-lệ,

Nội dung đầy hương quế ướp xông,

Từ ngoài cho đến bên trong,

108. Nó đều giăng bủa lưới chông dẫy đầy.

Con chú ý chớ say đừng nhiễm,

Máng đeo vào mất điểm linh quang,

Khó mong trở lại Niết-Bàn;

Đường về Cực-Lạc nẻo đàng lấp ngăn,

Con nên nhớ cửa tăng thanh đạm,

Thường ăn thô mặc tạm qua thời;

Cho nên dễ móng sự đời,

Tham-Vô-Tận-Quái đợi nơi ngày này.

Nó lần tới thuyết bày đủ lẽ,

Khiến vọng Tăng bác bẻ không ra;

Lần lần tâm loạn mắt lòa,

120. Tấm lòng phán đoán chánh tà mất đi.

Lớp vô minh ngu si phủ tới,

Xô đẩy vào đường lối nhuốc nhơ;

Lạc sai chỉ một đường tơ,

Muôn năm khó phục như xưa được nào.

Vậy con ráng gìn sao cho vẹn,

Phật đang trông thời hạn con về

Tuy rằng nhiệm vụ nặng nề,

Rán thành đạt chớ bỏ bê nửa chừng.

Nghe đến đây ta rưng nước mắt,

Liền chắp tay cúi mặt vâng lời;

Phật rằng: nầy hỡi con ơi,

132. Cõi trần nhằm buổi rốt đời Hạ Nguơn.

Cũng là ngày tạo nhân phải trả,

Như hạn kỳ vay tá đến nơi;

Không phương trì huỡn đổi dời,

Thế nào cũng phải vốn lời trả xong.

Vay một phải trả chồng năm bảy,

Càng dài lâu lời lãi càng to;

Khác gì sạ lúa trồng mơ;

Gieo ra có một hái vô gấp mười.

Thiện ác cả đôi nơi như thế,

Không lầm sai nghiêng trệ mảy nào.

Khắp trong hạ giới trần lao,

144. Ác tâm đã thạnh khí hào đang sung.

Hung thần cũng sanh trong ngũ địa,

Cậy thông minh hội khế ngũ hành;

Vui đùa trong cuộc sát sanh,

Mạng dân như thể chỉ mành treo chuông.

Các La-Hán thập phương thế giới,

Cũng hóa thân vào cõi thế gian;

Không ngừng lời lẽ khuyên can,

Chủ trương đoàn kết khai đàng tồn sanh.

Khuyên vũ khí chiến tranh ác độc,

Đem đổi làm lợi lộc cho người;

Riêng mình riêng nước riêng ngôi,

156. Vung gươm nhả đạn giết người đành ư,

Mạng như tử hình tù một loại;

Sống tợ ngòi pháo cháy mỏng manh,

Chỉ riêng tật bịnh hoành hành,

Đủ làm khổ não nhơn sanh lắm rồi.

Cuộc giết hại nên thôi chớ tạo,

Thương lẫn nhau cơm áo sớt chia;

Đừng đem cửa miệng làm bia,

Ngôn hành phải được nhứt tề mới nên.

Chư La Hán tuy khuyên lắm lẽ

Nhưng đời thường bác bẻ nhiều hơn;

Mây sầu luôn ngút cõi trần,

168. Mắt từ-bi ngắm trăm phần xót xa.

Quả đất như rắn già sắp lột,

Mạng số đời dường bọt nước sông,

Nay mai sẽ hóa thành không.

Vậy con nên sớm lập công buổi này.

Khi con lướt chông gai khuyến thiện,

Hột sen nầy Phật điểm tên con,

Nếu con đạo hạnh vuông tròn;

Hột sen nầy sẽ nở lần thêm ra.

Công đức con ấy là phân nhựa,

Giúp sen nầy được trổ thêm hoa;

Nhược bằng con ngả đường tà,

180. Hoa nầy tức héo như là đốt thiêu.

Sen với con có nhiều quan hệ,

Sức cảm thông đáo để phi thường;

Phật dù ở cõi Tây-Phương,

Ngắm sen tức biết rõ đường con đi.

Phật khuyên con nhớ ghi chặt dạ,

Cành sen nầy đợi quả con nên;

Khi về con sẽ ngồi lên,

Mười phương thường gọi rằng tên Liên-đài.

