Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết

Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết

Phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết

PHỤ BẢN

Phiên âm:

THAM ĐỒ HIỂN QUYẾT

 

Nhất nhật, đường tiền tọa thứ, hốt hữu Tăng vấn:

- Phật chi dữ Thánh, kỳ nghĩa vân hà?

Sư vân:         Ly hạ trùng dương cúc,

Chi đầu thục khí oanh.

Tiến vân:       Tạ! Học nhân bất hội, thỉnh tái chỉ thị.

Sư vân:         Trú tắc kim ô chiếu,

Dạ lai ngọc thố minh.

Tăng hựu vấn: Dĩ hoạch sư chân chỉ

Huyền cơ thị như hà?

Sư vân:         Bất thận thủy bàn kình mãn khứ.

Nhất tao tha điệt hối hà chi!

Tiến vân:       Tạ!

Sư chỉ vân:    Mạc trạc giang ba nịch,

Thân lai khước tự trầm.

Tăng hựu vấn: Thiếu thất, Ma-kiệt tối huyền, tự cổ vu kim thùy kế tương vi chủ?

Sư vân:         U minh càn tượng nhân ô thố,

Khuất khúc khôn duy vị Nhạc, Hoài.

Hựu vấn:       Như hà thị đại đạo,

Căn nguyên nhất lộ hành?

Sư vân:         Cao ngạn tật phong tri kính thảo,

Bang gia bản đãng thức trung lương.

Hựu vấn:       Nhất thiết chúng sanh tòng hà nhi lai,

Bách niên chi hậu tòng hà nhi khứ?

Sư vân:         Manh qui xuyên thạch bích,

Bả miết thướng cao sơn.

Hựu vấn:       “Thanh thanh thúy trúc tận chân như.”

                      Như hà thị chân như dụng?

Sư vân:         Tặng quân thiên lý viễn,

Tiếu bả nhất âu trà.

Tiến vân:       Nhậm ma tức “không lai hà ích”?

Sư vân:         Thùy thức Đông A khứ,

Đồ trung tái bạch đầu.

Hựu vấn:       Dã hiên nhất thâm hộ,

Thùy thức đẳng nhàn xao?

Sư vân:         Kim cốc tiêu sơ hoa thảo loạn,

Nhi kim hôn hiểu nhậm ngưu dương.

Tiến vân:       Vi thập ma như thử?

Sư vân:         Phú quí kiêm kiêu thái,

Phiên linh bại thị lâu.

Hựu vấn:       Long nữ hiến châu thành Phật quả,

Đàn-na xả thí phúc như hà?

Sư vân:         Vạn cổ nguyệt trung quế,

Phù sơ tại nhất luân.

Tiến vân:       Nhậm ma tức lao nhi vô công?

Sư vân:         Thiên thượng như huyền kính,

Nhân gian xứ xứ thông.

Hựu vấn:       “Độ hà tu dụng phiệt,

Đáo ngạn bất tu thuyền.”

                      Bất độ thời như hà?

Sư vân:         Hạc trì ngư tại lục,

Hoạch hoạt vạn niên xuân.

Tiến vân:       Nhậm ma tức “tùy lưu thủy hoạch diệu lý”?

Sư vân:         Kiến thuyết Kinh Kha lữ,

Nhất hành cánh bất hồi.

Hựu vấn:       Kim khoáng hỗn giao nguyên nhất khí,

Thỉnh Sư phương tiện luyện tinh hình.

Sư vân:         Bất thị Tề quân khách,

Na tri hải đại ngư?

Tiến vân:       Quách quân nhược bất nạp

Gián ngữ diệc hề vi?

Sư vân:         Nhược dục tiên đề ẩm,

Hưu vi xảo họa xà.

Hựu vấn:       Xà tử ư lộ thỉnh Sư cứu hoạt.

Sư vân:         Nhữ thị hà phương nhân?

Tăng viết:      Bản lai sơn nhân.

Sư vân:         Tốc hồi cựu nham ẩn,

Mạc kiến Hứa Chân Quân.

Hựu vấn:       Hải tạng thao thao ưng bất vấn,

Tào Khê trích trích thị như hà?

Sư vân:         Phong tiền tùng hạ thê lương vận,

Vũ hậu đồ trung thiển trọc nê.

Tiến vân:       Nhậm ma tức bất dị kim thời dã?

Sư vân:         Ly hạ trùng dương cúc,

Chi đầu noãn nhật oanh.

Hựu vấn:       Chiêu chiêu tâm mục chi gian,

Lãng lãng sắc thân chi nội.

                      Nhi lý bất khả phân, tướng bất khả đổ, vi thập ma bất đổ?

Sư vân:         Uyển trung hoa lạn mạn,

Ngạn thượng thảo ly phi.

Tiến vân:       Tuế hàn quần miêu lạc,

Hà dĩ khả tuyên dương.

Sư vân:         Hỉ quân lai tự đạt,

Bất diệc thả hoan ngu.

Tiến vân:       Hạnh văn kim nhật quyết

Tòng thử miễn hốt vô.

Sư vân:         Thiển nịch tài đề xuất,

Hồi đầu vạn trượng đàm.

Hựu vấn:       “Niết-bàn thành nội thượng do nguy.”

                      Như hà thị bất nguy chi xứ?

Sư vân:         Doanh sào liêm mạc thượng,

Mấn phát vi thiều hành.

Tiến vân:       Nhược tao thời bách cận,

Lưỡng xứ thị hà vi?

Sư vân:         Trượng phu tùy phóng đãng,

Phong nguyệt thả tiêu dao.

Hựu vấn:       “Nhất thiết chúng sanh

Giai ngôn thị Phật.”

                      Thử lý vị minh,

Thỉnh Sư thùy thị.

Sư vân:         Khuyến quân thả vụ nông tang khứ,

Mạc học tha nhân đãi thố lao.

Tiến vân:       Hạnh mông Sư hiển quyết,

Chung bất hướng tha cầu.

Sư vân:         Khả lân tao nhất yết,

Cơ tọa khước vong san.

Hựu vấn:       Kỷ niên đa tích nang trung bảo,

Kim nhật đương trường địch diện tiền.

Sư vân:         Chỉ đãi trung thu nguyệt,

Khước tao vân vũ xâm.

Tiến vân:       Tuy văn Sư ngữ thuyết,

Thử lý vị phân minh.

Sư vân:         Tiếu tha đồ bảo trụ,

Nịch tử hướng trung lưu.

Hựu vấn:       Như hà thị nhất pháp?

Sư vân:         Bất kiến xuân sanh kiêm hạ trưởng,

Hựu phùng thu thục cập đông tàng.

Tiến vân:       Nhậm ma tức thành Phật đa dã?

Sư vân:         Tổ Long khu tự chỉ,

Từ Phúc viễn đồ lao.

Hựu vấn:       “Kiến tánh thành Phật”, kỳ nghĩa như hà?

Sư vân:         Khô mộc phùng xuân hoa cạnh phát,

Phong xuy thiên lý phức thần hương.

Tiến vân:       Học nhân bất hội, nguyện Sư tái chỉ.

Sư vân:         Vạn niên gia tử thụ,

Thương thúy tủng vân đoan.

Hựu vấn:       Ma-ni dữ chúng sắc,

Bất hợp bất phân ly.

Sư vân:         Xuân hoa dữ hồ điệp,

Cơ luyến cơ tương vi.

Tiến vân:       Nhậm ma tức thùy tha hỗn tạp?

Sư vân:         Bất thị Hồ tăng nhãn,

Đồ lao sính biện châu.

Hựu vấn:       Như hà thị xúc mục bồ-đề?

Sư vân:         Kỷ kinh khúc mộc điểu,

Tần xuy lãnh tê nhân.

Tiến vân:       Học nhân bất hội, cánh thỉnh biệt dụ.

Sư vân:         Tủng nhân thính cầm hưởng,

Manh giả vọng thiềm thừ.

Hựu vấn:       Bản tự hữu hình kiêm hữu ảnh,

Hữu thời ảnh dã ly hình phủ?

Sư vân:         Chúng thủy triều Đông hề vạn phái tranh  lưu,

Quần tinh củng Bắc hề thiên cổ qui tâm.

Hựu vấn:       Như hà thị “nhất cú liễu nhiên siêu bách ức”?

Sư vân:         Viễn hiệp Thái sơn siêu Bắc hải,

Ngưỡng phao trụ trượng nhập thiềm cung.

Hựu vấn:       “Duy thử nhất sự thật,

Dư nhị tắc phi chân.”

                      Như hà thị chân?

Sư vân:         Trượng đầu phong dị động,

Lộ thượng vũ thành nê.

Hựu vấn:       “Bất hướng Như Lai thi diệu tạng,

Bất cầu Tổ diệm tục đăng chi.”

                      Ý chỉ như hà?

Sư vân:         Thu thiên đoàn thử lệ,

Tuyết cảnh mẫu đơn khai.

Hựu vấn:       Như hà thị tối diệu chi cú?

Sư vân:         Nhất nhân hướng ngung lập,

Mãn tọa ẩm vô hoan?

Hựu vấn:       Cổ kim đại sự ưng vô vấn,

Đặc địa Tây lai ý nhược hà?

Sư vân:         Xảo ngôn lệnh sắc giả,

Toản qui đả ngõa nhân.

Hựu vấn:       “Tâm pháp song vong tính tức chân.”

                      Như hà thị “chân”?

Sư vân:         Vũ trích nham hoa thần nữ lệ,

Phong xao đình trúc Bá Nha cầm.

Hựu vấn:       Như hà thị tối diệu chi cú?

Sư vân:         Hầu lý do tồn ngạnh,

Thường cư bất khoái nhiên.

Hựu vấn:       Hữu tu hữu chứng khai tứ bệnh,

Xuất đầu hà khả thoát trần lung.

Sư vân:         Sơn cao cánh đại dung trần trữ,

Hải khoát năng thâm nạp tế lưu.

Hựu vấn:       “Duy Phật dữ Phật nãi tri tư sự.”

                      Như hà thị “tư sự”?

Sư vân:         Giáp kính sâm sâm trúc,

Phong xuy khúc tự thành.

Hựu vấn:       Bất dụng bình thường, bất dụng thiên nhiên, bất dụng tác dụng nhi kim tác thập ma?

Sư vân:         Bồng thảo thê đê yến,

Thương minh ẩn cự lân.

Hựu vấn:       Tứ đại đới lai do khoáng kiếp,

Thỉnh Sư phương tiện xuất luân hồi.

Sư vân:         Cử thế súc đồ tê thị bảo,

Thực ư kinh cức ngọa ư nê.

Hựu vấn:       “Chủng chủng thủ xả, giai thị luân hồi.”

                       Bất thủ bất xả thời như hà?

Sư vân:         Tòng lai hồng hiện thù thường sắc,

Hữu diệp sâm si bất hữu hoa.

Hựu vấn:       “Ngôn ngữ đạo đoạn” kỳ ý như hà?

Sư vân:         Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo,

Sơn nham đới nguyệt quá tường lai.

Hựu vấn:       “Chư Phật thuyết pháp giai thị hóa vật. Nhược ngộ bản ý, thị danh xuất thế.”

                      Như hà thị “bản ý”.

Sư vân:         Xuân chức hoa như cẩm,

Thu lai diệp tợ hoàng.

Hựu vấn:       Như hà thị “trực tiệt nhất lộ”?

Sư vân:         Đông tây xa mã tẩu,

Trần thổ hiểu hôn phi.

Hựu vấn:       Hữu pháp hữu tâm khai vọng thức,

Như hà tâm pháp đãng câu tiêu?

Sư vân:         Khả đoạt tùng sao trường uất uất,

Khởi ưu sương tuyết lạc phân phân.

Hựu vấn:       Tổ ý dữ giáo ý như hà?

Sư vân:         Hứng lai huề trượng du vân kính,

Khốn tức thùy liêm ngọa trúc sàng.

Hựu vấn:       Tổ tổ tương truyền, hợp truyền hà sự?

Sư vân:         Cơ lai tu tầm thực,

Hàn tức hướng cầu y.

Hựu vấn:       Thế nhân giai nhẫm ốc,

Lậu nhân hà sở tại?

Sư vân:         Kim ô kiêm ngọc thố,

Doanh trắc mạn lao phân.

Hựu vấn:       Như hà thị Tào Khê nhất lộ?

Sư vân:         Khả lân khắc chu khách,

Đáo xứ ý thông thông.


Dịch nghĩa:

BÀY RÕ BÍ QUYẾT CHO NGƯỜI THAM VẤN

Một hôm ngồi trước Tăng đường, có vị Tăng hỏi:

- Phật và Thánh khác nhau thế nào?

Sư đáp:         Trùng dương cúc nở dưới rào,

Trên cành oanh hót thanh tao dịu dàng.

Tăng thưa:    Cảm tạ Thầy chỉ dạy, học nhân chẳng hội, xin lại nêu bày ra.

Sư đáp:         Ngày thì vầng nhật chiếu,

Đêm đến ánh trăng soi.

Tăng lại hỏi:  Đã được chân chỉ của Thầy, còn huyền cơ thì dạy thế nào?

Sư đáp:         Bưng thau nước đầy không chú ý

Một lúc sẩy chân hối ích gì?

Tăng thưa:    Đa tạ!

Sư bảo:         Chớ rửa sông to sóng,

Chính mình đến chết chìm.

Tăng hỏi:       Thiếu Thất, Ma-kiệt rất huyền diệu, từ xưa đến nay ai kế thừa làm chủ?

Sư đáp:         Trời tối, sáng soi nhờ nhật nguyệt,

Đất hiểm, phân ranh có núi sông.

Tăng hỏi:       Thế nào là đại đạo,

Cội nguồn một lối đi?

Sư đáp:         Gió mạnh bờ cao biết cỏ cứng,

Nước nhà lận đận thấy tôi trung.

Hỏi:               Tất cả chúng sanh từ đâu tới,

Sau khi trăm tuổi sẽ về đâu?

Đáp:              Rùa mù dùi vách đá,

Trạnh què trèo núi cao.

Hỏi:               “Trúc biếc xanh xanh trọn là chân như”, thế nào là “dụng” của chân như?

Đáp:              Tặng anh đi ngàn dặm,

Cười trao một ấm trà.

Lại thưa:       Thế là uổng công đến mà vô ích?

Đáp:              Ai biết được người chủ (Đông A),

Trên đường lại bạc đầu.

Hỏi:               Dã Hiên một nhà kín,

Ai biết gõ dễ dàng.

Đáp:              Kim Cốc tiêu điều hoa cỏ loạn,

Mà nay sớm tối mặc ngựa dê.

Hỏi:               Tại sao như thế?

Đáp:              Giàu sang vẫn kiêu sa,

Khiến thành lầu chợ hoại.

Hỏi:               Long nữ dâng châu thành Phật quả,

Đàn-na bố thí phước thế nào?

Đáp:              Quế trong trăng muôn thuở,

Héo tươi tại một vầng.

Lại thưa:       Thế là nhọc mà không công?

Đáp:              Trên trời như treo gương,

Nhân gian nơi nơi tỏ.

Hỏi:               Qua sông cần dùng bè,

Đến bờ thuyền bỏ lại.

                      Khi không qua thì thế nào?

Đáp:              Hồ khô cá mắc cạn,

Sống được muôn năm xuân.

Lại thưa:       Thế là theo dòng mới được diệu lý?

Đáp:              Thấy nói bạn Kinh Kha,

Một đi không trở lại.

Hỏi:               Quặng, vàng lẫn lộn nguyên một loại,

Thỉnh Thầy phương tiện luyện cho tinh.

Đáp:              Chẳng phải khách nước Tề,

Đâu biết cá to biển.

Lại thưa:       Ông Quách chẳng chịu nhận,

Can gián cũng làm gì?

Đáp:              Nếu muốn trước uống rượu,

Khéo vẽ rắn làm gì?

Hỏi:               Rắn chết trên đường xin Thầy cứu sống?

Sư bảo:         Ông là người phương nào?

Tăng thưa:    Vốn là người ở núi.

Sư bảo:         Núi xưa về ẩn gấp,

Chớ thấy Hứa Chân Quân.

Hỏi:               Biển cả mênh mông trọn chẳng hỏi,

Tào Khê giọt giọt là thế nào?

Đáp:              Trước gió thông reo tiếng buồn bã,

Mưa tạnh trên đường ít bùn lầy.

Lại thưa:       Thế là chẳng khác thời nay?

Đáp:              Dưới giậu trùng dương cúc,

Đầu cành xuân ấm oanh.

Hỏi:               Rõ ràng trong khoảng tâm mắt,

Sáng chói ở trong sắc thân.

                      Mà lý không thể phân, tướng không thể thấy, tại sao không thấy?

Đáp:              Trong vườn hoa khoe sắc,

Trên bờ cỏ xanh rì.

Hỏi:               Năm lạnh các mầm thối,

Lấy gì để khoe xinh.

Đáp:              Mừng ông đã thấu suốt,

Cũng chẳng vui hay sao.

Tăng nói:       Hân hạnh nghe Thầy giải,

Từ đây khỏi chợt không.

Sư đáp:         Chìm cạn vừa ra khỏi,

Quay đầu muôn trượng đầm.

Hỏi:               “Trong thành Niết-bàn vẫn còn nguy”, thế nào là chỗ chẳng nguy?

Đáp:              Xây tổ trên rèm cháy,

Râu tóc cọng hoa lau.

Hỏi:               Nếu gặp khi bức bách,

Hai chỗ là làm gì?

Đáp:              Trượng phu tùy thong thả,

Gió trăng mặc tiêu dao.

Hỏi:               “Tất cả chúng sanh đều nói là Phật”, lý này chưa rõ xin Thầy chỉ dạy?

Đáp:              Khuyên ông hãy gắng việc nông tang,

Chớ học theo người đợi thỏ nhọc.

Tăng nói:       Được nhờ Thầy chỉ rõ,

Trọn chẳng đến ai cầu.

Sư nói:          Đáng thương người mắc nghẹn,

Ngồi đói lại quên ăn.

Tăng nói:       Nhiều năm cất giấu báu trong đãy,

Ngày nay trước mắt thấy rõ ràng.

Sư nói:          Chỉ đợi trăng thu sáng,

Đâu ngờ mây mưa che.

Tăng nói:       Tuy nghe Thầy thuyết giảng,

Lý nầy vẫn chưa rành.

Sư đáp:         Cười kẻ luống ôm cột,

Chết đuối nằm giữa dòng.

Hỏi:               Thế nào là một pháp?

Đáp:              Chẳng thấy xuân sanh cùng hạ trưởng,

Lại gặp thu chín và đông thâu.

Lại thưa:       Thế là nhiều người thành Phật?

Đáp:              Tổ Long chợt tự dừng,

Từ Phúc xa luống nhọc.

Hỏi:               “Kiến tánh thành Phật”, nghĩa này thế nào?

Đáp:              Cây khô gặp xuân hoa đua nở,

Gió thổi hương thần thơm rất xa.

Tăng nói:       Đệ tử chưa hiểu, xin Thầy chỉ lại.

Sư đáp:         Muôn năm cây cà ấy,

Xanh tươi thấu từng mây.

Hỏi:               Ma-ni cùng các sắc,

Chẳng hợp cũng chẳng lìa?

Đáp:              Hoa xuân cùng bươm bướm,

Lúc mến lúc chia lìa.

Hỏi:               Thế là theo kia hỗn tạp?

Đáp:              Chẳng phải mắt tăng Ấn,

Luống nhọc trình biện châu.

Hỏi:               Thế nào là chạm mắt bồ-đề?

Đáp:              Chim từng sợ cây cong,

Người thổi mãi rau nguội.

Hỏi:               Đệ tử chẳng hiểu, xin Thầy cho dụ khác.

Đáp:              Kẻ điếc nghe đàn sáo,

Người mù ngắm trăng lên.

Hỏi:               Vốn tự có hình cùng có bóng,

Có khi bóng cũng lìa hình chăng?

Đáp:              Các sông về Đông chừ muôn dòng tranh chảy.

Chúng sao chầu Bắc chừ ngàn xưa về tâm.

Hỏi:               Thế nào là một câu sáng tỏ siêu trăm ức?

Đáp:              Xa ném Thái Sơn qua biển Bắc,

Ngước tung cây gậy đến cung trăng.

Hỏi:               “Chỉ một việc này là thật, còn hai ắt chẳng chân”, thế nào là chân?

Đáp:              Đầu gậy gió dễ động,

Trên đường mưa thành lầy.

Hỏi:               “Chẳng hướng Như Lai cầu diệu tạng,

Không mong đuốc Tổ nối ngọn đèn.”

                      Ý chỉ câu này thế nào?

Đáp:              Trời thu hoàng oanh hót,

Trong tuyết mẫu đơn xinh.

Hỏi:               Thế nào là câu tuyệt diệu?

Đáp:              Một người xây vách đứng,

Cả nhà uống chẳng vui.

Hỏi:               Cổ kim việc lớn thôi không hỏi,

Chỉ chuyện Tây lai ý thế nào?

Đáp:              Người nói khéo mặt lành,

Kẻ dùi rùa đập ngói.

Hỏi:               “Tâm pháp đều quên, tánh tức chân”, thế nào là chân?

Đáp:              Hoa núi mưa sa, Thần nữ khóc,

Tre sân gió thổi, Bá Nha đàn.

Hỏi:               Thế nào là câu tuyệt diệu?

Đáp:              Trong cổ vẫn còn nghẹn,

Thường ở chỗ bất an.

Hỏi:               Còn tu còn chứng sanh bốn bệnh,

Xuất đầu sao được thoát lồng trần?

Đáp:              Núi cao lại lớn dung chứa bụi,

Bể cả càng sâu nhận các dòng.

Hỏi:               “Chỉ Phật với Phật mới biết việc này”, thế nào là việc này?

Đáp:              Đường hẹp trúc um tùm,

Gió thổi thành khúc nhạc.

Hỏi:               Chẳng dùng bình thường, chẳng dùng thiên nhiên, chẳng dùng tác dụng, thì nay phải làm sao?

Đáp:              Cỏ bồng chim én đậu,

Biển cả náu cá kình.

Hỏi:               Tứ đại đeo mang đã nhiều kiếp,

Thỉnh Thầy phương tiện thoát luân hồi?

Đáp:              Tất cả súc sanh tê giác quí,

Ăn toàn gai góc, ngủ trong bùn.

Hỏi:               “Các thứ thủ xả đều là luân hồi”, khi không thủ không xả thì sao?

Đáp:              Xưa nay sam tía sắc thường khác,

So le cành lá chẳng có hoa.

Hỏi:               “Đường ngôn ngữ dứt” là ý thế nào?

Đáp:              Gió thổi tiếng còi xuyên trúc đến,

Đầu non mang nguyệt vượt tường sang.

Hỏi:               “Chư Phật thuyết pháp đều nhằm giáo hóa mọi người, nếu ngộ bản ý gọi là xuất thế”, sao gọi là bản ý?

Đáp:              Xuân dệt hoa như gấm,

Thu sang lá tợ vàng.

Hỏi:               Thế nào là một đường thẳng đứt?

Đáp:              Đông Tây xe ngựa chạy,

Sớm tối bụi mù bay.

Hỏi:               Có pháp, có tâm mở vọng thức,

Làm sao tâm pháp thảy tiêu vong?

Đáp:              Vượt được tùng cao che rợp rợp,

Đâu lo sương tuyết rớt bời bời.

Hỏi:               Ý Tổ cùng ý kinh thế nào?

Đáp:              Hứng lên xách gậy chơi đường núi,

Nhọc tức xổ rèm nằm chõng tre.

Hỏi:               Tổ Tổ truyền nhau là truyền việc gì?

Đáp:              Đói đến cần tìm ăn,

Lạnh về phải mặc áo.

Hỏi:               Người đời đều thuê nhà,

Nhà dột ở chỗ nào?

Đáp:              Quạ vàng cùng thỏ bạc,

Đầy vơi chớ bận lòng.

Hỏi:               Thế nào là một con đường Tào Khê?

Đáp:              Đáng thương kẻ khắc thuyền.

Đến chốn ý lăng xăng.