KINH ÐẠI BẢO TÍCH - 29. Pháp Hội Ưu Ðà Diên Vương

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Câu Viêm Di tại vườn Cù Sư La cùng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội.



GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM

KINH ÐẠI BẢO TÍCH 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XXIX 
Pháp hội 
ƯU ÐÀ DIÊN VƯƠNG 

Thứ hai mươi chín 
Hán Dịch: Nhà Ðường, Pháp Sư Bồ Ðề Lưu Chi 
Việt Dịch: Việt Nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vậy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Câu Viêm Di tại vườn Cù Sư La cùng đại Tỳ Kheo ngàn hai trăm năm mươi người câu hội. 

Bấy giờ đệ nhất phu nhơn của vua Ưu Ðà Diên tên Xá Ma đối với đức Như Lai và hàng Thánh chúng thân tín cung kính thân cận cúng dường và thường ca ngợi công đức của Như Lai. 

Ðệ nhị phu nhơn tên Ðế Nữ có lòng ganh siễm đến vua nói dối là đức Như Lai và hàng đệ tử có chỗ phi pháp đối với đại phu nhơn. 

Nhà vua giận lắm lấy cung tên bắn phu nhơn Xá Ma. Vì thương xót vua, Phu nhơn Xá Ma nhập từ tam muội, mũi tên bắn ra liền quay trở lại dừng tại trên không ngay đỉnh đầu vua, mũi tên ấy cháy đỏ như khối lửa rất đáng sợ. Vua bắn ba phát tên cũng đều như vậy 

Vua Ưu Ðà Diên thấy sự việc ấy toàn thân lông tóc đều dựng lên kinh sợ hối hận nói với phu nhơn rằng: «Bà có phải là Thiên nữ hay Long nữ chăng? Hay bà là Dạ Xoa nữ, Càn Thát Bà nữ, Tì Xá Gía nữ, La Sát nữ chăng?».

Phu nhơn Xá Na nói; «Tôi chẳng phải Thiên nữ cũng chẳng phải La Sát nữ.  Ðại vương nên biết tôi nghe đức Phật thuyết pháp thọ trì ngũ giới làm Ưu Bà Di. Vì thương vua nên tôi nhập từ tam muội. Dầu vua đối với tôi sanh lòng bất thiện, nhưng do sức nguyện từ tâm nên tôi không bị thương tổn. Lành thay Ðại Vương nên đối với đức Như Lai qui mạng đảnh lễ chắc sẽ được an vui».

Vua nghĩ rằng phu nhơn nghe pháp làm Ưu Bà Di còn có sức oai thần dường ấy huống là đức Như Lai Ðẳng Chánh Giác. 

Vua Ưu Ðà Diên liền đến chỗ Phật lễ chưn hữu nhiễu ba vòng trình bày sự việc trên rồi bạch rằng: Ngưỡng mong đức Như Lai và hàng Thánh chúng hoan hỉ cho tôi sám hối khiến tội lỗi ấy sớm siêu diệt ».

Ðức Phật ấy nói: «Như lời vua tự thuật vì lầm cho Như Lai và hàng Thánh chúng như phàm nhơn ngu si có lỗi nên vua sanh lòng giận oán. Nay vua nếu có thể y Phật pháp luật tự ăn năn tội lỗi chẳng có lòng che giấu cùng tận đời vị lai chẳng tái phạm thì ta sẽ nhiếp thọ cho vua tăng trưởng thiện pháp. 

Vua bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Vì tôi bị nữ nhơn mê hoặc cuồng loạn điên đảo không hiểu biết nên phát sanh giận dữ, tội nghiệp nầy sẽ đọa địa ngục. Ngưỡng mông đức Như Lai vì an lạc chúng sanh mà xót thương khai thị lỗi họa siễm khúc hư dối của nữ nhơn, chớ để chúng tôi thân cận nữ nhơn hầu sẽ được mãi mãi thoát các sự khổ lụy ».

Ðức Phật nói: « Ðể sự ấy lại, sao vua cần hỏi sự ấy mà chẳng hỏi sự khác? ».