Vậy con nhớ từ đây sấn bước,

Phí phàm thân cứu vớt gái trai,

Quên khi mưa gió dạn dày;

192. Đem kỳ khắc tạm đổi ngày vĩnh miên.

Kiếm Thư Hùng Phật khuyên thêm nữa,

Con nhớ đeo chớ bữa nào thôi;

Ngoài hai thứ quái kể rồi,

Còn nhiều giống quỉ vô hồi độc sâu.

Thứ gọi Sắc-Vô-Đầu-Thượng-Quỉ,

Nó không phân ngôi vị cấp giai;

Nơi nào nó cũng vãng lai,

Xúi người dâm ái không ngày nào thôi.

Nó biến hóa đủ người đủ dạng,

Ẩn náu trong các hạng gái trai;

Trẻ già chẳng luận một ai,

204. Dễ nằm dưới sự khiến sai quỉ nầy.

Nó thường xúi tôi gây phản chúa,

Vì thông dâm ở giữa cung phi;

Chúa ăn ở lỗi đạo nghì,

Cướp con vợ kẻ hạ ty của mình.

Mê sắc đẹp sát sinh hại mạng,

Khởi đao binh gieo nạn cho dân;

Như người Trụ Kiệt chẳng ngần,

Toàn là lầm kế biến phân quỉ nầy.

Nó luyện được sợi dây phép lạ,

Bực Thần Tiên khó phá chóng mau;

Nếu tâm vọng động trần lao,

216. Nó dùng dây ấy trói nhào như chơi.

Còn đối với hạng người thường tục,

Chúng quỉ nầy trói buộc dễ dàng;

Nó làm tâm trí mê man,

Hết còn phân biệt được đàng giả chân.

Nó bắt phải lo tần lo tảo,

Mưu nọ kia xây tạo các đài,

Sắm sanh quần áo guốc giầy,

Phấn son tô điểm giồi mài khắp thân.

Gây tội ác không ngần không ngại,

Miễn được tiền trang trải nọ kia;

Não đầu đến cực độ mê,

228. Ngày đêm đều chẳng ngớt bề ưu tư.

Vợ lo chồng bị người cướp đoạt,

Phu ngờ thê kẻ khác vãn ve;

Gái trai lòng vẫn ngại e,

Sợ người yêu đổi sang bè khác đi.

Bị chia rẽ hoặc khi bội bạc,

Phát điên cuồng thần sắc kém hao;

Quên ăn mất ngủ tâm bào,

Thuốc men trăm thứ uống vào chẳng tiêu.

Nỗi khổ nầy kể sao cho xiết,

Đều do con nghiệt quỉ đó gây;

Nào ai chẳng biết khổ nầy,

240. Nhưng đâu mấy kẻ đủ tài thắng qua.

Con ơi! Phật xưa đà lắm kiếp,

Bị nó dùng dây phép trói trăng;

Song nhờ Phật sớm hồi quang,

Gươm hùng cắt đứt khổ nàn vượt qua.

Nếu khắp cõi người ta như Phật,

Sắc-Vô-Đầu-Quỉ dắt được nào;

Chơn chơn chánh chánh một màu,

Đời cao luân lý, đạo cao hạnh lành.

Cõi khổ não biến thành Cực-Lạc,

Khắp năm châu chung cuộc thanh bình,

Hết lo đến họa đao binh;

252. Những điều thất tiết phá trinh chẳng còn.

Tuy bảo thế nhưng con khá hiểu,

Nghiệp duyên đời chằng níu từ lâu;

Lo đền có mấy ai đâu,

Cứ gây thêm mãi đậm sâu nhiều người.

Vì lẽ ấy sự đời cứ rối,

Nào oán ân nào mối ghét thương,

Trừ qua cấn lại lắm đường,

Luật nhân quả cứ phán đương mỗi ngày.

Đến khi nào ai ai cũng tỉnh,

Sóng dục làm bình tịnh như nhiên;

Ngày nầy thiên hạ mới yên,

264. Hòa bình không gọi cũng liền hiện ra,

Điều nầy nếu người ta đồng muốn,

Trong khắc thời sẽ hưởng được ngay,

Đoạn nầy ta bỗng thở dài;

Khó làm cho cả nhân loài nhứt tâm,

Phật bảo: chớ lấy làm kinh hãi,

Lòng háo sanh cứ dạy chúng sanh;

Dù không được hết người lành,

Chỉ dìu một kẻ tu hành cũng nên.

