Phụng Hoàng Cảnh Sách-Tập2-Thỉnh Nguyện Tăng-Đoạn 2

Phụng Hoàng Cảnh Sách-Tập2-Thỉnh Nguyện Tăng-Đoạn 2
MỤC LỤC
Lời Đầu
Thỉnh Nguyện Tăng:
Đoạn 1
Đoạn 2
Thỉnh Nguyện Ni:
Đoạn 1
Đoạn 2
Đoạn 3
Câu chuyện buổi chiều

=======================================================
THỈNH NGUYỆN TĂNG
ĐOẠN 2

Ngày 28-3 Ất Hợi (27-4-1995)
Hôm nay tôi nhắc cho toàn chúng biết mục đích của Thiền viện. Đây là những chuyện đã nói nhưng sợ lâu rồi quí vị quên.

Mục đích của Thiền viện tôi chia ra làm hai chặng, một gần và một xa. Chặng gần coi như phụ, còn chặng xa là chánh. Thiền viện chúng ta lập ra với mục đích là làm sao để cho chư Tăng chư Ni tu hành có kết quả. Tôi thường nói với mấy chú, theo chủ trương của tôi, muốn làm cho Phật pháp hưng thạnh, không phải tổ chức khéo, cũng không phải đông người mà là có người tu sáng đạo. Vì tôi đọc sử từ trước đến giờ thấy Phật giáo hưng thạnh là nhờ có những vị Tăng ngộ đạo truyền bá. Như đọc lại sử Thiền sư Việt Nam, quí vị thấy toàn là những vị ngộ đạo, cho nên các ngài truyền bá được sâu rộng, dù gặp hoàn cảnh không thuận cũng chuyển thành thuận.

Ví dụ như đời Lê Hy Tông, Vua ra lệnh đuổi hết Tăng Ni về rừng, không cho ở thành thị. Ngài Tông Diễn do đã thấy đạo nên can đảm tự thân đến cảnh tỉnh nhà vua, cứu vãn Phật pháp trong cơn nguy khốn. Vua Lê Hy Tông từ khi thấu hiểu đạo lý, thu hồi lệnh trước cho Tăng Ni trở về chùa cũ, tùy duyên giáo hóa. Như vậy, không phải nhiều người, cũng không phải tổ chức khéo, mà chỉ một người thấy được đạo rồi chỉ cho người khác biết được tường tận điều hay, lẽ thật thì cải hóa tâm hồn họ.

Như vậy trọng tâm gìn giữ Phật pháp là phải có người thấy đạo. Do đó, tôi chủ trương ở đây chúng Tăng tu được sáng đạo mới thôi. Đó là để duy trì Phật pháp được lâu dài. Tôi không chủ trương tổ chức khéo và đông, nên quí vị thấy những Phật tử qui y rồi về tự tu, tôi không bắt buộc họ phải tới lui. Ngoài lá phái qui y cũng không bắt buộc họ có giấy tờ gì của Thiền viện. Đó là tôi không muốn nặng về tổ chức, chỉ muốn tạo duyên cho mọi người hiểu đạo tu.

Chư Tăng Ni ở đây nếu có năm mười người tu thấy được đạo, đó là thành công của mình. Được vậy tôi tin rằng Phật pháp sẽ còn lâu dài, không thể bị xoay chuyển hoặc mất mát. Vì thế, những việc làm của tôi đều nhắm thẳng vào sự tu, không phải chỉ chuyện truyền bá bề rộng. Ngày mai Phật pháp còn được hưng thạnh chính là nhờ sự tu của Tăng Ni.

Đó là tôi nói chung, còn riêng Thiền viện chúng ta lấy danh nghĩa Trúc Lâm Yên Tử, quí vị cũng thấy mục tiêu tôi nhắm là muốn làm sao cho Phật giáo Việt Nam được rực rỡ lên. Muốn được sáng, được rực rỡ, không có nghĩa là tổ chức đông, tổ chức tốt mà là chúng ta phải thấy đạo, chỉ được lẽ chánh cho tất cả mọi người cùng biết, cùng tu, đó là đạo đức được sáng. Nếu chúng ta tổ chức khéo mà đi đường tà thì càng làm cho mọi người vô minh tăm tối thêm chớ không lợi ích gì.