Vua bạch: »tôi không hỏi sự khác. Vì nữ nhơn khiến tôi tạo tội địa ngục, nay tôi chỉ muốn biết lỗi họa nữ nhơn siểm khúc hư cuống tà mỵ. Mông đức Thế Tôn khai thị cho ».

Vua Ưu Ðà Diên ba lần thỉnh hỏi như vậy. 

Ðức Phật nói: « Ðại Vương trước phải biết lỗi họa của trượng phu rồi sau sẽ quan sát lỗi họa của nữ nhơn».

Vua bạch; «Vâng,bạch đức Thế Tôn! Xin thích muốn được nghe.

Ðức Phật nói: «Tất cả trượng phu đều do bốn thứ lỗi lầm bất thiện nên bị nữ nhơn làm mê loạn. 

Một là ở nơi dục nhiễm đam trước không chán ưa thích nữ nhơn mà túng dật, chẳng biết gần gũi Sa Môn và Bà La Môn đủ tịnh giới tu phước nghiệp. Vì chẳng thân cận những bực như vậy nên những tịch tín, thi la,  đa văn bố thí, trí huệ đều thối thất. Do vì không có tín giới văn thí huệ nên người ấy chẳng phải thiện trượng phu làm nghiệp đạo ác, không có trí huệ say mê dục lạc, bị dục bắt, bị dục trói, lấy dục làm mạng sống, gần kẻ ngu xa người trí, làm bạn với kẻ ác tạo tội lỗi, tham ưa cảnh bất tịnh của nữ nhơn bèn bị nữ nhơn chế phục như tôi đòi, hệ thuộc sa ngã ở chỗ nữ nhơn, không biết hổ thẹn, gần kề đến ở cửa ghẻ máu mủ hôi tanh mũi dãi thường chảy  như cảnh bất tịnh ở bãi tha ma.  Ðến đỗi trái bỏ cha mẹ chẳng biết ơn dưỡng. Bỏ lìa Sa Môn Bà La Môn, chẳng có lòng tôn trọng cung kính cúng dường. Với Phật pháp và Tăng chẳng tín kính sẽ mất hẳn Niết bàn giới. Hạng trượng phu nầy sẽ đọa vào địa ngục Chúng Hiệp và địa ngục A Tì, cũng sẽ phải đọa ngạ quỉ súc sanh không ai cứu được. Dầu nghe lời dạy của Phật, nhưng vẫn mãi nhớ tưởng nữ nhơn ca vũ đùa cười chẳng biết chán lìa. Người nầy quen thói ngu ác chẳng thích tu hành sự việc của thiện trượng phu.  Ðại Vương nên biết lúc trượng phu thân cận nữ nhơn chính là lúc thân cận nghiệp ác đạo.  Ðây là lỗi họa thứ nhứt của trượng phu vậy ».

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng: 