Kẻ hữu duyên đã quên căn bổn,

Lo nhắc cho người sớm nhớ ra;

Một người qui hướng Phật gia,

276. Sẽ dìu hết kẻ trong nhà đều tu.

Con ráng lập công phu kỳ chót,

Chớ sanh lòng hoảng hốt đắn đo,

Gặp đường sông biển gay go;

Phật luôn chực sẵn chiếc đò từ-bi,

Con ơi! Đúng ngay kỳ mạt pháp;

Yêu tinh hay lấn áp hiền tăng,

Ít người tùng thiện qui căn;

Phần đông theo thuyết vô thần nhiều hơn.

Xưa tả đạo bàng môn phá Phật,

Nay vô thần mưu dứt giáo tông;

Chấu không chống nổi xe đồng,

288. Phật khuyên con nhớ vững lòng độ dân,

Trời hôn ám dùng thần huệ-chúc (1),

Buổi rối loàn mượn khúc tư-duy;

Phàm nhơn bất luận món gì,

Họ đều lấn cướp không chi răn chừa.

Ra đời khá muối dưa đạm bạc,

Thường tâm vô nhứt vật không tăng,

Tất là khỏi việc lấn ngăn;

Đứng, đi, ngủ, thức, nói, làm tự-do.

Sách kinh dẫu muôn pho chép để,

Cũng không ngoài nơi lẽ ấy đâu;

Vậy con chớ nhọc xa cầu,

300. Muôn điều sẵn có trong bầu tâm linh.

Suốt thâu đêm tự mình soi lấy,

Chí công tìm sẽ thấy mối manh;

Chỉ trong một phút cựa mình,

Bao nhiêu cảnh mộng tan tành còn chi.

Giác với mê chung qui có một,

Khác nào như sóng nước không hai;

Chớ nên vọng chấp bên ngoài,

Hãy dùng trí quán lại ngay trong lòng.

Ngược điều nầy tất không thấy đạo,

Chỉ luống công giúp giáo kẻ thù;

Người đời thường một bữa tu,

312. Năm mười ngày bỏ công phu chẳng cần.

Cũng tự cho là chơn Phật tử,

Đạo cứ tìm trong sử trong kinh,

Không soi lại bổn tánh mình;

Cứ quen như thế mà hành sớm trưa,

Rồi lại trách sao chưa phát huệ;

Đăm nghi ngờ kinh kệ sai ngoa,

Kệ Kinh chỉ hướng cho ta,

Cứ ngồi một chỗ dễ mà tới đâu.

Có giống sẵn không âu trồng tỉa,

Ước mơ suông há dễ được ăn;

Nhìn tay không chịu ngó trăng,

324. Lại đem ý trách cho rằng tối đen.

Đọa trần bởi theo quen lối tục,

Siêu phàm nhờ đi ngược đường duyên;

Đừng màng chúng gọi khùng điên,

Quày đầu tất quả Phật Tiên đắc thành.

Tuy phải dùng thiên kinh vạn pháp,

Vì muốn cho phù hạp tánh căn;

Chung qui có thể nói rằng,

Cũng đồng nghĩa bước ngược đàng trần duyên.

Nghe đến đây, ta liền cúi lạy,

Xin Phật thương chỉ dạy nguồn cơn;

Lành thay con hữu thiện duơn!

336. Phật bèn nói tiếp như nguồn nước trôi.

Con ơi! hiện giữa đời mạt hạ,

Có thứ yêu tên Phá-Thần-Minh;

Nó làm cho kẻ tu hành,

Trong khi thiền tịnh hay sanh tản thần,

Rồi từ đó mê dần đến ngủ;

Tâm hết còn tự chủ được thân,

Sẽ là bị nó dắt lần,

Vào trong cảnh mộng chưa từng thấy ra.

Nào lầu gác treo hoa kết tụi,

Nhiều gái xinh vừa tuổi giắt trâm;

Đứa thì mặc lối khiêu dâm,

348. Đứa thì lõa thể dễ làm say mê.

Chúng áp lại vỗ về quyến rũ,

Lời bướm ong chọc đủ dục tình;

Bất ngờ chỉ một khắc canh,

Tự tay nấu cạn thuốc linh trong lò.