Chúng ta chủ trương khôi phục Thiền tông Việt Nam đời Trần thì phải làm sao cho có đủ lẽ thật. Khi người ta thấy mình ngồi thiền, không hiểu mình dụng công thế nào, nên tôi dùng bài Sám hối sáu căn của vua Trần Thái Tông cho tất cả Tăng Ni tụng mỗi tối. Ai cũng biết đó là bài sám hối của vua Trần Thái Tông. Như vậy, chúng ta hướng trở về Phật giáo đời Trần có chứng cứ cụ thể không nghi ngờ.

Thứ hai là chúng ta phải có những tư liệu, hình thức về văn hóa Phật giáo đời Trần, để người ta thấy mình đang nghiên cứu và tu theo Phật giáo đời Trần. Những sách vở đời Trần còn lại chúng ta phải hiểu, phải thâm nhập, như vậy mình mới đề xướng ra được. Đời tôi chỉ là mới khai mào chớ không phải kết thúc, chính đời của mấy chú sau này mới kéo dài, làm sáng tỏ thêm. Như vậy chúng ta phải nghiên cứu văn hóa đời Trần, nhất là những bài các vị Thiền sư đã chỉ dạy. Học hiểu rồi chúng ta mới có thể giải thích cho những người khác hiểu. Đó là chỗ thiết yếu.

Kế nữa, chúng ta ứng dụng tu cho có kết quả. Khi tôi sách tấn tu, có nhiều chú cũng hiểu lầm, muốn đi kiếm chỗ riêng tu rút cho mau ngộ đạo. Nhưng nếu ngộ đạo ở nơi khác thì có phải là tiếp nối đường lối của Thiền viện Trúc Lâm không? Như vậy lòng tin của Phật tử đối với mình sẽ không đủ, khó làm Phật sự. Do đó, tôi thúc đẩy, nhắc nhở là cốt cho quí vị đừng bỏ thời giờ trống vô ích, lúc nào cũng phải tỉnh sáng, lúc nào cũng phải cố gắng tu chớ không bắt người này người kia kiếm chỗ riêng để ngồi tu rút. Tu rút như vậy đến chừng tôi chết quí vị không biết nối pháp ai, không biết tiếp tục cái gì.

Phải hiểu cho thật rõ để làm không sai. Một là chúng ta sám hối sáu căn để người ta thấy rõ đường lối của mình đi theo hướng Phật giáo đời Trần. Hai là những văn bản đời Trần chúng ta đọc và phiên dịch giảng giải được. Ba là chúng ta tu cho có kết quả tốt thì mai kia mới có thể duy trì hoặc khôi phục được nền Phật giáo Việt Nam. Nếu chúng ta làm được ba điều đó thì Thiền viện Trúc Lâm sẽ làm cột trụ cho Phật giáo Việt Nam mai kia. Vì vậy mấy chú phải hiểu được mục đích của tôi để cùng thực hiện.

Bây giờ nhìn cho kỹ mấy chú sẽ thấy các duyên của mình đang rất thích hợp, cả Trung, Nam, Bắc nhiều người hưởng ứng theo đường lối tu của mình. Chẳng những Trung, Nam, Bắc mà cả nước ngoài nữa. Gặp cơ hội tốt, đủ duyên lành đưa đến mà mình không cố gắng làm cho được thì thật uổng, không xứng đáng là Tăng sĩ Việt Nam. Nên tôi mong tất cả phải hiểu và cố gắng thực hiện.

Làm được việc này là đạt được mục đích gần của Phật giáo Việt Nam hoặc đường lối tu của Thiền viện Trúc Lâm. Còn mục đích xa hoặc cứu kính thì tôi chủ trương chúng ta phải đi đến chỗ sanh tử tự tại. Tôi nói sanh tử tự tại mà không nói giải thoát sanh tử, quí vị thấy hai điều đó có khác không? Nói giải thoát sanh tử thì không khéo mình lại lạc qua Nhị thừa, bởi vì tu gấp gấp để dứt hết mọi mầm sanh tử cho mình được giải thoát. Như vậy một đời này giải thoát tức là nhập Niết-bàn, nhập Niết-bàn rồi yên phận, bỏ mặc chúng sanh.

Chúng ta học Thiền Sư Trung Hoa, ngài Từ Minh nói: “sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ”, nghĩa là khi sanh ra giống như mùa đông lạnh lẽo mà được đắp chiếc chăn ấm, như vậy sanh ra thích không? Rồi “tử như cởi áo hạ”, mùa hạ nắng nóng nực đổ mồ hôi, mặc hai ba lớp áo, bây giờ cởi ra cho nhẹ mát, thích không? Như vậy sanh thích, tử cũng thích, nghĩa là sanh tử tự tại. Mà sanh tử tự tại rồi mình tùy duyên làm lợi ích cho chúng sanh, đến khi nào công đức viên mãn gọi là tự giác, giác tha tròn đủ, chừng đó thành Phật.

Chúng ta không đòi nhập Niết-bàn cho yên phận mình, bỏ mặc chúng sanh thế nào cũng được. Đó là hiểu rõ mục đích của mình. Muốn được sanh tử tự tại tất nhiên trên đường tu chúng ta phải cố gắng nỗ lực chớ không lôi thôi được.
Sanh tử tự tại gồm hai phần: thân và tâm.

Về phần thân, chúng ta phải gan dạ, chịu đựng. Chính ngồi thiền đau chân cũng là một sự gan dạ, tập cho mình làm chủ được, tức là tự tại. Mình làm chủ không được là không tự tại. Những đau nhức chúng ta vẫn vượt qua không bị cản trở, đó là mình đã làm chủ được nó. Hiện tại còn khỏe mạnh, mình làm chủ nó từ từ, đến khi nhắm mắt mình làm chủ hoàn toàn, không vì đau nhức mà loạn tâm loạn tưởng, không vì đau nhức mà hoảng hốt sợ sệt. Đó là gốc của sự làm chủ. Vì vậy tôi khuyên mấy chú phải cố gắng. Đừng vì một hai cái đau hoặc khó chịu mà mình lại yếu đuối thua nó, không hay.

Thứ hai về nội tâm. Làm chủ nội tâm là biết rõ các thứ hư ảo không thật, đừng bao giờ để nó lôi kéo mình. Nếu bị cái hư ảo lôi kéo thì nhất định theo nghiệp đi trong đau khổ. Còn nếu làm chủ được thì tất cả những tâm niệm điên đảo không có gì quấy nhiễu được mình; khi chết những niệm hoảng sợ, lo âu, vui buồn không thể lôi dẫn mình đi theo nghiệp.

Tuy nhiên, chúng ta đừng vì thấy thân tâm giả dối tạm bợ rồi đòi đến chỗ an lạc giải thoát riêng. Chỉ cần sống trong cõi trần mà không bị xao xuyến loạn động, tự tại đến, tự tại đi để làm lợi ích cho chúng sanh. Cái đó mới là thiết yếu, tôi gọi là sanh tử tự tại. Bởi vì mình tu một đời không bao giờ thành Phật, chỉ có thể được tự tại trong sanh tử rồi tạo đầy đủ công đức sau này mới thành Phật. Đó là con đường của Thiền tông chủ trương. Vì vậy tôi gọi là mục đích sâu xa, còn làm sống dậy Phật giáo Việt Nam là mục đích gần.

Vậy quí vị hiểu cho rõ đường hướng chủ trương của Thiền viện. Trong khi tu chúng ta vừa cố gắng tu, vừa cố gắng làm chủ hoàn toàn thân tâm, rồi luôn luôn nhớ đến chúng sanh. Đừng nghĩ chỉ tu cho được phần mình thôi, trái lại nên nhớ mình phải làm lợi ích cho tất cả chúng sanh hiện tại và nhiều đời về sau. Vì lẽ đó tôi mới khuyên phải ráng đi cho đúng đường, đúng hướng. Điều gì chúng ta thấy thích hợp, đủ cơ duyên tốt phải nắm lấy cơ hội đó để làm cho nó tăng trưởng, đừng vì chỗ tiêu cực riêng tư mà quên mất việc lớn, làm cho tâm niệm hèn yếu, không có lợi cho Phật pháp sau này. Đó là điều cần yếu tôi xin nhắc cho toàn chúng hiểu.

Tôi nhắc thêm vài việc trong chúng. Những vị có trách nhiệm dài ngày thường bận rộn là hương đăng, tri khách, thư ký và chuyên viên máy móc. Quí vị dù có đa đoan công việc bao nhiêu, mỗi người cũng phải ráng tu. Sự tu mới là trọng tâm, là bề sâu của mình. Nếu chúng ta làm được chuyện bên ngoài mà thiếu phần tu tức là thiếu sự thâm hậu, mai kia mình không đủ tư cách để lãnh đạo chúng Tăng hoặc hướng dẫn Phật tử.

Vì vậy, người nào ở đây tôi cũng muốn tu cho được, đừng vì công tác của mình mà giảm bớt sự tu. Ngoài giờ làm việc, tới giờ tu quí vị cũng phải ráng đừng để thiếu, như vậy tự lợi lợi tha mới tròn đủ. Nếu được việc cho chúng mà sự tu bị thiệt thòi, lâu ngày sẽ đâm ra mệt mỏi, buồn nản; thấy mình tu không tiến, không bằng huynh đệ, tự nhiên thối tâm rồi có những tư tưởng lung tung.
Vậy nên tôi nhắc những vị có trách nhiệm nặng phải cố gắng làm sao sắp xếp công việc cho gọn, đừng để sự tu hành bê trễ.
Ngày 14-4 Ất Hợi (13-5-1995)

Hôm nay tôi có vài lời nhắc nhở chúng. Trong chúng được sống trong một khung cảnh tương đối thanh tịnh, đa số không bị lỗi lầm, chỉ có một vài trường hợp đặc biệt thôi, như vậy chứng tỏ sự tu hành của chúng có những bước tiến tốt. Tuy nhiên tôi thấy cũng còn một vài cái yếu đuối, như lúc khí hậu không tốt trước ngày mưa, hoặc qua một trận gió, có một số người bệnh.

Tôi kể lại cho mấy chú nghe: Hôm đi về Thường Chiếu, mấy ngày liền tôi không được nghỉ ngơi, lại đi đây đi kia liên miên nên rất nhọc. Về tới đây gặp mấy ngày sắp mưa, khí hậu thật khó chịu. Hôm tôi về mệt, nằm trên cái ghế ở ngoài, tới chiều nghe toàn cơ thể đau rêm hết, theo thông thường thì chắc phải đánh gió cạo gió, nhưng tôi làm thinh không nói. Tới tối tôi biết là cảm nặng nhưng cũng im lặng.

Đến giờ ngồi thiền tôi mặc thêm chiếc áo lạnh, lúc xả thiền thấy rơm rớm mồ hôi. Sau khi xả thiền ra tập lộc lô song quan thấy đỡ, nhưng cái cổ còn đơ. Tôi ngủ, sáng dậy ngồi thiền tiếp, bắt đầu ngồi thiền khi thở ra tôi tưởng như đuổi hết mọi bệnh hoạn ra ngoài. Sau khi xả thiền, tôi tập lộc lô thêm một lần nữa. Đến sáng thấy tỉnh táo bình thường trở lại. Như vậy nếu tôi yếu đuối thì bệnh rồi. Vì sẵn mấy ngày đi nhọc nhằn, về gặp khí hậu không tốt nên dễ bị cảm, nhưng ráng cố gắng rồi cũng vượt qua.

Mấy chú nhớ trong thời thiền của mình, lúc bắt đầu ngồi và khi xả thiền, chúng ta có ba lần hít thở. Khi hít vô tưởng như máu huyết lưu thông khắp châu thân, tôi khi hít vô thấy máu chạy đều hết. Khi thở ra tưởng như bệnh hoạn phiền não theo hơi thở ra ngoài, tôi khi thở ra cũng thấy như bao nhiêu bệnh chạy ra hết. Ba lần thở như vậy rồi tới lộc lô nữa, thắng được cơn bệnh.

Ở đây có mấy người bị bệnh, vậy mà mấy chú chưa có khả năng thắng nó. Mấy chục năm nay tôi không hề cạo gió. Khi nào khó chịu, tôi ráng ngồi thiền, ngồi tăng giờ hoặc là sau khi xả thiền ra lộc lô thật kỹ, tôi thấy có kết quả rất tốt. Còn nghe đâu có mấy chú tập yoga sao mà tới gân cốt bị sai lệch lung tung vậy. Đó là không bệnh mà chuốc bệnh vào.

Môn lộc lô tôi đã tập và thấy có hiệu quả mới dạy cho mấy chú, mấy chú không chịu tin, lại tin bên ngoài hơn. Lối tập này thông dụng, nhẹ nhàng, ở đâu tập cũng được và có thể đuổi được cơn bệnh do gió nhập vào mình. Vậy nên tất cả chịu khó một chút, những lúc khí hậu bất thường, trong người khó chịu thì ráng ngồi thiền thêm, nhất là phải mặc đồ ấm nhiều nhiều để ngồi cho ra mồ hôi. Khi xả thiền thở ra mình tưởng bệnh hoạn theo đó ra, đồng thời tập lộc lô song quan.

Mỗi khi xả thiền ra tôi đều tập lộc lô, năm mươi lần mỗi động tác. Như vậy, đầu hôm xả thiền lộc lô một lần, sáng xả tập lộc lô một lần nữa, nếu cần thì tập thêm vài chục cái. Tôi thấy điều hòa như vậy cuộc sống rất tốt.

Mỗi buổi sáng có hai ba tiếng đồng hồ lao động, mấy chú được phơi nắng, vận động cho máu huyết lưu thông nên chuyện tập tạ nặng nề không cần, chỉ tập những thứ vừa nhẹ thôi. Chỉ những vị làm việc trong nhà như Hương đăng, Tri khách, không hoạt động ở ngoài nhiều, cần phải tập những thứ mạnh để cho máu huyết lưu thông. Biết như vậy là mấy chú sống điều hòa. Đừng nên tập quá sức, nhiều khi muốn cho khỏe trái lại thành bệnh, đó là không tốt.

Vậy tôi giảng cho toàn chúng hiểu rồi, phải gan dạ một chút; bằng không hơi bệnh là kêu đánh gió, cạo gió, trùm mền rồi thành đau luôn. Còn mình gan, ráng chủ động cho nó tan đi tức hết bệnh. Do gan dạ lần hồi mình thắng hết. Cho nên những năm ở Chân Không, tôi dám nói rằng tôi cho bác sĩ về hưu khỏi làm việc, bởi vì mấy năm đó tôi không bao giờ bị cảm, chỉ khi về Thường Chiếu khí hậu hơi khắc nghiệt, không thích hợp với cơ thể nên tôi thường bệnh.

Lên đây, mấy chú thấy một hai năm rồi tôi không có bệnh, do biết điều hòa chớ không phải sẵn tuyệt hảo. Cơ thể tôi là cơ thể bệnh, hồi xưa tôi đã từng nằm viện vì bệnh phổi, sau này lại bệnh tim. Như vậy mấy chú thấy tôi là người bệnh chớ đâu phải người khỏe, nhưng do khéo điều hòa, khéo tu hành nên từ thân bệnh trở thành khỏe mạnh, đó là cái khéo của mình. Do đó nếu hiện nay ai chưa được mạnh lắm nên ráng điều hòa, rồi sẽ khỏe mạnh an ổn.

Những điều tôi dạy là đã kinh nghiệm qua chớ không phải nói suông. Còn mấy chú đọc trong sách, nhiều khi người ta kinh nghiệm ở một địa phương nào đó khác với mình, lấy chuyện người ta ứng dụng cho mình chưa chắc đã tốt. Bởi vì mình ở trong hoàn cảnh khác, họ ở hoàn cảnh khác, lấy kết quả tốt của họ làm kết quả của mình e không đúng. Vậy nên mấy chú phải dè dặt. Đó là lời nhắc nhở để trong chúng ý thức tu hành cho được lâu bền không có bệnh hoạn.

Có một điều dở của mấy chú là khi tu có người bị chứng mất ngủ mà không trình cho tôi biết. Nếu làm thinh ai biết được! Bị mất ngủ ảnh hưởng đến sự tu nhiều lắm, lại không nói cứ âm thầm chịu, đó là không tốt. Ví dụ như ngồi thiền, mấy chú bị mất ngủ là vì trụ tâm ở trên nên khó ngủ, chớ không phải tại làm công tác. Vì vậy, khi nào trụ tâm ở trên khiến cho mất ngủ phải đến thưa hỏi: “tại sao con lên đây tu lại bị mất ngủ”, tôi mới biết để chỉ cho. Còn mấy chú cứ làm thinh, ai tu trật trúng gì cũng không nói cho tôi biết, đó là một cái dở.

Bây giờ tôi chỉ rõ cho mấy chú thấy, khi nào ngồi thiền chăm chỉ quá, tuy vẫn thấy rõ có niệm hoặc không niệm, nhưng hơi thở phải xuống đến bụng dưới. Cần ngồi thẳng người lên, nghe hơi thở ra vô ở bụng dưới. Chúng ta có thể nhắm mắt lại cũng được, nhất là buổi thiền tối. Nếu mình kềm quá trong giờ thiền tối dễ bị mất ngủ. Chỉ cần biết hơi thở ra vô ở bụng dưới sẽ ngủ lại được không có gì khó. Đó là chúng ta khéo điều hòa.

Tôi có mặt ở đây là để hướng dẫn cho mấy chú. Khi nào trật, trúng phải thưa trình, chớ cứ lặng lẽ tôi tưởng hay hết rồi, đâu biết mấy chú làm sai. Cái sai đó do mình không khéo điều hòa, lâu ngày thành bệnh, đó là một sơ sót. Bây giờ thử điều lại, buổi tối ngồi thiền nếu thấy khó ngủ có thể nhắm mắt cũng được, ngồi thẳng người, hít vô thở ra, nhớ hơi thở ở bụng dưới chớ đừng tập trung ở trên. Nhớ như vậy tự nhiên tâm mình không trụ trên đầu nữa. Tuy không trụ tâm trên đầu nhưng niệm khởi mình đều biết. Như vậy sẽ trị được bệnh mất ngủ, không có gì lạ.

Đó là tôi dạy để mấy chú có thể ngủ được. Giờ tối là giờ khó ngủ nên phải điều hòa hơi thở ở bụng dưới; còn ban ngày hoặc buổi sáng thì khỏi, vẫn nhớ ở trên để không bị hôn trầm. Lối tôi chỉ là để trị bệnh mất ngủ, khi ngủ được rồi mà vẫn tiếp tục thì ngồi thiền ngủ mê man, nên phải tùy lúc để sửa đổi chớ không cố định. Nếu theo một lối làm hoài sẽ thành thói quen, mất ngủ thì mất ngủ luôn, còn ngủ lại ngủ quá nặng. Cho nên chúng ta phải linh động, khi mất ngủ trị theo mất ngủ, lúc ngủ được rồi phải sử dụng theo cách bình thường. Đó là cái khéo trong khi tu.

Ngày 27-4 Ất Hợi (26-5-1995)
Thỉnh nguyện đã xong, tôi có ít lời nhắc nhở trong chúng. Thấy trong buổi thỉnh nguyện, có những người vì lý do này lý do nọ hiểu lầm nhau hoặc chưa thông cảm nhau. Vậy từ đây về sau, làm việc gì cũng cẩn thận dè dặt đừng để hiểu lầm, sanh ra những chuyện không vui, chướng ngại đường tu. Một hai việc nhỏ mình không ẩn nhẫn được, sẽ đi tới cái lớn, làm cho chúng ta thối Bồ-đề tâm hoặc trở ngại con đường tiến tu của mình.

Do đó, tôi khuyên toàn chúng, mình phải thấy cái quan trọng nhất của đời mình là tu để giải thoát sanh tử. Đó là điều không thể quên, không một giây phút nào lơ là. Còn mọi chuyện phải quấy, hơn thua, đúng sai chỉ là chuyện tạm bợ không có giá trị thật. Phải nhớ lý tưởng của mình mà bỏ qua mọi việc thì trên đường tu mới không bị chướng ngại.

Bây giờ tôi nhắc thêm cho toàn chúng, có một số người phê bình quí thầy tu thiền dường như hơi ngã mạn. Điều đó tôi nghiệm lại có lý. Tại sao? Bởi vì người tu thiền luôn tự tin nơi mình có Phật, Phật ở nơi mình chớ không phải ở đâu khác. Tự tin thì tốt, nhưng lòng tự tin quá mạnh không khéo lại thành tự tôn. Tự tôn tức là coi mình cao hơn mọi người. Đó là điều lầm lẫn, dễ trở thành bệnh. Khi có bệnh tự tôn rồi, bệnh thứ hai dễ xảy ra là bệnh sân. Thấy mình cao nên ai động tới nổi sân liền. Đó là bệnh của những vị tu thiền hay mắc phải. Tự tin là điều hết sức cần thiết trên đường tu, nhưng không khéo lại thành tự tôn, ngã mạn, dễ sanh ra sân hận. Điều này tôi thấy chư Tăng ở đây có thể vấp phải.

Vì vậy tôi nhắc cho tất cả, chúng ta tu phải nhớ tâm hạnh của Bồ-tát Thường Bất Khinh. Nghĩa là tự tin mình có tánh giác thì cũng tin người khác có tánh giác, cho nên không dám khinh người. Vừa có niệm khinh người là đã trái với đạo rồi, bởi vì trọng tâm đạo Phật là vô ngã. Cái ngã của thân tứ đại, ngã của các tâm sở buồn, thương, giận, ghét... là cái ngã hư ảo không thật, nếu mình nương nơi đó để khởi tâm tự cao ngã mạn là bệnh.

Chúng ta phải thấy ngay nơi mình có tánh giác, đồng thời tất cả chúng sanh khác cũng có tánh giác như mình, cho nên đối với ai mình cũng kính, cũng quí. Đừng thấy chỉ ta đây là giác, còn tất cả các người là mê. Như hôm rồi tôi đã nói, ai ai cũng có tánh giác mà họ quên, cho nên mình thương, nhắc giùm cho họ nhớ. Thương nhắc chớ không phải khinh, không phải coi thường.

Chúng ta được diễm phúc nhớ trước một chút, kẻ nhớ trước nhắc người còn quên, đó là tâm từ bi của Bồ-tát. Bồ-tát định nghĩa hết sức rõ là hữu tình giác, giác hữu tình. Chính mình là một chúng sanh, bây giờ thức tỉnh, biết mình có tánh giác, không còn quên nên gọi là hữu tình giác. Sau đó chỉ cho những chúng sanh đang có mặt cũng được tỉnh giác, đó là giác hữu tình. Vậy trọng tâm của Bồ-tát là lấy tự giác, giác tha làm nền tảng thiết yếu, còn những chuyện cứu giúp bố thí đều là phương tiện nhỏ.

Chúng ta đọc kinh Pháp Hoa thấy ngạc nhiên, cả đời Bồ-tát Thường Bất Khinh không làm điều gì lợi ích cho người, không thấy cho ai cơm ăn áo mặc, mà gặp ai cũng bái bái: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Thái độ đó dường như tiêu cực, không thực tế. Nhưng hiểu thấu đáo được ý nghĩa tự giác giác tha rồi, chúng ta mới thấy đúng là Bồ-tát làm việc bổn phận của mình.

Chúng ta bây giờ tu, tôi không tuyên bố mình tu hạnh Bồ-tát, nhưng thật tình chúng ta đang tìm cho ra, phát minh cho được tánh giác. Khi nhận ra được tánh giác rồi, tất cả công tác của mình không gì hơn là chỉ cho mọi người cùng biết được tánh giác. Như vậy dù không tuyên bố hạnh Bồ-tát, nhưng chúng ta đã làm đúng hạnh Bồ-tát.

Nếu chúng ta tu chỉ nghĩ phước báo nhân thiên lo làm cái này, cái kia cho thiên hạ, đó là quả báo sanh diệt, chưa phải cứu kính. Tại sao vậy? Dù chúng ta tạo được phước nhiều như núi như biển, đó cũng là phước vô thường sanh diệt. Chỉ có tánh giác bất sanh bất diệt là điều cao thượng quí báu tột cùng. Chúng ta nhận ra được, chỉ cho người, đó là điều hơn hết.

Trong kinh Kim Cang, đức Phật dạy: Dù cho đem bảy báu đầy dẫy tam thiên đại thiên thế giới bằng số cát sông Hằng ra bố thí cũng không có phước bằng người thọ trì được bốn câu kệ. Đó là so sánh phước báo hữu lậu với tánh giác thường hằng. Cho nên hạnh Bồ-tát là đưa người tới chỗ giác ngộ chớ không phải chỉ làm những việc phước báo nhân thiên. Tất cả chúng ta tu phải ráng nỗ lực nhận cho ra nơi mình có tánh giác. Nhận thật sự chớ không phải lờ mờ mang máng. Chỗ này nhà thiền gọi là kiến tánh.

Tánh không phải là một cái gì có hình tướng để thấy, nhưng nói theo thế gian cái gì mình thấy rồi thì không quên, còn cái gì mình hiểu, dù là hiểu mang máng hoặc là hiểu rõ, nếu có người khác nói điều gì hay lạ hơn mình có thể khởi nghi ngờ. Chỉ khi chúng ta thấy rõ ràng là xanh là đỏ thì dù có ai nói khác đi mình cũng không bao giờ nghi, vì đã thấy. Bởi vậy, kiến tánh là thật sự nhận ra cái chân thật nơi mình. Dù cho ai nói trời nói đất, nói nghiêng nói ngửa, mình cũng tự nhiên, không hề thối tâm hay nghi ngờ, chúng ta gọi đó là kiến tánh.

Như vậy tất cả công phu tu của chúng ta đều dồn trong một việc: làm sao chính mình nhận ra được cái chân thật của mình, sau đó ứng dụng tu, đồng thời chỉ cho người khác tu. Đó là trọng tâm của người xuất gia, làm trách nhiệm bổn phận kẻ bước trước chỉ cho người đi sau. Cho nên nhà thiền hay dùng câu: “truyền đăng tục diệm”, nghĩa là trao truyền ánh sáng giác ngộ cho nhau.
Phải luôn nhớ mình có tánh giác, người khác cũng có tánh giác, chỉ chúng ta túc duyên sâu nên được sớm tỉnh biết, người khác túc duyên cạn mỏng chậm biết hơn chúng ta. Đừng bao giờ tự cao mà khinh chê người. Nay chúng ta có bổn phận khơi dậy cho người khác biết, đó là một trách nhiệm, không nên có tâm tự cao ngã mạn chê người này, khinh người kia, chỉ trích người nọ. Đó là điều không tốt, là bệnh.

Khi chúng ta chê bai, chỉ trích người khác chính là tô điểm bản ngã mình. Nói người này dở, người kia xấu, tức là muốn nói ta hay. Bởi ta hay mới thấy những kẻ kia dở. Cho nên khi có chê bai, chỉ trích, mạt sát những người khác là đã đề cao bản ngã của mình lên.

Vậy quí vị lưu ý, chúng ta tu thiền nhưng không ngã mạn, tu thiền nhưng không chấp ngã, không đưa tới tâm nóng giận. Chỉ khi nào thấy mình cao, ai chạm tới mới nổi sân. Quí vị kiểm lại có sân không? Phải biết đó là hiện tượng của bản ngã.

Tôi kiểm tra lại, thấy trong chúng Tăng có bệnh đó, nên nhắc quí vị ráng tu để đừng nóng giận. Nóng giận là từ bản ngã ra chớ không gì lạ. Nếu tự coi mình như bùn đất chắc không nóng giận bao giờ. Sở dĩ nổi nóng là vì thấy mình cao, thấy mình hơn. Cho nên yêu cầu trong chúng phải thấy rõ gốc bệnh của mình là do tự tin thái quá.

Tuy nhiên chúng ta vẫn tự tin, tin mình có Phật và người khác cũng có Phật, như lòng tin của Bồ-tát Thường Bất Khinh. Đừng chỉ tin mình có Phật còn người khác không có, rồi khinh người ta, sanh ra tự tôn, ngã mạn, sân hận, trái với đạo lý.

Chúng ta tu cao hoặc thấp, nhất là tu thiền, lấy cái gì làm thước đo? Lấy bát phong để đo. Bát phong là: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.

Lợi là tài lợi, khi được chúng ta vẫn thản nhiên; còn mừng quá cười vui lên là đã động rồi. Suy là gặp những hoàn cảnh không tốt, làm cho suy hao, nghèo khó, mình cũng không buồn bực, than thở. Hủy là người ta làm nhục mà mình vẫn cười, không sân giận. Dự là khen, lúc được người ta khen ngợi, được danh dự, địa vị, chức tước, mình vẫn không bị động tâm.Xưng là tán thán bao nhiêu chúng ta cũng coi thường. Cơ là bị chê hiềm, chỉ trích, mình vẫn tự tại. Sau cùng là gặp cảnh khổmình vẫn an nhiên, khi được vui (lạc) mình cũng tự tại.

Đó là cái thước đo. Bây giờ quí vị kiểm lại, xem trong tám gió mình được mấy gió thổi không động? Chúng ta tu thiền cao tới cỡ nào đi nữa mà mấy ngọn gió đó thổi còn bị động cũng chưa phải thứ thật. Tôi lấy đây để nhắc cho tất cả. Không phải chúng ta lý luận hay gọi là tu cao. Chỉ khi nào thật sự sống được, tất cả cảnh đến vẫn an nhiên tự tại, đó mới thật là người đã hiểu và hành. Hai điều này phải theo nhau. Nhiều khi chúng ta lý luận giảng cho Phật tử xem như thánh thiện lắm, nhưng lúc gặp việc mình cũng khổ cũng lạc như ai, được khen thì vui, bị chê buồn bã, đó là tu chưa tới đâu.

Hôm nay tôi nói rõ để quí vị kiểm tra lại, tự thấy mình rồi xấu hổ hết tự cao, ngã mạn. Nhiều khi chẳng tự biết mình, cứ nghĩ mình tu cao lắm, rốt cuộc lại là bệnh.

Tác giả bài viết: HT. Thích Thanh Từ

Nguồn tin: Thường Chiếu