« Cảnh dục đều khổ  
Hạ liệt dơ xấu 
Máu mủ tanh hôi  
Rất đáng chán sợ 
Là chỗ chứa họp  
Nhiều thứ lỗi họa  
Nào có người trí  
Ưua thích cảnh nầy  
Như trong hầm tiêu  
Dơ uế đầy tràn  
Cũng như chó sình  
Như dã can chết  
Như rừng thây ma  
Dầy những uế dơ  
Dục nhiễm dơ uế  
Ðáng chán cũng vậy  
Những người ngu si  
Ái luyến nữ nhơn  
Như chó sanh con  
Chưa từng bỏ lìa  
Cũng như ruồi thấy 
Ðồ ăn ói mửa  
Lại như bầy heo  
Ham chỗ dơ dáy  
Nữ nhơn hay phá  
Giới cấm thanh tịnh  
Cũng lại làm hư  
Công đức danh văn  
Làm nhơn địa ngục  
Chướng sanh cõi trời  
Nào có người trí  
Lại thích cảnh dục  
Lại như có người  
Uống ăn thuốc độc  
Thân tâm đao khổ 
Chẳng vận động được  
Do dục nhơn nầy  
Hay làm gốc khổ  
Như thân có đọc  
Ngu chẳng hay biết  
Cũng như chẳng rõ 
Pháp thuật ảo hóa  
Vọng theo tìm cầu 
Luống tự khổ nhọc  
Người ngu cũng vậy  
Ðối với dục nhiễm  
Thường khổ tham cầu  
Phải đọa địa ngục  
Hoặc thiết tiệc tùng  
Ca vũ kỹ nhạc  
Cưới con gái người  
Về làm vợ mình  
Chứa họp nhiều thứ  
Khổ chẳng lợi ích  
Người ngu gây tạo  
Nghiệp khổ vô lợi  
Thêm lớn các tội  
Lui mất căn lành  
Trong việc vô lợi  
Chẳng tiết thân mạng  
Do đây sa đọa  
Hố sâu ác đạo  
Chiêu vời địa ngục  
Hoàn sắt cháy đỏ  
Núi dao lưỡi nhọn  
 Tên độc các khổ 
Nữ nhơn hay họp 
Nhiều sự việc khổ  
G iả mượn hoa hương 
Ðể chưng diện đẹp  
Người ngu ở đây  
Vong lầm tham cầu 
Gần kề ngợi khen  
Cảnh sắc hạ liệt  
Thối thất trí huệ  
Sa đọa tam đồ  
Ðây do ngu si  
Nên bị mê hoặc  
Như chim biển mệt  
Mê mất hướng bờ  
Lại như người ngu  
Lấy dây sắt nóng  
Ðeo vào cổ mình  
Như trâu mang ách  
Cảnh dục như rượu 
Làm say cuồng người  
Tại sao người ngu  
Chẳng biết ngốc khổ  
Hoặc với cha mẹ  
Chẳng biết ơn thương  
Ðiều do nhục nhiễm  
Sanh họa lỗi nầy  
Thường với tà dục  
Các pháp như vậy  
Ca ngợi tập làm  
Chẳng biết hổ thẹn  
Họ do ngu si  
Nên bị mê loạn  
Tạo tội ấy rồi  
Sẽ đến tam đồ  
Người tối cuồng say 
Ðam mê cảnh dục  
Dầu ơn cha mẹ  
Họ cũng bỏ được  
Nếu người tham nhiễm  
 Gần kề cảnh dục 
Thì là chống trái  
Vô thượng phước điền  
Vô lượng câu chi 
Vọng tưởng phiền nhiễu  
Xoay vần bức não  
Từ đây mà sanh  
Hoặc lại mong cầu  
Danh lợi thế gian  
Ðem phi pháp ấy  
Khuyên dụ lẫn nhau  
Do đây hiện tại  
Chiêu vời sự khổ 
Chết chắc phải đọa  
Ðịa ngục an tỳ 
Hiện thấy những khổ  
Ðều họp trên thân  
Bạn lành lìa xa 
Cung trời mất hẳn  
Nào có người trí  
Ưu thích nơi đây  
Thà vào địa ngục  
Chạy trên núi đao  
Nằm trên lò lửa  
Chẳng gần nữ sắc 
Nếu người thường nhiễm  
Ham mê tà dục  
Hư mất rất nhiều  
Những sự lợi lạc  
Người nữ hay làm  
Nhơn các sự khổ  
Tham dục hay hoại  
Tất cả an lạc  
Ác pháp chứa họp 
Thiện hữu xa lìa  
Ðều do gốc nơi  
Tham cầu người nữ  
Nếu người được nghe  
Lời Phật răng dạy  
Ðối với nữ nhơn  
Hay sanh chán lìa  
Thì là trang nghiêm  
Báo trời thanh tịnh  
Cũng sẽ mau chứng  
Vô thượng Bố đề. 

Lại nửa, nầy Ðại Vương! Luận về cha mẹ đều muốn cho con mình được lợi lạc nên hay làm việc khó làm hay nhẫn sự khó nhẫn, dầu tất cả thứ bất tịnh dơ uế đều chịu được cả, lại muốn thân thể sắc lực của mình mau tăng trưởng nên khiến nó thấy những sự thắng diệu trong Diêm Phù bú mớm nuôi nấng không có lòng mỏi nhàm, lại vì muốn cho con mình được vui sướng nên kinh doanh cầu tìm tài vật để cung cấp đầy đủ cho con và đến nhà người cầu hôn cưới con gái cho con. Hôn thú xong đứa con ái luyến vợ quên mất cha mẹ.  Hoặc nó thấy cha mẹ lần suy già nên khinh khi trái nghịch lãng phí tài vật, hoặc dời cha mẹ cho ở chổ khác.  Ðây đều do tham dục làm mê hoặc đên đảo, nên với cha mẹ thì vất bỏ không kính thương nuôi dưỡng, với con gái nhà người thì trân trọng cung kính cung cấp không biết mỏi nhàm,  đây là thành tựu gốc địa ngục, cũng là lỗi họa thứ hai của trượng phu vậy ».

Ðức Thế Tôn kệ rằng: 

«Các ông nên biết  
Ðối với cha mẹ  
Tôn trọng cúng duờng  
Người nầy thường được  
Thích Phạm Hộ Thế  
Vệ hộ phò trì  
Hay khiến ở nhà  
An ổn khoái lạc  
Hoặc nhơn buôn bán  
Ði biển phương xa  
Qua lại an ổn  
Ðược những tài lợi 
Chính đây gọi là  
Ðại bửu vô gía  
Hay cho hiệu qủa  
Tên tối thượng điền  
Như vậy hiện đời  
Qủa báo trân bửu  
Ðều do cúng dường  
Cha mẹ mà được  
Còn ở đời sau  
Sẽ được xa rời  
Thân hình lừa ngựa  
Mang nặng sai khiến  
Cũng chẳng sa đọa  
Ngục phẩn sông tro  
Núi dao mũi nhọn  
Ðồng sôi sắc đỏ  
Lại ở đời kế  
Sanh trong loài người  
Giàu có của báu  
Thóc lụa dư thừa  
Vợ con quyến thuộc  
Thảy đều hòa mục  
Hoặc đến tương lai  
Ðược sanh trên trời  
Cung điện vườn tược 
Âm nhạc tự nhiên  
Tha hồ vui chơi  
Hưởng thọ diệu lạc  
Ðâu có người trí  
Nghe pháp âm nầy 
Với ruộng cha mẹ 
Chẳng siêng cúng dường. 

Lại nầy Ðại vương! Nếu là trượng phu do nơi tà kiến chẳng biết tự thân mau diệt hoại nên gây tạo nghiệp ác mà tự khi dối. Người ngu si nầy luống bỏ qua thời giờ, Như gổ đá chạm trổ làm thành, dầu hình giống người mà không hiểu biết quen làm tham dục, thế là thành tựu nghiệp nhơn ác đạo.  Ðây là lỗi thứ ba của trượng phu».

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng: 

Trượng phu thì dục 
Làm cho mê loạn  
Nên thường gây tạo  
Các thứ tội ác 
Ðiên đão tối tăm  
Che chướng tâm họ  
Nhơn đó sẽ sanh  
Ngục tù ác đạo  
Những kẻ tà hạnh  
Sẽ còn xa lìa  
Tất cả thánh hiền  
Cũng chẳng cung kính  
Các hàng Sa Môn  
Do điên đảo kiến  
Nhẫn đến qui mạng  
Núi sông tà mị  
Do vì tham dục  
Hoặc lại giết hại  
Các loài cầm thú  
Thờ tế thần kỳ  
Nhơn vì đảo kiến  
Phi pháp cầu phước  
Do đây lìa hẳn  
Tất cả an lạc 
Nếu ở trong hàng  
Người tạo ác nầy  
Chẳng biết tịnh tín 
Hung hiểm không thẹn  
Những người như vậy 
Lìa hẳng Hiền Thánh  
Họ chắc sẻ đọa  
Ðịa ngục kêu la 
Hoặc vì tham dục 
Bức khổ người khác  
Sẽ đọa địa ngục  
Ðốt cháy tột đốt cháy  
Lại vì đảo kiến  
Với Phật pháp tăng  
Chẳng thể thân cận  
Cung kính cúng dường  
Pháp bửu chánh giáo  
Mà chẳng lắng nghe  
Xa lìa thánh hiền  
Sa đọa ác thú  
Ví thế người trí  
Ðã được thân người  
Chớ nên lầm lẫn  
Ðiên đảo vọng kiến  
Nên tu bố thí  
Và giữ tịnh giới  
Sẽ được sanh thiên  
Chứng đạo Bồ đề

Lại nầy Ðại Vuơng! Hoặc có trượng phu vì thân mạng mình mà quá lao nhọc chứa họp tài vật, rồi bị nữ nhơn ràng buộc phải cung phụng như tôi đòi nên lại càng tham cầu của báo chẳng bố thí cho Sa Môn và Bà La Môn, họ cũng cam chịu luật vua trị phạt. Thấy nữ nhơn buồn rầu họ liền tự nghĩ nay tôi phải làm sao cho nàng vui vẻ? Những trượng phu nầy là tôi tớ của tham dục, với cảnh hạ liệt bất tịnh ấy lại tưởng là tịnh mà lại sanh lòng ái nhiễm. Lúc gần kề nữ nhơn như vậy chính là tạo thành nghiệp ác đạo.  Ðây là lỗi thứ tư của trượng phu vậy ».

Ðức Thế Tôn nói kệ rằng: 

«Người tham dục sai mê  
Họ thiệt không an lạc  
Vì gần kề ác pháp 
Chẳng gọi thiện trượng phu 
Nếu người tự phóng vật  
Không biết gìn cấm giới  
Tùy tâm ý mà làm  
Hư mất những phước lợi  
Người không trí huệ kia  
Hành các pháp súc sanh  
Chạy đuổi theo ngũ sắc 
Như theo thích phẩn dơ  
Người ngu chẳng biết xem  
Lỗi họa của nhục nhiễm  
Vọng tưởng là ân trọng   
Như người mù lòa kia  
Bị sắc dục trói buộc 
Thêm lớn lòng ái dục 
Dường như loài dã can 
Chẳng rời khỏi tha ma  
Nơi thanh hương vị xúc  
Mà sanh lòng ái nhiễm 
Luân chuyển trong sanh tử 
Như con khỉ cột  
Vì vô minh bao che  
Bị nữ nhơn mê loạn  
Như kẻ chợ cầu lợi  
Dối phỉnh đến thân cận  
Người ngu thân cận dục  
Là vào cảnh giới ma  
Dường như  Ế Ðồ Ca  
Thèm ưa mùi phẩn dơ  
Cũng như trận mưa đá  
Hay tổn hại lúa mạ  
Thợ gốm thường gần lửa  
Phần nhiều bị phỏng nóng  
Những người chưa kiến đế  
Bị dục mất pháp lành  
Như gió thổi cám nhuyễn  
Nghiã ấy cũng như vậy  
Giả như thiện trượng phu  
Bị kẻ nhơn bắt 
Thà chiu khổ nạn nầy  
chẳng nên gần nữ nhơn  
Nếu ham thích nữ sắc  
Lòng tham cầu càng nhiều  
Người phàm ngu thủ tướng  
Thêm lớn lòng ái dục  
Như trong mùa hạ nóng  
Ði lâu trong đồng hoang  
Khát quá uống nước mặn 
Uống xong khát càng tăng 
Người chưa thấy chơn thiệt  
Ngu si luống sanh sống  
Thân cận cùng nữ nhơn  
Tham dục ái vững chắc  
Nếu người chạm rắn độc  
Thì bị rắn làm hại  
Người phàm phu phạm dục  
Bị dục hại cũng vậy  
Ví như bình màu đẹp  
Trong đựng toàn thuốc độc  
Trong bình thiệt đáng sợ  
Mặt ngoài hiện đoan nghiêm  
Trang sức cho nữ nhơn  
Bảo họ là sinh đẹp  
Thân họ rất dơ dáy  
Như túi da đầy phẩn  
Lại như lấy lụa màu  
Quấn lấy lưỡi dao bén  
Trang sức cho nữ nhơn  
Nghiã ấy cũng như vậy  
Như lửa đầy hố sâu  
Không khói hay đốt cháy  
Nữ nhơn cũng như vậy  
Bạo ác không xót thương  
Như thây chó thây rắn  
Xấu dơ mà rã thúi  
Cũng như đốt phẩn dơ  
Mọi người đều gốm nhờm  
Thây chó rắn cùng phẩn  
Dầu rất đáng gớm nhờm  
Nhưng các nữ nhơn kia 
Ðáng gớm lại càng hơn  
Ví như thuở kiếp hoại  
Ðại địa đều nổi lửa  
Rừng rậm những cỏ cây  
Tất cả đều bị cháy 
Loài vật to ở biển  
Nước cạn không lần hết  
Tu Di các bửu sơn  
Thế giới bị cháy khắp  
Thưở kiếp thiêu như vậy  
Ðốt cháy cả núi biển  
Không có chúng sanh nào  
Mà có người cứu được  
Nhơn ái dục nữ nhơn  
Ðốt hại các ngu phu  
Dường như kiếp hỏa tai  
Tất cả bị cháy hết  
Thân bất tịnh thường chảy  
Mũi dãi đàm máu mủ 
Sao kẻ ngu mê kia  
Lại ái luyến thân ấy  
Gân xương kết chỏi nhau  
Gói ghém nhờ da thịt 
Hôi dơ rất đáng gớm  
Như đồ ăn thiêu bỏ  
Cũng như của kho vựa  
Trấu rơm thường bừa bãi  
Thân nầy nhiều dơ xấu  
Sung mãn cũng như vậy  
Gan mật cật tì vị  
Tim phổi ruột phẩn dơ  
Cùng óc tủy mủ máu  
Tám vạn hộ trùng nhỏ  
Ở đó thường ăn nút  
Các người ngu tối tăm 
Lưới si thường quấn trùm  
Không hiểu rõ điều ấy  
Ăn uống cặn bã thừa  
Chín lỗ thường chảy luôn  
Thân tội lỗi như vậy  
Do nghiệp dơ đời trước  
Người ngu ham nữ nhơn  
Ái luyến nơi thanh sắc  
Do đây sanh nhiễm trước  
Chẳng từng biết như thiệt  
Như ruồi thấy ói mửa  
Liền sanh lòng ưa thích  
Người ngu ưa nữ nhơn 
Cảnh giới cũng như vậy  
Nghiêng ngả nơi nữ sắc  
Thường ố quế thân mình  
Tại sao người ngu kia  
Thích gần kề nơi ấy  
Như chim chóc kiếm ăn  
Chẳng biết tránh lưới bẫy  
Tham ái nơi nữ nhơn  
Bị hại cũng như vậy  
Ví như cá trong nước  
Lội bơi trước người chài  
Liền bị họ bắt được  
Há chẳng là tự hại  
Nữ nhơn như người chài  
Siểm cuống khác vì lưới  
Nam tử đồng với cá  
Bị bắt cũng như vậy  
Dao bén của sát nhơn  
Dầu cũng là đáng sợ  
Dao bén nữ nhơn kia  
Tổn hại lại còn hơn  
Như bướm đáp lửa đèn  
Và lúc nhà bị cháy  
Côn trùng bị thiêu đốt  
Không ai cứu vớt nó  
Mê say nơi nữ nhơn  
Bị lữa dục đốt cháy  
Do đây đọa ác thú  
Không được cứu cũng vậy  
Những người ngu tà hạnh  
Ái luyến thê thiếp người  
Vọng sanh tưởng ưa thích  
Dường như gà trống nhà  
Cũng như chim trĩ rừng  
Lầm vào chỗ giết hại  
Nhơn đó tự tổn thương  
Mà không ai cứu giúp  
Bỏ rời Phật chánh pháp 
Gần kề nữ nhơn kia  
Do nghiệp nhơn duyên nầy  
Sa đọa ba ác đạo  
Lại như bầy khỉ kia  
Chuyền nhảy trong gộp cây  
Tất sẽ bị tổn thương  
Há chẳng vì tham ngu  
Cũng vậy người tham dục  
Với các nữ nhơn kia  
Bị lưới si chụp bắt  
Luôn bị khổ sanh tử 
Như người tội thế gian  
Bị xử giáo nhọn đâm  
Kẻ mê say dâm dục  
Thường luyến rừng gươm nhọn  
Như dùng ngọn lửa mạnh  
Ðốt nấu vạc nước sôi  
Ðem bắp mè ném vào 
Theo nước sôi trôi chìm 
Cũng vậy người tham dục  
Chẳng hiểu biết thiện ác  
Chết sẽ đọa ác đạo  
Bị nấu trong vạc sôi  
Số lớn của vạc sôi  
Sáu mươi bốn câu chi  
Những kẽ gây nghiệp ác  
Lấy đó làm chỗ ở  
Mỗi mỗi vạc như vậy  
Rộng lớn một do tuần  
Lửa mạnh đốt khắp bề  
Ðáy và bốn bên vạc  
Có kẻ mãn trăm năm  
Hoặc hai ba bốn trăm 
Chịu khổ nung nấu nóng  
Ðều do nghiệp mình tạo  
Ngục tốt cầm móc bén  
Thỉnh thoảng lại móc ra  
Da thịch đều nhừ rã  
Chỉ còn lại xương trắng  
Bấy giờ các ngục tốt  
Lại đem đến chuồng sắt  
Lấy chài đâm giã nát  
Không ai cứu giúp được  
Bấy giờ các xương tủy  
Ðều nát nhỏ như bụi  
Do gió nghiệp thổi đến  
Chết rồi mà sông lại  
Nếu có kẻ xâm bức  
Vợ con của kẻ khác  
Sẽ phải leo gai sắt  
Và bị nạn búa chày  
Thiết xoa ba chia nhọn  
Hoặc có bốn năm chia 
Xâm bức vợ con người  
Sẽ bị hình phạt ấy  
Lại có quạ mỏ sắt  
Mổ moi lấy tủy óc  
Các bầy sói dã can  
Tranh đến táp liếm ăn  
Người tà dục như vậy  
Sẽ đọa địa ngục phẩn  
Hoặc chạy trên mũi dao  
Cũng phải trèo núi dao  
Người tà dục như vậy   
Sẽ đọa ngục nóng đốt  
Ðã bị khổ cháy thiêu  
Rồi đài qua ngục băng  
Người tà dục như vậy  
Cũng đọa ngục cực nhiệt 
Hiều kiếu và đại kiếu  
Cùng qua ngục hắc thằng  
Người tà dục như vậy  
Sẽ chìm sông hèm nóng  
Lại trãi qua ngục tro 
Chưa tới đáy đã chết 
Có ngục tật lê sắc 
Năm gốc gai nhọn bén  
Bị chó sắt rượt cắn  
Sợ chạy vào rừng gai  
Ái luyến nơi nữ nhơn  
Ðọa vào chỗ đại bố  
Hoặc phải nuốt hoàn sắt  
Hoặc phải uống nước đồng  
Có hai núi sắc nóng  
Kia đây ép vào nhau  
Người tham dục ngày xưa  
Nay bị khổ trong ấy 
Lúc khổ như vậy  
Ðều không ai cứu giúp 
Bị tội báo khổ ấy  
Ðều do nghiệp mình gây  
Người đồng vui ngày trước  
Nay nào thấy họ đâu  
Chỉ riêng mình chiệu khổ 
Họ chẳng đến cứu nhau  
Do vì ở đời trước  
Tự gây tạo tội nghiệp  
Dầu cho đến cha mẹ  
Cũng chẳng cứu nhau được  
Do vì ở đời trước  
Tự gây tạo tội nghiệp  
Dầu cho đến con cái  
Cũng chẳng cứu nhau được  
Do vì ở đời trước  
Tự gây tạo tội nghiệp  
Dầu cho đến anh em  
Cũng chẳng cứu nhau được  
Do vì ở đời trước  
Tự gây tạo tội nghiệp  
Dầu cho đến chị em  
Cũng chẳng cứu nhau được  
Do vì ở đời trước  
Tự gây tạo tội nghiệp  
Dầu cho đến bằng hữu  
Cũng chẳng cứu nhau được  
Kẻ ngu vì tà dục  
Tham tìm cầu nữ nhơn  
Nơi địa ngục vô gián  
Bị những khổ như vậy  
Nói nữ nhơn bất tịnh  
Dơ xấu nhiều như vậy  
Chỗ kẻ ngu đến gần  
Người trí đều lìa xa  
Thân cận nữ nhơn kia  
Rất là tột hạ liệt  
Là ác trong những ác  
Nào có đáng vui ưa  
Các phàm phu tham dục  
Thường ôm ấp túi phẩn 
Do nghiệp nhơn duyên nầy  
Sẽ nhận vô lượng khổ  
Người ngu vì nữ nhơn 
Cam chịu những hình phạt 
Tù trói và đáng đập  
Vẫn không lòng chán lìa  
Người ngu vì nữ nhơn  
Bị các thứ thiêu hại  
Hay nhịn chịu khổ đau  
Vẫn không lòng chán lìa  
Hoặc đặt trên cây nhọn  
Hoặc giết hoặc nhận nước  
Hoặc ném vào hố to  
Chịu đủ mọi khổ độc  
Dầu thấy khổ như vậy  
Còn ở trong dâm dục  
Khen gợi các nữ nhơn  
Chưa hề biết chán lìa  
Hoặc có người trí ít  
Biết là gốc sự khổ  
Biết mà vẫn thân cận  
Như keo sơn gập lửa  
Nghe lời Phật răng dạy  
Dầu có lòng tin nhận  
Vẫn nuôi chứa nữ nhơn  
Ðông nhiều như bầy dê  
Hoặc nghe lời Phật dạy  
Vừa khởi lòng hối nhàm  
Gây lát hại sanh tham  
Như bịnh độc lại phát  
Dường như  heo bị bố  
Tạm dừng trong gây lát  
Nếu thấy vũng phẩn dơ  
Lòng tham ái lại sanh  
Người ngu nghe pháp rồi  
Tạm thời lòng kinh sợ  
Lúc sau thấy sắc dục  
Lòng tham ái lại sanh  
Dường như có trượng phu  
Từ trên thân đầu mình  
Lột bỏ vòng hoa vàng  
Lại đội nón sắt nóng  
Người ngu vì tham dục  
Ném bỏ lời Phật dạy  
Tham cầu pháp hạ liệt  
Gây tạo các tội nghiệp  
Người say mê sắc dục  
Ðọa trong cõi Diêm La  
Thường nuốt hoàn sắt nóng 
Lại uống nước đồng sôi  
Người sai mê sắt dục  
Bỏ lành mà làm quấy  
Bỏ rời chỗ thanh lương  
Ðến hẳng cõi Diêm La  
Nếu người có trí huệ  
Nghe Phật nói pháp nầy  
Phải bỏ tất cả dục  
Mau cầu đạo xuất ly ».

Ðức Thế Tôn nói kệ rồi, vua Ưu Ðà Diên bạch rằng: « Bạch đức Thế Tôn! Những lời vừa được nghe đây thật là hi hữu hi hữu.  Ðức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác khéo nói lỗi họa của sắc dục. Nay tôi quy y Phật Pháp Tăng tam bửu. Từ đây đến trọn đời tôi quy y Phật Pháp Tăng làm Ưu Bà Tắc, ngưỡng mong đức Thế Tôn nhiếp thọ tôi ».

Ðức Phật nói kinh nầy rồi, vua Ưu Ðà Diên và các đại chúng Trời Người thế gian Thiên Long Bát Bộ nghe lời đức Phật dạy tất cả đều hoan hỉ phụng hành.  

Pháp hội 
ƯU ÐÀ DIÊN VƯƠNG 
Thứ hai mươi chín 

HẾT

MỤC LỤC

Tác giả bài viết: HT. Thích Trí Tịnh

Nguồn tin: Thư Viện Hoa Sen