Kẻ tu niệm bị xô vào đấy,

Như bướm sa vào lưới nhện giăng;

Chỉ làm mồi chúng nó ăn,

Nẻo tồn sanh hẹp lại bằng đường tơ.

Thứ yêu nầy từ xưa đã có,

Biết bao người vì nó thối tâm;

Từ Tiên rớt lại cõi phàm,

360. Nhà Tăng hoàn tục không làm chi xong.

Con ơi! Nó vô cùng ác nghiệt,

Trong khi mình chưa được tự do;

Không nên khinh suất hẫng hờ,

Khá phòng như kẻ giữ kho của tiền.

Ấy là bước đầu tiên hành đạo,

Tỏ ngộ rồi tung tháo tự nhiên;

Khi què chân bước chưa yên,

Tự dưng bỏ gậy ngã nghiêng tức thời.

Luật giới vốn là nơi tá túc,

Khá nương theo chớ phút nào rời;

Dù cho mưa nghiệp khắp trời,

372. Không làm ướt át được người trong hiên.

Lời bảo nầy con nên ghi nhớ,

Để ra đời nhắc nhở người ta;

Phá-Thần-Minh thứ yêu ma,

Mỗi khi thấy kẻ tăng già trì trai.

Nó thường xúi nhớ ngay cá thịt,

Bắt thèm thuồng kích thích muốn ăn,

Một khi kém sức nhẫn dằn,

Tự tay trở đũa, luật răn bất cần.

Giờ tịnh niệm hoặc cơn bái sám,

Khiến trong người hôn ám mỏi mê;

Dần-dà đến khắc trễ bê;

384. Hoặc là tụng niệm hơ hê lấy chừng,

Nó có phép hôn thần ám nhãn,

Ai lâm vào cuồng loạn cả tâm;

Mắt xem chẳng biết xiển thâm,

Tai nghe không hiểu đâu lầm đâu không.

Nói cứ nói rắn rồng chẳng hản,

Ý thức mờ như khoảng lê-minh;

Nó là mẹ đẻ tội tình,

Chúng sanh vì nó xuống lên Ta-bà.

Từ muôn kiếp lâu xa trở lại,

Cứ chết rồi liền tái sanh ra;

Trôi lăn trong khúc ái-hà

396. Sình lên xọp xuống kể ra sao cùng.

Việc khổ nạn chất chồng khắp đất,

Không lúc nào người được thảnh thơi,

Bốn mùa không lúc nào rời;

Đông thời lạnh lẽo, Hạ thời nóng oi.

Xuân mưa tạt, Thu trời dông tố,

Giàu nghèo đều thọ khổ như nhau;

Trong khi đói phải ăn vào,

Ăn rồi lại bắt lo nào tiêu ra.

Bao nhiêu đó cũng là thấy khổ,

Huống chi còn tật nọ tật kia;

Xác thân đòi phải trau-tria,

408. Qua cơn ăn uống tới bề mặc mang.

Giàu muốn được cao sang hơn nữa,

Nào các lầu xe ngựa ngọc ngà;

Nghèo thời tần tảo bôn ba,

Lo cơm hai bữa, lo nhà để nương.

Quên hết lúc dầm sương phản mại,

Lấn chen sao cho lại với người;

Đêm ngày nào được rảnh ngơi,

Cứ lo cho đến thở hơi cuối cùng.

Cái khổ nầy há không đáng chán,

Ngoài ra còn nhiều nạn khác hơn;

Cháy nhà hoặc bị nước dâng,

420. Chết thiêu trong lửa bỏ thân dưới triều.

Kẻ đã bị nhà thiêu nước cuốn,

Phủi sạch tay chén muỗng không còn;

Bào hao nào vợ nào con,

Ôm nhau mà khóc chớ còn biết chi.

Khổ nầy há không suy nghĩ tới,

Để lâu rồi mới hối kịp đâu;

Vậy con nhớ rõ từ câu,

Ra đời kể rõ đuôi đầu người nghe.

Kẻ thế-gian thường khoe sung sướng,

Đó là người lầm tưởng đấy thôi;

Một khi thẩm xét cạn rồi,

432. Thấy đời khổ não như ngồi tù lao.

Khổ bịnh hoạn ai nào tránh khỏi,

Đau chỗ nào cũng gọi xốn xang;

Ngày qua là một ngày tàn,

Trẻ rồi già kế bước sang tử kỳ.

Đẹp cho mấy cũng qui lại thổ,

Sang đến đâu chỉ số bá niên;

Ngày đêm tối sáng liền liền,

Mạng như than lửa khó yên trong lò.

Khổ não nói sao cho cùng được,

Người luống công mưu chước trường miên;

Chỉ làm một việc cuồng điên,

444. Có chi tồn tại cho riêng mình dùng.

Vì thân sống người trong hạ giới,

Phí công lao dùng mọi kế ngoan;

Nỡ gây ra lắm tội oan,

Nhưng thân sống chẳng bảo toàn dài lâu.

Chi bằng tạo lấy câu bác ái,

Giúp đỡ nhau bớt cái khổ nàn;

Không làm kẻ trách người than,

Sống trong hành động xóm làng kính yêu.

Lúc bình sanh tiêu diêu vô lự,

Khi tạ trần được ngự cõi thanh;

Được như thế tất an lành,

456. Đông Tây các cuộc tranh giành liền ngưng.

Các Hiền Thánh không cần giảng dạy,

Đời tự nhiên trở lại thiện lương;

Con ơi! Thiệt giả đôi đường,

Ít ai chịu khó suy lường cho ra.

Bị lậm phép của ma ngu độn,

Tự quên đi căn bổn của mình;

Bao nhiêu tâm trí quang-minh,

Trở nên đen tối tợ nhìn hang sâu.

Trong nhà đạo chấp câu vô hữu,

Ngoài trường đời bám sự ngã nhơn;

Nay nhằm thời buổi Hạ Nguơn,

468. Lòng câu nệ gấp mấy lần hơn xưa.

Chỗ nào cũng ghét ưa hai thứ,

Khiến người đời đa sự ưu tư;

Ghét thời tìm cách xa trừ,

Ưa thì lo liệu cho như ý mình.

Nó là gốc để sanh các cuộc,

Bình nó rồi sẽ được an cư;

Con ơi! Nhưng nó khó trừ,

Bởi vì đối cảnh thì người vọng tâm.

Trong lúc ấy đã làm duyên cớ,

Cho thứ nầy xen mó vào trong;

Tự chia ranh giới nơi lòng,

480. Từ đây dẫn đến tụ tòng nghiệp duyên.

Lắm kẻ rõ căn nguyên sự khổ,

Nhưng không lo hối ngộ tu thân;

Ấy vì nghiêng nặng bên trần,

Trong lòng không rảnh để gần Phật gia.

Hạng người ấy khó mà giáo độ,

Bởi kệ cơ với họ xem thường;

Từ bi vẫn sẵn lòng thương,

Nghe không cũng cứ một đường giáo khuyên.

Phật xưa đã tiếp liên nhiều kiếp,

Gánh biết bao tai nghiệp cho người

Thượng căn Phật thí bằng lời,

492. Hạ căn thí của cho người ấm no.

Nhiều lúc tự đem cho con vợ,

Giúp những người cô quả lẻ loi;

Thí thân cho cọp làm mồi,

Thí luôn cả máu cho loài quỉ ma.

Đem não óc để hòa với thuốc,

Cứu cha già trong lúc bịnh nguy;

Nói chung bất luận món gì,

Phật đều không chút tiếc chi với đời.

Việc làm ấy kể thôi vô số,

Gây duyên lành khắp chỗ mọi nơi;

Vua quan dân thứ lắm người,

504. Lánh xa tục lụy đạt ngôi Bồ-Đề.

Cũng lắm kẻ còn mê chưa tỉnh,

Phật không ngừng dùng ánh từ-quang;

Chiếu soi khắp các nẻo đàng,

Phá cơn tăm tối cứu hàng thiện duyên.

Chính con đây đang yên giấc ngủ,

Hóa mộng lành Phật phủ lấy con;

Đem về cho biết Kim-Sơn,

Một phương trong cả muôn phương Phật dùng.

Hơn nữa hiện ở trong thế giới,

Các loài yêu dấy khởi mọi nơi;

Đồng mưu sát hại người đời,

516. Bằng muôn vật quái kể thôi sao cùng.

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên