Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Tiến thẳng vào Thiền Tông 2005 Phần II

Đăng lúc: Thứ tư - 08/02/2012 09:58 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Tiến thẳng vào Thiền Tông 2005 Phần II

Tiến thẳng vào Thiền Tông 2005 Phần II

THÍCH THANH TỪ TIẾN THẲNG VÀO THIỀN TÔNG DL 2005 - PL 2549

ĐƯỜNG SANH TỬ ĐƯỜNG BẤT TỬ

Thiền viện Trúc Lâm - Đà Lạt ngày 29-08-2004
Hôm rồi tôi có giảng kinh Bát-nhã, hôm nay tôi sẽ bổ túc thêm những ý hay trong kinh Bát-nhã mà lần trước tôi chưa nói hết, kế đó tôi sẽ nói về kiến giải điên khùng của tôi.

Trước hết là phần giảng kinh. Ở đây không giảng từng câu, từng chữ trong Bát-nhã vì tôi đã giảng kinh này đôi ba lần rồi. Những từ ngữ, những ý nghĩa thông thường quí vị đã nghe, bây giờ tôi nói những ý nghĩa vượt ngoài sự thông thường.

Nói đến kinh Bát-nhã ai cũng thuộc lòng. Bát-nhã Tâm Kinh thuộc hệ thống Bát-nhã. Chúng ta thử đặt lại câu hỏi: “Trong Ngũ thừa Phật giáo, hệ thống Bát-nhã thuộc thừa nào?” Nắm được chỗ đứng của Bát-nhã, chúng ta mới hiểu Bát-nhã. Ngũ thừa Phật giáo gồm có: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa. Nhân thừa, Thiên thừa dạy chúng sanh tu để được trở lại làm người hay sanh lên cõi trời. Thanh văn thừa, Duyên giác thừa dạy chúng sanh tu chứng Tứ quả A-la-hán, quả Duyên giác. Kinh Bát-nhã thuộc về Bồ-tát thừa, qua cả Thanh văn, Duyên giác đi thẳng tới Bồ-tát, cao như thế.

Hiểu vậy khi học kinh chúng ta mới thấy ý nghĩa cao siêu của kinh. Kinh Bát-nhã có sau hệ thống kinh A-hàm. Mở đầu bài Bát-nhã, Phật nói: - Bồ-tát Quán Tự Tại hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Đối với Bồ-tát thừa, Phật nói thẳng ngũ uẩn giai không. Để cho quí vị dễ hiểu, chúng tôi nhắc lại hệ thống A-hàm. Kinh A-hàm, Phật tùy thuận chư thiên mời thỉnh dùng phương tiện giáo hóa. Bởi vì khi thành đạo rồi, Ngài do dự không muốn đi giảng. Ngài tự than giáo lý của ta thấy, ta ngộ, nói ra không ai hiểu nên không muốn giáo hóa. Do đó chư thiên hiện ra, đảnh lễ cầu Phật dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh. Đức Phật nhận lời, sau đó Ngài quán sát những chúng sanh nào có duyên với Ngài thì hóa độ.

Hội ban đầu ở vườn Lộc Uyển, Phật nói kinh Tứ đế. Đó là Ngài dùng phương tiện giáo hóa, chớ chưa phải chỉ lẽ thật Ngài đã thấy. Chúng ta nhớ, trong giáo lý Tứ đế Phật nói Khổ đế đầu tiên. Tại sao Phật lại nói khổ? Bởi vì chúng sanh mê lầm cho thế gian là vui. Thế gian cho năm dục: tài, sắc, danh, thực, thùy là vui. Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh lợi, thực là ăn ngon, thùy ngủ kỹ. Năm thứ này thế gian cho là vui thích. Đối lại năm thứ vui ấy, Phật nói bốn thứ khổ của thân là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ. Kế nữa Phật nói bốn thứ khổ của tâm là ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Ái biệt ly khổ là những người mình thương mến phải xa lìa, như mất cha, mất mẹ, mất anh em, mất người thân. Oán tắng hội khổ là kẻ mình thù ghét cứ gặp mặt, làm việc chung hoài nên khổ. Cầu bất đắc khổ là những gì mình mong muốn nhưng không được như ý nên khổ. Ngũ ấm xí thạnh khổ là thân năm ấm này sanh ra chứng tật, đủ thứ bệnh hoạn nên khổ. Thế gian thấy ngũ dục là vui, trong khi đạo Phật nói tới tám thứ khổ. Đó là vì muốn đối trị lại tâm mê lầm, tưởng thế gian vui rốt cuộc chỉ toàn đau khổ.

Quí vị thấy thân này thật không? Nếu thấy thân thật là đang ở trong vô minh. Tại sao? Vì ai cũng biết thân này nhiều lắm bảy, tám chục năm cũng phải hoại. Có rồi hoại, làm sao thật được. Thật thì không hoại, còn hoại thì không thật. Cho nên thấy thân thật là thấy sai sự thật. Do thấy sai sự thật nên đắm mê nó, Phật gọi là vô minh. Chúng ta được mấy người ra khỏi vô minh? Rất ít. Bởi vậy, tiếp nối sanh tử không cùng. Đó là chỗ chư Phật thương xót, chúng sanh chìm trong sanh tử không biết lối ra.

Đức Phật dùng lý nhân duyên để giải thích thân này do nhân duyên hòa hợp mà thành, nó không tự có. Bắt đầu từ vô minh lần lần tiếp nối cho đến sanh lão bệnh tử, khiến chúng sanh đi mãi trong luân hồi sanh tử. Chúng ta thấy thân thật là nắm tay nhau mà đi trên đường luân hồi sanh tử. Chừng nào thấy thân này hư giả không thật, ai chửi cũng cười, mắng cũng cười, đó là ta chuẩn bị ra khỏi vòng vô minh.

Lâu nay người ta bảo giới xuất gia là giới tu để giải thoát sanh tử, như vậy tại sao chúng ta lại đồng ý đi trong sanh tử? Đó là điểm yếu của mình. Chúng ta nguyện thoát ly sanh tử mới cạo đầu xuất gia, bỏ cha bỏ mẹ, tất cả quyến thuộc, đi vào đạo với mục đích vạch một con đường giải thoát để cứu mình và những người thân đang trầm luân. Ta đã nguyện như thế mà bây giờ cứ tiếp tục đi trên đường trầm luân thì chừng nào cứu được?

Qua lý nhân duyên chúng ta thấy thân này do duyên hợp tạm bợ, không thật nên không có vấn đề gì quan trọng. Bản thân ta không thật thì việc khen chê, thương ghét cũng không thật. Chúng đã không thật tại sao ta bị quay trong đó, không ra khỏi? Như có người phê bình thầy hay cô tu dở quá, quí vị giận không? Người ta nói sự thật để mình tỉnh mà lại giận, có phải vô minh không? Chúng ta nói tu mà không dám nhận sự thật, cứ ôm ấp mê lầm, rồi cùng dẫn nhau đi trong luân hồi không có ngày ra. Đó là chỗ hết sức quan trọng. Vì vậy Phật nói Tứ đế, Thập nhị nhân duyên để phá chấp cho cuộc đời là vui, phá chấp cho thân này là thật.

Tất cả giáo lý của Phật đều xoay quanh con người, chỉ cho chúng ta thấy thế nào là duyên hợp, thế nào là khổ để mình biết mà thức tỉnh, không say mê trong đó nữa. Ai tu theo pháp Tứ đế đến nơi đến chốn sẽ chứng Tứ quả Thanh văn, gọi là Thanh văn thừa. Ai tu theo pháp Thập nhị nhân duyên chứng được lý nhân duyên gọi là Duyên giác thừa.

Kế đến Bồ-tát thừa. Bồ-tát lấy giác ngộ làm chân, chớ không đối trị như Thanh văn, Duyên giác. Vì vậy nói tới Bồ-tát là nói tới giác ngộ. Kinh Bát-nhã, Phật nói với Bồ-tát, Ngài dạy chỉ cần chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách, nghĩa là soi thấy năm uẩn đều không liền qua hết khổ nạn. Ở đây Phật không nói khổ, không nói duyên hợp gì hết, chỉ biết thân năm uẩn là không thì qua hết tất cả khổ. Tại sao? Phàm những gì có hình tướng do nhân duyên hợp thành đều vô thường, mà cuối cùng của vô thường là không. Như nói cái nhà vô thường, bởi vì khi nó gãy mục hết sẽ thành không. Con người cũng vậy, vô thường nên cuối cùng tan rã thành không. Như vậy không là kết quả cuối cùng của tất cả sự vật có hình có tướng. Phật dạy soi thấy năm uẩn đều không là đi tới kết thúc, không còn phân biệt khổ, phân biệt nhân duyên quanh co, mà đi thẳng vào không, thấy rõ ràng là không. Thấy như thế nên hết khổ.

Chúng ta đọc chiếu kiến ngũ uẩn giai không mà thấy toàn là giai hữu. Phật dạy một đường mình hiểu một ngả, không hiểu theo Phật, nên không qua khổ nạn được. Khổ nạn nào chúng ta cũng mắc kẹt. Tăng Ni ở các Thiền viện, lấy kinh Bát-nhã làm cơ bản tụng niệm hằng ngày. Đó là quí vị đang đi trên con đường của ai? Của Bồ-tát, chớ không phải của Thanh văn, Duyên giác. Hiểu như vậy, mới biết rõ được chỗ đứng của mình.

Bồ-tát thừa thì không có thứ bậc, đi thẳng đến chỗ cuối cùng. Như Tứ đế nói thân này sanh, già, bệnh, chết, Bát-nhã nói thân này là không, nghĩa là chết rồi trở về không. Như vậy nói không là nói chỗ kết thúc của thân này. Tất cả tâm duyên theo cảnh cũng là không. Như vậy Bát-nhã thấy tột lẽ thật ngũ uẩn là không, do thấy tột ngũ uẩn là không  nên hết khổ.

Mở đầu Bát-nhã Tâm Kinh, Phật nói Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Trí tuệ Bát-nhã thấy năm uẩn là không, bởi giác ngộ nên Ngài qua hết tất cả khổ nạn. Chúng ta không ai quên câu này nhưng lại không thấy như Bồ-tát Quán Tự Tại. Phật giải thích từng phần cho ngài Xá-lợi-phất nghe. Trước hết Phật nói Sắc uẩn là không, vì Sắc uẩn là tứ đại. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa trong thân chúng ta. Da thịt gân xương là đất. Nước mắt, mồ hôi máu mủ là nước. Thở ra, hít vào là gió. Hơi ấm trong người là lửa. Tứ đại hòa hợp thành Sắc uẩn, Phật nói nó là không. Tại sao? Vì cái gì do duyên hợp thì phải tan. Tan thì thành không. Thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế, đều là không. Câu chót Phật nói thị chư pháp không tướng, chỗ này là điểm quan trọng trong buổi giảng hôm nay.

Thị chư pháp không tướng nghĩa là tướng không của các pháp. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt. Hồi xưa tôi không dám nói tướng không của các pháp là không, mà tôi nói thân do duyên hợp nên không có chủ thể, không có chủ thể nên gọi là không. Gọi không như thế là tánh không chớ không phải tướng không. Đó là chỗ trước kia tôi bị kẹt. Một buổi khuya ngồi thiền chừng một giờ, bất chợt tôi nhớ lại, tại sao tướng không mà mình lại giảng tánh không? Vừa đặt câu hỏi xong tôi tự trả lời, tự giải quyết ngay. Giải quyết được rồi tôi rất vui.

Sở dĩ trước kia tôi giảng các pháp duyên hợp không chủ thể gọi là không, vì tôi nghe quí Hòa thượng dạy: “Thà chấp có bằng núi Tu-di, không nên chấp không bằng hạt cải.” Tôi nghĩ nếu mình nói không trơn, không trống rỗng, sợ người ta chấp không thì mang tội, vì vậy tôi nói các pháp duyên hợp không chủ thể nên gọi là không, để tránh cái chấp không. Tôi không ngờ cái chấp không của các bậc Tôn túc dạy là chấp không có thiện, không có ác, không tội, không phước, không nhân, không quả, không nghiệp báo luân hồi. Đó gọi là chấp không.

Còn kinh Bát-nhã thấy triệt để được tướng không của các pháp, thấy bằng trí tuệ tướng không của các pháp, chớ không phải chấp không. Tự giải quyết xong điều này, tôi vui quá. Giờ ngồi thiền còn lại trở về sau, toàn là những kiến giải điên khùng nổi dậy, hết cái này tới cái kia, suốt luôn tới sáng không quên. Vì vậy phần giảng kinh tới đây dừng, tôi sẽ nói sang phần kiến giải điên khùng.

Lâu nay tôi cứ sợ nói không là chấp không, nhưng sự thật không phải vậy. Ở đây nói không là đối với những vật có hình, do sắc chất kết tụ thành nên có sắc. Những thứ đó gọi là tướng có, vì có hình thể, có sắc chất. Còn cái không có hình thể, không có sắc chất gọi là tướng không. Một bên tướng có, một bên tướng không. Nếu không có tướng không, làm gì có tướng có, vì hai thứ đối đãi nhau. Cho nên nói tới tướng có thì phải chấp nhận tướng không.

Tướng không là tướng thế nào? Hồi xưa tôi cứ mắc kẹt chỗ này. Tôi nghĩ không thì không có tướng, vì có tướng phải có hình thức, có vật thể. Không hình thức, không vật thể làm sao nói có tướng được. Nhưng Phật xác định tướng không đối với tướng có. Có sắc chất, có hình thể là tướng có. Không sắc chất, không hình thể là tướng không. Cho nên cái không là cái thực hữu. Nói thế có điên không? Tướng có như thân này, như cái nhà, như cây cối trước mắt chúng ta nhìn thấy, những tướng đó là tướng thật hay tướng giả? - Tướng giả. Như vậy tướng nào tướng thật? Đó là điều chúng ta mắc kẹt.

Phàm những gì duyên hợp mà thành đều là giả tướng, còn tướng không không có duyên hợp. Có khi nào nó thay đổi không? Muôn đời không vẫn là không. Chúng ta đọc kinh thấy chữ thật tướng, mà không biết tướng thật là tướng nào. Chỉ nhớ những tướng mắt thấy, tay sờ mó được cho là tướng thật, không ngờ tất cả những tướng ấy là tướng duyên hợp, hư giả. Còn tướng không mới là tướng thật muôn đời không thay đổi.

Chúng ta lâu nay nghe nói không là sợ, đâu ngờ cái không đó lại là cái thật, cái có tướng mới là cái giả. Tôi nói cái không là thật, cái có là giả, như vậy có điên không? Điên rồi. Cả trăm, cả triệu người thấy các tướng của sự vật là thật, tướng không là không có gì. Bây giờ tôi lại thấy tướng không là thật, các tướng kia là giả, không phải điên là gì?

Kinh Bát-nhã nói thật tướng là vô tướng, không có tướng mới là tướng thật. Chúng ta chú ý tới câu không tướng bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, cái tướng không đó không sanh, không diệt, đời đời không bao giờ thay đổi, còn cái gì sanh diệt luôn luôn thay đổi. Không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt là không có hai bên, không có đối đãi. Như vậy nói tới tướng không là cái không sanh diệt, không đối đãi. Chúng ta tu nhập Niết-bàn là nhập cái gì? Niết-bàn là vô sanh, nên nhập Niết-bàn là nhập vô sanh. Chúng ta có cái không ấy chính là vô sanh mà lại bỏ qua, chạy theo cái sanh diệt.

Phật dạy thân này do tứ đại hòa hợp. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa, ai cũng biết rồi. Các kinh A-hàm chỉ nói tới chừng đó thôi, nhưng qua Bát-nhã thì thêm một đại nữa, đó là không đại. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật còn nói thêm thức đại, kiến đại, tổng cộng là bảy đại. Đất, nước, gió, lửa dễ hiểu rồi, nhưng không đại thì thế nào? Bây giờ quí vị tự kiểm lại trong thân mình, phần hư không nhiều hay ít? Hai lỗ mũi trống tức là không, lỗ tai trống là không, cổ họng trống là không. Trong con người chúng ta, cái không luồn sẵn khắp hết. Bao tử chứa được cơm cũng nhờ trống, những mạch máu trống mới dẫn máu chạy khắp thân, lá phổi nở tóp cũng nhờ trống. Cả thân mình từ đầu đến chân, mỗi lỗ chân lông đều trống, đều thưa hở hết. Kiểm lại phần trống trong thân rất nhiều.

Trong tứ đại, thiếu một đại nào chúng ta còn giải quyết chậm một chút, chớ không đại mà thiếu thì sao? Lỗ mũi, cổ họng bít lại thì sao? - Thì chết. Như vậy không đại hệ trọng đối với sự sống của chúng sanh đến cỡ nào? Vậy mà chúng ta đâu thèm biết tới nó, cứ lo bồi bổ mấy thứ có. Thiếu nước, thiếu đất liền lo đem vô, còn cái không thì quên mất.

Kế đến thức đại. Chúng ta có sáu căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, mỗi căn đều có thức phân biệt. Thức trùm hết cả người nên gọi là thức đại. Cuối cùng là kiến đại, đại này nghe hơi lạ, tôi sẽ nói sau. Bây giờ quí vị nhìn lại không đại trong con người chúng ta với hư không trống rỗng bên ngoài, là một hay khác? - Không hai. Giả sử thân này rã ra, cái không trong người chúng ta sẽ nhập với hư không. Không không có hai, không có ranh giới. Ở trong người mình, cái không ít nhưng thân này rã ra, nó hoà nhập với hư không bên ngoài, chớ không riêng khác. Hư không thì không hai. Chúng ta có sẵn cái không ấy ở trong con người mình.

Kiểm lại đất, nước, gió, lửa, bốn thứ đó là vô tri. Đến cái không là vô tri hay hữu tri? - Cũng vô tri. Như vậy phần vô tri của thân là tứ đại và không đại. Thức đại thì hữu tri, vì thức là tâm thức phân biệt nên hữu tri. Thức phân biệt là thức sanh diệt. Đến kiến đại, nói đủ là kiến văn giác tri tức thấy, nghe, cảm xúc và biết. Cái đó hằng hữu, không tướng mạo, không sanh diệt mà thường biết. Như lỗ tai hay nghe, cái hay đó có tướng mạo gì không? Con mắt hay thấy có tướng mạo gì không? Như vậy cái nghe, cái thấy v.v… không có tướng mạo, thường hằng hữu, nó thuộc phần kiến đại. Nhưng thấy mà khởi niệm phân biệt là qua thức rồi.

Chúng ta có hai phần:

1. Thân và tâm sanh diệt. Thân sanh diệt là thân tứ đại. Tâm thức sanh diệt bám theo tứ đại phân biệt hơn thua, phải quấy, thương ghét v.v… gọi là thức. Nó đi theo con đường của tứ đại, duyên hợp sanh diệt. Nếu chúng ta cho thân tứ đại là thật thì cũng cho thức phân biệt là thật. Cho thức là tâm mình, tứ đại là thân mình. Khi tứ đại này mất nhất định sẽ bám vào tứ đại khác, do tâm thức mang nghiệp lành dữ. Như vậy tâm thức mang nghiệp lành dữ để đi tới thân tứ đại khác, tốt xấu tùy theo nghiệp lành hay dữ. Đó là chúng ta đi trong con đường sanh tử không có ngày dừng.

2. Thân và tâm không sanh diệt. Không đại là cái bất sanh bất diệt, dùng kiến đại để hoà nhập với không đại. Kiến đại hằng hữu không sanh, không diệt mà thường giác, thường tri. Lấy cái thường giác, thường tri, không sanh, không diệt đó làm tâm mình, nhà Phật gọi là Chân tâm hay Phật tánh. Tâm bất sanh bất diệt là Tánh giác. Lấy tướng không vô tri không sanh không diệt làm thân. Thân và tâm không sanh không diệt hòa nhập nhau, gọi là nhập Pháp thân. Pháp thân bao lớn? Trùm khắp hết. Đây là vấn đề rất quan trọng.

Như vậy nơi chúng ta có đủ hai phần: Phần tướng sanh diệt là tứ đại, tâm sanh diệt là thức đại. Sống với tướng và tâm sanh diệt thì đi một chùm trong luân hồi. Phần tướng không sanh diệt là không đại, đi chung với tâm bất sanh bất diệt là kiến đại. Sống với tướng và tâm bất sanh bất diệt thì đi theo đường giải thoát. Cho nên giải thoát và trầm luân nơi chúng ta có đủ hết.

Người tu chọn đường nào? Chọn đường trầm luân hay giải thoát? Chúng tôi bắt quí vị ngồi thiền để làm gì? Để dẹp tâm sanh diệt. Nó lặng hết mới sống với tâm vô sanh được. Sống với tâm vô sanh mới hòa nhập với thân hư không vô sanh. Nếu chúng ta cứ buồn thương, giận ghét thì sống với thức sanh diệt, hòa nhập với tứ đại sanh diệt, do đó đi mãi trong luân hồi sanh tử. Đó là chỗ thấy điên khùng của tôi.

Tới đây tôi mới thấy lâu nay mình tu hời hợt quá, nên con đường giải thoát rất lờ mờ. Cứ chạy tìm cái bên ngoài mà quên cái sẵn ở trong. Phật xác định tướng không của các pháp là không sanh, không diệt, không nhơ, không sạch… rõ ràng như vậy. Đọc Tín Tâm Minh tôi thấy Tổ Tăng Xán nói: “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch, đản mạc tắng ái, đổng nhiên minh bạch.” Nếu không có thương ghét thì đại đạo rõ ràng trước mắt.

Bây giờ chúng ta thương ghét nhiều ít? Quá nhiều! Thương ghét quá nhiều thì chắc chắn đời sau đi nữa, nhưng không biết đi đâu? Thượng tầng là cõi trời, trung tầng là dân gian, hạ tầng là thấp nữa. Lâu nay chúng ta cứ nghĩ thức phân biệt là tâm, bám vào đó để phân biệt chia chẻ, khôn dại, hơn thua, phải quấy, tốt xấu… cả ngày cái đầu không dừng suy nghĩ. Tâm thức là một dòng sanh diệt, thấy đó rồi mất đó, tìm lại không có mà chúng ta lấy nó làm tâm, lấy tứ đại làm thân. Tứ đại vô thường sanh diệt, thức cũng vô thường sanh diệt, lấy hai cái sanh diệt làm mình thì muôn kiếp đi trong luân hồi, không thể nào ra khỏi.

Muốn ra khỏi luân hồi, giải thoát sanh tử thì nơi mình có sẵn cái không, tựa vào đó rồi dùng cái biết sẵn chưa từng sanh chưa từng diệt làm tâm, sử dụng hai thứ thân và tâm không sanh diệt này thì nhắm mắt thân thênh thang, tâm cũng thênh thang.

Hồi xưa tôi nghĩ hơi dốt một chút. Tôi nói hư không trong người mình ít xịu, có chút thôi mà hư không bên ngoài quá lớn, làm sao hòa nhập được. Nhưng bây giờ thấy rõ hư không không có giới hạn, không lớn nhỏ. Nhỏ lớn là tại cái khung đóng nó lại, chớ hư không là hư không, giở cái khung ra thì hư không chỉ có một. Hư không của thân hòa nhập với hư không của vũ trụ là một, không phải hai. Nếu lấy hư không làm thân thì cả vũ trụ là thân mình. Tu như vậy thân tâm mới trùm hết, nên nói trùm pháp giới. Tâm suy nghĩ, so lường thì có hình tướng, có sanh diệt, còn tâm hằng tri hằng giác, không suy nghĩ mà hằng biết, không lúc nào vắng mặt. Tâm này không có tướng, không sanh diệt. Sống với tâm không sanh diệt, chúng ta sẽ hòa nhập được với thân không sanh diệt. Đó là Pháp thân.

Chúng ta muốn giải thoát sanh tử phải đi con đường bất sanh bất diệt. Hồi xưa tôi cứ thắc mắc, nhập Niết-bàn là vô sanh, mà cái gì vô sanh? Về Cực Lạc ngồi tòa sen, vui vẻ đi chơi nước này nước nọ, hái hoa cúng dường rất vui. Còn nhập Niết-bàn vô sanh không có gì hết, buồn chết. Nhưng bây giờ tôi thấy không phải vậy. Chính thể nhập được Pháp thân rồi mới có Ứng thân, Hóa thân, Báo thân. Từ Báo thân, Ứng hóa thân muốn độ chúng sanh ở đâu cũng được. Nhập được thể không rồi thì sau này diệu dụng vô cùng.

Như chúng ta thường lạy mỗi đêm đức Phật Thích-ca, với danh hiệu “Nam-mô Thiên Bá Ức Hóa thân Thích-ca Mâu-ni Phật”. Đức Phật đã nhập Niết-bàn mà Ngài còn có trăm ngàn muôn ức thân, chớ không phải hết. Còn chúng ta sanh trở lại hiền lành cũng chỉ một thân thôi. Bao giờ thể nhập được Pháp thân sẽ ứng hóa vô lượng vô biên, độ hết chúng sanh. Như vậy thì đừng nói nhập Pháp thân sẽ buồn hiu, không có gì nữa. Chừng ấy tùy ứng tùy hóa, ai có duyên thì mình hóa độ để đền trả ân xưa hoặc công đức của họ.

Đó là một chặng điên khùng của tôi.

Đến cái điên khùng khác, tôi nhớ hiện tại mình sống đây, bước vô nhà người ta thì nhìn bàn ghế, tranh ảnh, chớ không ai nhìn hư không trong nhà. Nhìn bàn ghế, tranh ảnh rồi khen chê, toàn là nhìn cái có. Ra vườn thấy cây này cây kia, hoa này hoa nọ, ít ai nói khung cảnh vườn trống trải. Đa số nhìn vào tất cả sự vật và ngoại cảnh có hình tướng. Cho nên cả ngày mắt chúng ta đeo theo các thứ sắc tướng, âm thanh, còn hư không tràn trề lại không nhớ.

Hôm trước tôi có nói, bây giờ tôi mang ơn hư không quá chừng. Nói vậy không phải điên là gì, hư không mà mang ơn? Nhưng sự thật như thế. Cả ngày có lúc nào chúng ta rời hư không đâu, kể cả giờ ngủ cũng phải có hư không trống để hít thở. Hư không mang lại cho chúng ta bao nhiêu điều tốt lành để chúng ta sống. Thế mà mình không thèm biết, chỉ biết cơm, bánh, cây cối, hoa quả… toàn các thứ sanh diệt.

Đặt câu hỏi thêm nữa, trước khi cha mẹ chưa sanh ta là gì? Thân này có không? Không có, do cha mẹ sanh mới có. Sau khi thân này chết rồi sao nữa? Cũng là không. Trước không, sau không, giữa thì ở trong không, ở ngoài không bao bọc. Vậy mà mình không thèm nhớ cái không, chỉ nhớ toàn những thứ sanh diệt, đeo theo nó mà bỏ quên hẳn cái không mênh mông. Như vậy chúng ta biết ơn biết nghĩa không?

Bây giờ tôi đặt câu hỏi tiếp: “Cây cối sống được, có hoa có quả cho mình ăn cũng nhờ cái gì?” Nhờ hư không nó mới sống. Cả quả đất này quay vòng vòng ở đâu? Trong hư không. Tóm lại, tất cả đều được sự bảo bọc của hư không, xoay bề này bề kia đều nhờ hư không, nên ở đâu cũng sống được. Từ người đến muôn vật sống là nhờ hư không, vậy mà không biết hư không, sợ hư không nhất.

Từ đó tôi suy luận ra, nếu đặt câu hỏi: “Trong bầu trời đất này cái gì có trước nhất?” Quả địa cầu chúng ta thành hình cũng duyên trong hư không tụ lại mà thành, ngày nào hết duyên nó hoại cũng trở về không. Con mắt của Phật nhìn thấy các loài động vật đều trải qua bốn tướng sanh, già, bệnh, chết; các loài thực vật trải qua bốn tướng sanh, trụ, dị, diệt; còn đối với quả địa cầu là thành, trụ, hoại, không. Con người có bốn tướng sanh, già, bệnh, chết, sau cái chết là không. Cây cối thực vật là sanh, trụ, dị, diệt, sau diệt cũng trở thành không. Đến quả địa cầu là khoáng chất, khi nó nát rồi cũng trở thành không. Như vậy từ không mà thành, rồi hoại trở về không. Cái không là chỗ tuyệt đối, không còn gì đối đãi nữa, cùng tột là không.

Lý Bát-nhã chỉ cho chúng ta thấy không là cái tột cùng của muôn vật. Vì vậy ngài Huyền Giác nói trong Chứng Đạo Ca:

Pháp thân giác liễu vô nhất vật,

Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.

Giác ngộ Pháp thân rồi thì không có một vật. Bản nguyên là nguồn gốc của tất cả các pháp, tự tánh là tánh chân thật sẵn có của mình, tức là Phật tánh. Cái không tột cùng này mới là nguồn gốc, là chỗ cho chúng ta tựa. Chúng ta tu cũng để giác ngộ chỗ tột cùng này. Chính ngài Huyền Giác cũng nói:

Chư hạnh vô thường nhất thiết không,

Tức thị Như Lai đại viên giác.

Thấy các hạnh là vô thường, tất cả đều không, đó là đại viên giác của Phật. Khi nói về Bồ-tát, về Phật là nói về giác ngộ. Một sự giác ngộ tràn đầy, thấy tất cả đều là không, bao nhiêu thế giới trong hư không này đều trở về không. Chúng ta tu nhập được Pháp thân là trở lại chỗ tột cùng tuyệt đối đó, ngoài ra mọi thứ khác đều là tương đối sanh diệt. Vậy tu khó hay dễ?

Mục đích tu của chúng ta như vậy, cho nên mỗi ngày mỗi đêm phải ngồi thiền để dẹp bớt tâm sanh diệt. Tâm đó chạy theo nghiệp lành dữ dẫn mình đi trong sanh tử. Con đường hiện giờ chúng ta tu theo Thiền tông có liên hệ tới Bát-nhã hay không? Hồi xưa tôi hơi lấy làm lạ, tại sao Ngũ Tổ đem kinh Kim Cang Bát-nhã giảng cho Lục Tổ nghe mà không giảng bốn cuốn Lăng-già? Sau này mới thấy rõ, chính Bát-nhã là con đường đi thẳng, trong nhà thiền gọi là “điểu đạo” tức đường chim. Cho nên chúng ta phải hiểu rõ Bát-nhã. Lục Tổ ngộ cũng từ kinh Kim Cang Bát-nhã, sau này đệ tử là ngài Huyền Giác cũng ngộ từ Bát-nhã. Ngài Huyền Giác nói: Hữu nhân vấn ngã giải hà tâm, báo đạo ma-ha Bát-nhã lực. Tức là nếu có ai hỏi ta hiểu tâm nào thì đáp rằng ma-ha Bát-nhã. Lý này hết sức rõ. Đó là những chặng thấy điên khùng của tôi.

Bây giờ trở lại kinh. Kinh Bát-nhã nói: “Trong cái không không có năm uẩn, không có sáu căn, không có sáu trần, không có sáu thức, không có mười tám giới. Kế đến không vô minh, không vô minh tận, không khổ tập diệt đạo, không trí, không đắc.” Trong cái không không có mười tám giới dễ hiểu rồi, nhưng tại sao Mười hai nhân duyên, Tứ đế là pháp tu của hàng Thanh văn, Duyên giác cũng không có nữa?

Như tôi đã nói, Bát-nhã vượt qua đối đãi của Nhị thừa, không còn đối đãi của Thanh văn, Duyên giác, nên nói là Bồ-tát. Qua hết đối đãi nên cái không này là chót. Hồi xưa giảng tới đây tôi hơi lúng túng, tại sao Tứ đế, Thập nhị nhân duyên mà cũng không có nữa. Bây giờ mới thấy rõ Tứ đế, Thập nhị nhân duyên là dùng những phương tiện đối đãi để đối trị, nó còn hai bên. Cái không này không có hai bên, nên vượt qua tất cả.

Bồ-tát là vô trí vô đắc, nếu còn có trí, có đắc là còn đối đãi, chưa phải đúng chỗ của Bồ-tát. Nếu không tất cả thì đi tới đâu? Vô sở đắc là không còn cái để ngộ, để được nữa, chừng đó Bồ-tát y theo Bát-nhã không còn bị chướng ngại chút nào hết. Không còn nằm trong đối đãi, trong sanh diệt nên không còn bị chướng ngại, vì vậy nói vô quái ngại. Không có đối đãi thì còn gì sợ sệt, vì vậy nói vô hữu khủng bố.

Không những riêng Bồ-tát mà ba đời chư Phật cũng nương Trí tuệ Bát-nhã mà được giác ngộ viên mãn. Nói tới Bát-nhã là nói tới Phật, nói tới Bồ-tát chớ không phải nói tới Thanh văn, Duyên giác. Cuối cùng của Bát-nhã là đoạn mà nhiều người nghi ngờ nhất, vì nói thần chú. Điểm này có lẽ tại các nhà phiên dịch, thời xưa ở Ấn Độ rất trọng thần chú. Họ thường dùng thần chú trị quỉ thần, trị những con rắn độc, cọp sói v.v… vì vậy nói Bát-nhã trị được tất cả bệnh cũng như thần chú linh thiêng nhất. Trí tuệ Bát-nhã rất mạnh, có giá trị bằng tất cả các thần chú. Các nhà phiên dịch muốn cho linh thiêng, họ để nguyên câu chữ Phạn. Chớ thật ra câu “yết-đế, yết-đế, ba-la yết-đế, ba-la-tăng yết-đế, bồ-đề tát-bà-ha”, có nghĩa là qua bờ kia, qua bờ kia, qua đến bờ kia. Bờ kia là bờ giác ngộ. Đứng bên bờ mê qua tới bên kia là bờ giác ngộ vậy thôi. Hiểu vậy mới thấy tinh thần Bát-nhã rất sâu, rất kỳ đặc chớ không phải thường.

Chúng ta tụng Bát-nhã hằng đêm để nhắc tới nhắc lui, nhớ mình đang đi con đường đó, chớ không phải tụng cho Phật nghe. Bây giờ tôi thấy nhiều vị tụng kinh cho hay, cho Phật nghe. Thật ra tụng kinh là lặp đi lặp lại lời Phật dạy cho thâm nhập vào tâm, nhớ điều mình nguyện làm, đang hướng đến. Đó là chỗ rất quan trọng, rất thiết yếu. Chúng ta phải thâm nhập được lý kinh thì việc tụng kinh mới có giá trị.

Kinh Bát-nhã bên chữ Hán có sáu trăm quyển. Lúc trước tôi ngồi đọc sáu trăm quyển đó, mới thấy Bát-nhã Tâm Kinh cô đọng lại toàn bộ sáu trăm quyển kinh Bát-nhã. Cho nên chữ Tâm Kinh có thể dịch là kinh tim. Bởi vì trong sáu trăm quyển Bát-nhã, bài kinh này rút hết trọng tâm, cô đọng lại toàn bộ ý chánh của kinh. Con người mình tim nằm giữa cung cấp máu khắp châu thân. Chữ tâm là tim, một bộ phận quan trọng bậc nhất trong cơ thể con người. Nếu nói tâm kinh là kinh ruột thì không diễn đạt được hết tầm vóc trọng yếu của nó. Vì ruột đâu có cung cấp máu lên xuống khắp châu thân như tim. Cho nên chữ tâm dịch là tim, quả tim của sáu trăm quyển Bát-nhã.

Ngày 21 tháng 7 nhuần, mùa an cư năm 1968, buổi khuya tôi ngồi thiền sáng được lý sắc không bất nhị, sắc không không hai, sắc tức thị không không tức thị sắc. Sáng được lý này tôi vui gần ba ngày. Sau đó tôi đọc Tạng kinh, nhất là những bài kinh về thiền thấy hiểu không khó như ngày xưa nữa. Tôi nghĩ mình có duyên với thiền, ngang đây dạy tu thiền được, nên mở cửa thất thành lập Tu viện Chân Không dạy Tăng Ni tu thiền. Nhưng đến bây giờ tôi mới thấy được tướng không này. Từ ngày đó đến giờ xa bao nhiêu?

Nói thế để quí vị thấy tu thiền mà không đạt được lý Bát-nhã thì không thấu đáo. Vì sao? Ngày xưa tôi thường nhắc câu Thiền sư Huyền Giác hay nói: Chứng thực tướng vô nhân pháp, sát-na diệt khước A-tì nghiệp. Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh, tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp. Nghĩa là người nào chứng được thực tướng rồi thì không còn nhân, pháp. Người đó chỉ trong chớp mắt diệt hết tội dưới địa ngục A-tì. Nếu tôi nói dối chúng sanh xin chịu tội bị cắt lưỡi dưới địa ngục trải vô số kiếp. Câu này làm tôi hơi rùng mình. Tại sao Thiền sư dám khẳng định và dám chịu tội tới như vậy? Bây giờ tôi mới thấy rõ. Thực tướng là không còn ngã, không còn có cái ta, bấy giờ nhận cái thể không là mình, thể không thì còn tướng gì? Cho nên không có mình, không có người. Không có mình, không có người thì cái gì dẫn xuống địa ngục. Nếu còn thấy mình mới bị nghiệp dẫn, mình không có thì còn gì mà dẫn? Cho nên chỉ trong chớp mắt qua khỏi địa ngục A-tì. Đó là một lẽ thật.

Chúng ta thấy con đường này rất kỳ đặc, đi sâu vô lý Bát-nhã mới nhận ra điều đó.

Dưới đây là biểu đồ tôi phác họa để chỉ cho quí vị thấy rõ đầu đuôi, gốc ngọn của hai con đường: Con đường trầm luân sanh tử và con đường giải thoát sanh tử.

Như tôi đã nói, những điều tôi tìm thấy trong thời gian qua, tôi lập thành một bản đồ để làm phương tiện cho Tăng Ni tu hành. Khi nhìn lên bản đồ, quí vị tự thấy con đường của mình đi, đi đường nào biết đường đó, không nghi ngờ nữa. Biểu đồ này tôi đặt tên Biểu đồ hai đường trầm luân sanh tử và giải thoát sanh tử. Một bên trầm luân, một bên giải thoát, ai chọn đường nào thì đi đường đó. Tôi chỉ rõ như thế để quí vị đừng lầm con đường mình đã chọn.

Con đường được tô màu hồng tượng trưng cho tâm không sanh diệt, con đường tô đen tượng trưng cho tâm sanh diệt. Trên biểu đồ, chúng ta thấy có cái ngã ba, nếu đi theo con đường đen xuống mãi là đi trong luân hồi lục đạo, không có ngày ra khỏi. Nếu tách theo con đường màu hồng là đường tắt đi thẳng tới giải thoát. Tuy nhiên, còn một ngã tách nữa cũng giúp chúng ta tu giải thoát, nhưng có thứ lớp theo Ngũ thừa Phật giáo. Đó là con đường tô màu vàng.

 

Như tôi đã nói, khi chúng ta nhận tướng không sắc chất, tức cái không làm thân và tâm không sanh diệt làm tâm thì sẽ đi tắt con đường màu hồng là đường không sanh diệt. Tại sao? Vì tâm không sanh diệt không thể nào đi trên con đường sanh diệt được, phải đi đường không sanh diệt. Tâm không sanh diệt đi đường không sanh diệt, hợp với tướng không của các pháp.

Tâm không sanh diệt còn gọi là Chân tâm, nó sẵn nơi mình, không phải tìm kiếm ở đâu hết. Nó ra sao? Chúng ta thường lơ đễnh, chỉ biết cái nổi động mà quên cái chìm ẩn. Như khởi nghĩ thì nổi, nghĩ vấn đề gì có hình tướng rõ ràng, rồi đi theo dòng suy nghĩ đó sanh diệt liên miên. Nếu buông hết những khởi niệm lúc đó mình còn tâm không? Khởi niệm là tâm sanh diệt, lặng hết niệm là tâm Chân như không sanh diệt. Như vậy khi buông hết niệm, còn lại tâm không sanh diệt.

Khi quí vị ngồi chơi một mình không tưởng gì hết, mắt có thấy, tai có nghe, những biến động chung quanh có biết không? Cái biết đó có suy nghĩ không? Chúng ta có sẵn cái biết, không đợi suy nghĩ mới biết. Cái biết sẵn đó lặng lẽ, không dấy động, là cái biết chân thật. Nó không bao giờ vắng thiếu lúc nào mà mình quên. Tại sao quên? Tại vì chạy theo suy nghĩ, theo tâm nông nổi, nghĩ chuyện này tới chuyện kia liên miên cả ngày, thành ra đâu có nhớ tâm lặng lẽ. Tâm suy nghĩ nhớ chuyện dễ thương, chuyện dễ ghét, nhớ cái phải, cái quấy, cái hơn, cái thua, cái được, cái mất… Như vậy cứ loanh quanh trong được mất, hơn thua, phải quấy, mà quên mất cái thật của chính mình.

Phải quấy, hơn thua là những nhân tạo nghiệp để đi trong luân hồi sanh tử. Cho nên tâm sanh diệt đó là cái tâm đưa mình đi trong luân hồi lục đạo. Tôi gọi là con đường trầm luân. Như vậy con đường trầm luân ai tạo cho mình? Chính mình đi theo nó quen rồi, có thể quen từ muôn thuở chớ không phải mới đây. Cho nên ngồi lại trong đầu cứ nghĩ chuyện này tới chuyện kia, hơn thua, phải quấy đủ thứ hết. Nhiều khi đi ngủ cũng không chịu ngủ nữa, nhớ ai đó nói hơn, nói thua với mình, như vậy mà loanh quanh hoài. Vì tâm điên đảo đó mà chúng ta luân hồi sanh tử. Có bao giờ ngồi lại tỉnh lặng, buông hết mọi việc đâu?

Trong tất cả pháp tu của Phật, pháp nào cũng để dứt tâm luân hồi. Niệm Phật thì nhất tâm để tâm sanh diệt dừng. Tu Mật tông tụng thần chú thì quên nghĩ. Tu thiền thì ngồi thiền thấy vọng tưởng liền buông. Tất cả pháp tu đều cốt làm sao dừng được tâm sanh diệt, hết tạo nghiệp sanh tử. Còn theo tâm sanh diệt thì còn sanh tử, nên gọi là đi trên đường trầm luân không có ngày cùng.

Bây giờ muốn biết người nào còn sanh tử, người nào có thể hết sanh tử dễ lắm, không có gì khó. Như hỏi “anh sợ chết không”, đáp “sợ”, người đó sẽ đi trên đường sanh tử, vì sợ mất thân nên tiếp tục tìm kiếm thân khác nữa. Chừng nào hỏi “anh sợ chết không”, đáp “chết là trò chơi, chết là vui”, người đó hết sanh tử. Quí vị tự kiểm lại xem mình thuộc loại nào? Sợ chết hay chết là vui? Người thấy chết là vui vì buông được một gánh nặng, bỏ được cái thây thúi. Phật dạy chúng ta quán quá nhiều mà rồi cứ tiếc!

Tất cả chúng ta muốn ra khỏi luân hồi sanh tử thì đừng chạy theo tâm sanh diệt để tạo nghiệp sanh tử, phải dừng tâm đó. Vì vậy mọi pháp tu trong nhà Phật đều bắt phải lặng tâm sanh diệt. Lặng gọi là định hoặc nhất tâm. Không ai bắt buộc chúng ta phải đi mãi trên con đường sanh tử, mình có quyền tách sang con đường khác. Tách theo con đường không sanh diệt thì sẽ không còn sanh tử nữa.

Ngày xưa học kinh, tôi thấy trong kinh nói người tu từ sơ phát tâm cho đến thành Phật phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp. A-tăng-kỳ tức là vô số, phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật. Định nghĩa ba vô số kiếp là tính từ các địa vị của Bồ-tát: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, rồi Tứ gia hạnh. Qua mấy cấp đó là được vô số kiếp thứ nhất. Từ Sơ địa tới Bát địa Bồ-tát là vô số kiếp thứ hai. Bát địa tới Đẳng giác Diệu giác là vô số kiếp thứ ba. Như vậy quí vị nghĩ mình tu chừng nào mới thành Phật?

Thêm một điều nữa, chỗ vô số này không thể tính được. Tại sao? Phật Thích-ca có dẫn một ví dụ cụ thể, như Ngài tu một lượt với Bồ-tát Di-Lặc. Bồ-tát Di-lặc thích đi chơi, tới nhà người sang giàu, còn Ngài chăm chỉ, cố gắng tu nên đã thành Phật trước. Tới bây giờ mà ngài Di-lặc còn ở cung trời Đâu-suất làm Bồ-tát. Như vậy thời gian tu không cố định, quan trọng ở sự nỗ lực của mình, mạnh mẽ thì vượt qua mau, lười biếng thì chậm trễ dài lâu. Cũng như học trò ở trường, từ lớp một, lớp hai, lớp ba v.v… lên dần, nhưng đứa nào học giỏi thì có thể một năm nhảy hai lớp, còn đứa nào học dở có thể hai năm ngồi một lớp. Lớp có nhất định, nhưng nhảy được hay không tùy theo khả năng của mỗi người. Ai tối tăm thì học nhiều năm, ai sáng suốt thì học mau. Vì vậy mà có từ vô số kiếp, thời gian dài lâu không thể tính kể ấy là do chúng ta quyết định, chớ không phải ai hết.

Trên đường tu chúng ta phải trải qua ba vô số kiếp dài vô kể, quí vị có ngán không? Học tới Thiền tông tôi giật mình, khi nghe chư Tổ nói “tức tâm tức Phật”. Tâm mình là Phật, mê là chúng sanh, giác là Phật. Quên tâm chạy theo cảnh đó là mê, là chúng sanh. Biết trở lại Tâm chân thật của mình là giác, là Phật. Gần quá, làm sao mình tin được? Kinh sách nói phải trải qua ba vô số kiếp, trong khi nhà Thiền lại nói chỉ giác trở lại Tâm chân thật của mình, sống được với nó thì thành Phật.

Hồi xưa trong Thiền sử Trung Hoa kể, có một ông làm đồ tể khá lâu, sau ông bỏ nghề đi tu. Ông có làm bài kệ:

Tạc nhật dạ-xoa tâm,

Kim triêu Bồ-tát diện.

Bồ-tát dữ dạ-xoa,

Bất cách nhất điều tuyến.

Nghĩa là:
Hôm qua tâm dạ-xoa,

Ngày nay mặt Bồ-tát.

Bồ-tát với dạ-xoa,

Không cách một đường tơ.

Như vậy thành Phật đâu có khó. Khi nói ba vô số kiếp chúng ta thấy ngán thôi là ngán, nhưng nói mê là chúng sanh, giác là Phật thì ta không ngán nữa. Mê giác từ đâu ra? Từ tâm ra. Thấy mình thật, cảnh thật, chạy theo vọng tưởng cho đó là tâm thì mê. Bây giờ biết thân này không thật, cảnh bên ngoài hư dối, sống được với tâm không sanh diệt của mình là Phật. Nhanh như trở bàn tay. Chính trong bản đồ này tôi đã vẽ rõ.

Đi theo con đường không sanh diệt, tướng không sắc chất, không còn ngã, không còn pháp, đó là tới mục thứ tám trong mười bức tranh chăn trâu: trâu và chăn đều quên. Qua mục thứ chín là trở về nguồn cội, tu đến không còn ngã, không còn pháp thì tới giai đoạn thể nhập Pháp thân, gọi là chim bay về tổ, lá rụng về cội. Đó là bức tranh thứ chín. Nhiều người buồn, vì tu mà nhận cái không làm thân. Nhận cái không làm thân với quán không, hai thứ khác nhau, chúng ta  đừng lầm. Nhận không làm thân là biết trong thân đã sẵn có cái không rồi, không này với không bên ngoài chẳng hai. Cái không làm thân nên nó đã sẵn nơi mình, khi nhắm mắt chúng ta thể nhập với cái không khắp bầu trời này làm thân, vì vậy nói Pháp thân trùm khắp. Khi nhận cái thân đó làm mình thì chim bay về tổ, lá rụng về cội. Thiền sư Huyền Giác nói:

Pháp thân giác liễu vô nhất vật

Bản nguyên tự tánh thiên chân Phật.

Nó là nguồn gốc, là tánh sẵn của mình, là ông Phật không cần tu. Thiên chân còn được gọi là Phật tánh.

Khi không chấp thân tứ đại thật, nhận cái không trong tứ đại này là mình thì tâm không sanh diệt hòa nhập với cái không, nhắm mắt chúng ta có được thân trùm khắp. Đó là Pháp thân. Nhiều Phật tử than: “Thầy tu kiểu đó chắc tụi con bơ vơ”, vì lúc đó không có hình tướng, tâm không suy nghĩ, thì đâu làm lợi ích cho ai. Nhưng quí vị nên nhớ, trong mười bức tranh chăn trâu, còn mục thứ mười là buông thõng tay vào chợ. Đây là Ứng thân hoặc Hóa thân. Khi chúng ta nhập được Pháp thân rồi thì tùy nguyện độ sanh. Nguyện độ sanh thì dùng Ứng thân hay Hóa thân, chớ không phải bỏ chúng sanh bơ vơ.

Chúng ta đi theo con đường Ngũ thừa, tu tới ba vô số kiếp là vì một đời tu chưa xong nên tiếp tục sanh đời thứ hai tu tiếp. Nhưng thử đặt lại câu hỏi, đời này chúng ta sanh ra trong sạch từ thuở bé tới lớn hay cũng có tội lỗi? Dù tu sớm hay muộn gì cũng có tội lỗi ít nhiều. Người không sát sanh hại vật cũng phạm lỗi này lỗi nọ. Qua đời sau trả hết nợ cũ mới tu tiếp nên rất chậm, có khi trục trặc, tuột lên tuột xuống nhiều lần. Thiếu gì người phát tâm cạo tóc vô chùa, đó là họ có duyên trước nhưng rồi trục trặc tuột xuống. Sau trở lại tu nữa nhưng chưa chắc đi luôn được. Cứ tuột lên tuột xuống hoài nên ba vô số kiếp là vừa. Còn đi đường này là đi thẳng, lấy hư không làm thân thì còn tham trước cái gì? Tất cả pháp thế gian là mộng là huyễn, như kinh Kim Cang Phật nói “thấy tất cả pháp như mộng huyễn, bọt bóng”. Chúng ta chỉ một bề đi thẳng.

Hai con đường đi tắt và đi quanh rõ ràng, quí vị muốn đi đường nào? Chắc muốn đi đường quanh nhiều hơn. Đa số nói tu gieo nhân đời sau tu nữa, ít ai phát nguyện ngay đời này phải giác ngộ. Quí vị quên rằng mỗi một đời như vậy có duyên thuận duyên nghịch đủ cả. Yếu yếu một chút gặp duyên nghịch thì té nhào, không biết tuột lên tuột xuống bao nhiêu lần mới bước lên được bước sau? Nếu chịu đi thẳng một cái thì hết sức đơn giản. Tại sao đơn giản? Như ngài Huyền Giác đã nói trong bài kệ Chứng Đạo Ca:

Chứng thật tướng vô nhân pháp,

Sát-na diệt khước A-tì nghiệp.

Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sanh,

Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.

Ngài nói nếu mình tu thẳng một đường, không còn nhân, không còn pháp thì nhảy thẳng vô cái thật tướng. Bấy giờ thấy thân là hư không, thì cái gì lôi mình trả nợ trước? Còn thân mới trả nợ, vô đó không còn thân cũng không còn pháp, cho nên tới đây không còn trâu không còn chăn, đi thẳng cái một. Khỏi qua từ một, hai, ba cho tới tám, mà thẳng vô vòng tròn. Thấy mình là hư không thì bao nhiêu nợ nần hết người đòi, hết người trả. Rõ ràng chỉ trong chớp mắt nghiệp địa ngục cũng tiêu. Nếu đi đường kia phải trả đủ, thiếu bao nhiêu trả bấy nhiêu mới lên được. Quí vị muốn đi đường nào tự chọn. Đây là con đường thật dễ mà cũng thật khó.

Trong biểu đồ vẽ rõ, đi con đường không sanh tử, ngang qua vòng tròn là chỉ không còn ngã, không còn pháp. Tới đó không phải hết mà sau thể nhập Pháp thân. Từ thể nhập Pháp thân rồi có Ứng hóa thân độ chúng sanh, độ như thế bảo đảm không tuột xuống. Ứng thân hoặc Hóa thân làm được gì thì làm, không làm liền ẩn mất, vì đó là thân ứng hóa lưu xuất từ Pháp thân nên không sợ bị nghiệp dẫn. Còn bây giờ mình độ người ta bị người ta độ lại, là vì mình còn thân nghiệp, chưa vượt qua được. Xét kỹ con đường tắt rất khó đi, nhưng đi được thì bảo đảm.

Vì vậy Thiền tông nói điểu đạo cũng gọi là huyền đạo, tức đường mầu nhiệm. Điểu đạo là đường chim. Tại sao nói đường chim? Bởi vì đi dưới đất đường mòn, đường xe gì cũng quanh co, chỉ có đường chim là đi thẳng cái một, không ghé trạm nào hết. Ở đây chúng ta hiểu cho thật rõ thì mới hiểu được lời Phật dạy trong kinh. Kinh nói chúng ta tu theo thứ bậc, từ cấp một, cấp hai lên lần lần tới các bậc Sơ địa, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác là thành Phật. Còn nhà thiền nói mê là chúng sanh, ngộ là Phật, không cấp bậc gì hết. Tu như vậy rút thời gian nhiều ít? Bởi vì Thiền tông là chỉ thẳng, đi thẳng chớ không quanh co.

Người dám buông thân, không còn một niệm nào đeo đẳng với thân tứ đại nữa mới đi thẳng được. Cho nên đường chim dành cho những người can đảm cùng mình mới nhảy vọt lên nổi, hơi nhút nhát thì đi không nổi. Ai đi không nổi thì đi theo đường Ngũ thừa Phật giáo. Chủ yếu của Phật giáo từ Trung Hoa sang Việt Nam, các Thiền sư dạy đi đường chim. Như có người hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ, một Thiền sư Việt Nam:

- Làm sao giải quyết được sanh tử?

Ngài trả lời:

Trường không túng sử song phi cốc,

Cự hải hà phòng nhất điểm âu.

Dịch:

Trên trời thoảng có đôi vành chuyển,

Giữa biển ngại gì bọt sóng xao.

Nghĩa là Pháp thân thênh thang như hư không, sanh tử giống như hai bánh xe quăng trong hư không, có nghĩa lý gì. Pháp thân như biển cả, sự sanh diệt của thân này giống như hòn bọt giữa biển, chẳng đáng vào đâu. Nhận chân được Pháp thân thênh thang rồi thì đối với sự sanh tử xem như trò chơi. Nên Thiền sư nói sanh như đắp chăn đông, tử như cởi áo hạ, không có gì đau khổ. Còn chúng ta sanh khổ tử cũng khổ, lung tung khổ. Tổ Pháp Loa khi sắp tịch, đệ tử vây quanh hỏi Ngài tịch sẽ đi về đâu. Ngài nói kệ đáp:

Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,

Tứ thập dư niên mộng huyễn gian,

Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,

Na biên phong nguyệt cánh man khoan.

Dịch:

Muôn duyên đoạn dứt một thân nhàn,

Hơn bốn mươi năm giấc mộng tràng,

Nhắn bảo mọi người thôi chớ hỏi,

Bên kia trăng gió rộng thênh thang.

Tuệ Trung Thượng Sĩ cũng nhìn thấy như vậy. Ngài là cư sĩ mà thấy tột lẽ thật, nên khi sắp tịch, mấy bà hầu khóc lóc, Ngài mở mắt rầy:

- Ta đi có nơi về có chốn, các ngươi khóc lóc chi cho loạn chân tánh của ta?

Nghe vậy mấy bà nín khóc, Ngài rửa mặt súc miệng rồi nằm xuống đi. Các ngài đi có nơi về có chốn, còn chúng ta tu nhiều năm mà sắp đi không biết đi đâu, hồi hộp lo lắng. Đó là vì chưa có chỗ, chưa biết nơi mình đi. Gần đây tôi dám tuyên bố chết tôi sẽ cười chớ không khóc, hồi xưa tôi không dám nói điều này. Tại sao? Vì hồi xưa chưa biết mình đi chỗ nào, tới đâu, làm sao dám cười. Còn bây giờ tôi biết rõ đường đi rồi, không còn bận rộn như trước nữa. Chúng ta bỏ thân này như người gánh nặng được buông xuống, như mang thây thúi quăng đi, quăng được quá nhẹ nhàng, không cười sao được? Thấy rõ chỗ mình đến thì hết sợ sệt, còn không thấy thì rất lo sợ.

Như vậy trên đường tu, chúng ta có thể đi thẳng một mạch đến nơi đến chốn, mà cũng có thể trải qua ba vô số kiếp. Không biết ba vô số kiếp hay nhiều hơn nữa, vì cứ tuột hoài, leo lên tuột xuống không biết chừng nào. Cho nên ở đây tôi chỉ thẳng con đường tắt là điểu đạo hay huyền đạo, quí vị đi theo được thì việc tu bảo đảm đến nơi đến chốn.

Nhập Niết-bàn là vô sanh. Hư không là vô sanh, tâm mình không sanh không diệt, hai cái hòa nhập nhau thì gọi là nhập Niết-bàn, không còn sanh tử. Trong chỗ lặng lẽ không sanh tử đó tùy duyên ứng hóa độ chúng sanh, nên bao nhiêu nợ nần Phật tử đừng sợ mất, lúc đó chúng tôi sẽ tùy hóa tùy hiện mà độ. Tôi đã chỉ rõ ràng những lối đi như vậy. Có một lối đi tắt là đường chim, ai muốn đi thì đi, còn không thì đi đường vòng, đường bộ. Cứ lục tục mà đi, mệt thì ghé bụi ghé bờ nghỉ rồi đi tiếp, còn đường chim đi thẳng một mạch, không dừng ở đâu hết. Con đường đó nhà thiền gọi là trực chỉ. Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật, nhận ra Bản tánh mình, ngay đó là Phật, chớ không đi đâu xa.

Như vậy Phật thị hiện Ứng thân, Hoá thân là thân còn sanh diệt, Pháp thân mới thật là thể, trùm khắp không sanh diệt. Quí vị nghĩ kỹ rồi chọn đường đi. Đường tắt thì đi thẳng, đường vòng thì đi trong sanh tử nhưng cũng nguyện tu đến giải thoát mới thôi. Đường vòng còn thấy tứ đại thật, nên mất thân này kiếm thân khác, tuy nhiên mục đích cứu kính vẫn là giải thoát sanh tử.

Trên biểu đồ, con đường tô màu vàng tu theo Ngũ thừa Phật giáo, cũng sẽ dẫn đến giải thoát, nhưng trải qua phương tiện và các thứ lớp. Tuy chúng ta còn mượn sắc chất, còn có sanh tử nhưng theo Phật dạy, ta tu từ Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, cuối cùng tới Bồ-tát thừa. Đi đường này phải trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp tức vô số kiếp. Mặc dù trải qua số kiếp nhiều như vậy, nhưng người giữ vững tâm tu hành chân chánh, đời này tiếp đời khác, tu mãi từ thấp lên cao. Từ Nhân thừa tiến lên Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, cuối cùng là Bồ-tát rồi thành Phật.

Nhiều người cho đường vòng dễ đi hơn đường thẳng. Dễ thì có dễ nhưng thời gian dài quá, không biết bây giờ mình đang ở kiếp thứ mấy? Kiếp một, kiếp hai, kiếp ba hay là chưa có kiếp nào, mới bắt đầu chuẩn bị thôi. Tính ba vô số kiếp là kể từ Thập tín Bồ-tát, không biết mình đã lọt vào Bồ-tát Thập tín chưa? Cho nên đường này rất dài, rất xa. Nếu đời này chúng ta tu hành tương đối tốt, nhưng thấy thân còn thật, thấy tâm niệm thanh tịnh là thật thì cũng còn niệm, nên vẫn còn đi trong sanh tử.

Không ai bắt buộc chúng ta đi trong sanh tử, tự mình gieo trồng nhân sanh diệt thì đi theo sanh diệt, sanh diệt từ thấp lên cao. Nếu chúng ta đi thẳng vào vô sanh thì không có cao thấp, không có thứ bậc. Vì vậy nói “tức tâm tức Phật”, hoặc nói “hôm qua tâm dạ-xoa, hôm nay mặt Bồ-tát”, chuyển cái một. Hiểu thế rồi mới hiểu được lời nói của các Thiền sư, nếu không chúng ta không hiểu tại sao kinh nói một đàng, nhà thiền nói một ngả.

Như vậy để thấy đường tu không phải duy nhất một lối mà có nhiều lối. Nói tới Thiền tông là nói tới con đường thẳng tắt. Lúc trước tôi hướng dẫn quí vị tu thấy vọng liền buông, đó là đường tắt hay đường quanh? Chúng ta lâu nay cho vọng tưởng là tâm mình nên nó khởi nghĩ liền theo. Bây giờ nó dấy lên mình biết giả dối không thật, nó lặng xuống thì tất nhiên cái thật hiện ra. Nhưng lối này vẫn còn trâu, còn chăn, tập từ từ chớ không nhảy cái một như cách mới. Ban đầu nhử nó, điều khiển dần dần tới chừng nó thuần thục, rồi mới đến mất trâu mất chăn. Còn cách mới đi thẳng cái một, không còn trâu, không còn chăn, không có thứ tự. Cũng tu theo Thiền tông mà một bên có thứ bậc, còn một bên không thứ bậc. Tuy nhiên, không phải ai cũng đi thẳng được. Thiền sư Huyền Giác nói không phải một đời tu xong, mà đã có chủng tử nhiều đời rồi, đến đời cuối mới có khả năng nhảy vọt. Chúng ta tu phải hiểu cho thật kỹ con đường mình đang đi, nếu không sẽ chẳng đạt được kết quả mình mong muốn.

Ngày xưa tôi hơi nặng về mười mục chăn trâu, đi từ tìm trâu rồi gặp trâu, xỏ mũi, điều phục nó v.v… tại vì tôi không thấy rõ lối tắt một cách cụ thể. Gần đây thấy được lối tắt một cách rõ ràng, tôi mạnh dạn nói ra lối tu mới này. Chúng ta cứ cho rằng thật tướng là những tướng mắt thấy, tay xúc chạm được, không ngờ hư không trống rỗng này là tướng thật. Cái bàn duyên hợp, cái không trống rỗng này duyên nào hợp? Không có duyên hợp, cho nên không có gì thay đổi nó được hết. Vì vậy kinh Bát-nhã nói thật tướng là vô tướng. Nếu chúng ta nhận chân được thật tướng, thì không còn sợ sệt nữa, sẽ đi đường tắt được.

Nhiều người hoang mang “hư không có cái gì đâu mà nhận làm mình”. Hư không mới nhìn thì như không có gì, nhưng thật sự nó chứa đủ tất cả. Thế giới này hoại, thế giới kia thành. Hoại đi đâu? Cũng trở về hư không. Như chúng ta thấy tất cả những làn sóng điện có đầy trong hư không, nên người ta mới gửi thư từ sách vở qua phương tiện này. Cho nên đừng bảo hư không là không ngơ. Tâm chúng ta thênh thang như hư không nên diệu dụng của nó cũng không thể lường nổi.

Khi đạt được lý đạo, tu đến nơi đến chốn, chúng ta sẽ thấy con đường lâu nay mình sợ chính là con đường rất quan trọng, cần phải biết để mà đi. Tuy nhiên, muốn đi điểu đạo, đòi hỏi chúng ta phải nhận hư không là mình, chớ không nhận tứ đại là mình. Nhận hư không là mình không phải chuyện khó, khó nhất là tâm phải như như. Tôi nhớ Hòa thượng Phước Hậu nói:

Kinh điển lưu truyền tám vạn tư,

Học hành không thiếu cũng không dư,

Đến nay tưởng lại chừng quên hết,

Chỉ nhớ trên đầu một chữ “như”.

Còn một chữ “như” thôi mới đi điểu đạo được, bởi vì nếu dùng tâm sanh diệt thì tựa vào hư không không hợp, cho nên phải là tâm như như mới được. Muốn làm được việc lớn phải dồn hết tâm lực, bên ngoài không việc bên trong mới buông sạch. Cho nên người tu rất ngại chạy theo việc bên ngoài, sự tu hành của mình khó được như ý. Muốn tâm như như phải thường ở trong lặng lẽ mới như nổi. Tâm còn lăng xăng lộn xộn hoài thì biết chừng nào mới như?

Đức Phật dạy rõ ràng, đường tắt đường quanh có đủ. Người không đi nổi đường tắt thì đi đường quanh, chớ đừng có đi mãi trong đường luân hồi. Đường luân hồi đầu mối là vô minh. Chấp thân thật là vô minh, nên mất nó phải chạy tìm thân khác. Những bộ kinh hệ A-hàm, Phật đều nhắm thẳng phá chấp thân là thật bằng cách bắt chúng ta quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán thọ là khổ v.v… để ta chán chê, đừng thấy nó thật nữa khả dĩ mới thoát được. Trong Thập nhị nhân duyên, Phật dạy thân này duyên hợp hư giả, vô minh là gốc, nên không chấp thân.

Tới Bát-nhã, Phật dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không tức thân này là không, không có gì hết bởi vì nó giả hợp rồi mất, để chúng ta đừng bám vào thân cho là thật. Nhiều khi tôi nghĩ thật là vô lý, từ đầu tới chân có gì quí đâu, mà chúng ta lại yêu quí nó? Đồ tạm bợ đủ thứ nhớp nhúa mà bám vào đó, cho nó là thật rồi quí trọng, ai động tới thì có chuyện ngay.

Ví dụ trong đầu chứa gì? Chứa óc chứa não chi đó, nhưng ai vỗ lên một cái liền giận à! Linh thiêng lắm, động tới không chịu, mà tưởng cái gì quí, toàn là nhớp nhúa. Thành ra cả đời bám vào thân sợ nó mất. Đau nặng người ta nói bệnh sắp chết thì run lên run xuống, làm sao không chìm trong luân hồi được. Cái dòng luân hồi sanh tử không phải ai bắt mình đi, mà chính sự mê lầm của mình dẫn mình đi.

Quí vị thấy thân này từ lớn đến nhỏ, có ai khỏi chết đâu. Cái chết là cái phải đến không nghi ngờ tí nào hết mà sợ. Phải chi riêng phần mình chết, người khác không có thì nên sợ, chết là cái chung ai cũng có tại sao lại sợ? Cái phải đến cứ đến, cười với nó thôi. Đó là vì con người mê lầm cho thân này thật, khi mất nó mới hoảng hốt. Người nào thấy thân không thật là đã có trí tuệ rồi. Thấy thân không thật là giác, từ giác phá được vô minh. Nếu thấy thân thật là vô minh, nên chìm mãi trong sanh tử.

Quí vị đừng nghĩ tu có trí tuệ là sáng lên cái gì, không phải. Thấy đúng như thật thân này tạm bợ giả dối, không nghi ngờ đó là đã bước một bước khá dài trên con đường giác ngộ. Biết thân không thật là có trí tuệ. Do có trí tuệ nên bớt tham, bớt sân, bớt si. Nếu thấy thân thật thì còn mê lầm, nên sanh ra tham, sân, si. Thật ra si là đầu mối rồi mới tới tham, sân. Song người ta thường sợ sân, chớ không sợ si. Sợ mình nóng quá, mình hung dữ mà không nhớ mình mê lầm. Từ mê lầm kềm chế không được mới dẫn tới tham, sân.

Nói tham, sân, si là nói theo chữ Hán; chữ Việt nói si, tham, sân. Si là gốc trầm luân sanh tử, phải thấy thật rõ như vậy. Ai tu cũng nguyện giải thoát sanh tử mà không bỏ si tức là không bỏ vô minh, làm sao giải thoát được? Tôi thấy nhiều người tu cũng cần mẫn lắm nhưng ai động tới thì biết. Cần mẫn mà không bỏ si, hơn nhau từ lời nói, từng hành động, từng món đồ cỏn con, cãi nhau um sùm, thật chẳng ra gì.

Quí vị phải nghĩ tới đời tu của mình là tối quan trọng. Người đang mê chìm trong luân hồi sanh tử, chúng ta tỉnh thì phải thoát ly sanh tử. Tỉnh mà cũng đi theo cái mê của người khác, như vậy uổng đi một đời tu, không có giá trị gì. Không nuôi cha nuôi mẹ, không làm lợi ích xã hội, chỉ lo tu mà không chịu tu, thật không hiểu nổi. Đó là những điều tôi thấy cần phải cảnh tỉnh, nhắc nhở Tăng Ni đừng lầm lẫn như vậy. Đi tu là để thoát ly sanh tử, không chấp nhận đi trên đường trầm luân, phải đi trên đường giải thoát. Muốn giải thoát trước phải phá si mê, si mê bớt tham sân mới bớt. Tiến theo con đường này chúng ta sẽ cứu được mình, cứu được nhiều người.

Người tu phải cương quyết một đời này làm cho xong. Nếu đời này không xong, ít ra cũng liên tục năm ba đời, quyết cho rồi, chớ không nên chần chờ. Tôi nhắc lại, đường trầm luân có lục đạo luân hồi. Trên là cõi trời, kế a-tu-la, người, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục. Nếu để tuột xuống tới địa ngục thì thôi, chịu khổ không biết tới đâu. Ngạ quỉ, súc sanh cũng không sướng ích gì. Làm người thì khả dĩ tương đối, còn a-tu-la tuy có phước, biết làm lành nhưng nóng nảy quá nên cũng không được. Trong sáu đường, ba đường trên tương đối dễ chịu, ba đường dưới hết sức khổ sở.

Đi trong lục đạo không có gì bảo đảm. Khi được là người lương thiện giúp đời, có chút phước làm ông lớn, chừng đó lại hiếu danh hiếu lợi, tạo ra đủ thứ chuyện tội lỗi không lường trước được. Cao thấp, tốt xấu liền kề một bên, chỉ những người biết tránh mới khả dĩ không bị tuột xuống. Nhiều người thích lên cõi trời hưởng, lên đó muốn gì được nấy, nhưng hưởng hết cũng tuột xuống. Ngang đó nếu không biết tu tuột luôn tới địa ngục thì hối hận không kịp. Cho nên sanh lên cõi trời không có gì bảo đảm, Phật không dạy chúng ta tu để lên cõi trời, mà cốt để giải thoát sanh tử.

Quí vị nghe hiểu rồi tự chọn đường đi, làm sao đời tu của mình nếu không giải thoát sanh tử được, ít ra cũng vững, không sợ lui sụt. Phật độ chúng sanh là độ như thế, chúng ta bây giờ độ hơi khác một chút. Cứ cho làm việc này việc nọ có phước là độ, thật ra độ người là làm cho họ thức tỉnh, cố gắng vượt khỏi con đường sanh tử. Tôi nói thế để tất cả hiểu việc làm của mình. Quí vị đừng lầm tại sao tu đóng cửa hoài vô ích. Chính vì muốn làm một việc có lợi ích cho mình và mọi người mà chúng ta phải miên mật tu hành.

Đời tôi không làm thì thôi, làm thì muốn làm cho đến nơi đến chốn, chớ không làm lấy có. Tu thì phải biết đường mình đi, nhất định đi cho đến đích, không thể đi lừng chừng. Tôi là người đi trước trải qua nhiều chông gai, quí vị đi sau cũng dễ hơn rồi. Tất cả Tăng Ni đã biết rõ ràng, cứ như vậy mà cố gắng.

 

KHÁM PHÁ ÔNG CHỦ
Thiền viện Trúc Lâm - Đà Lạt ngày 08-10-2004

 

Hôm nay Tăng Ni về đây nghe tôi nói chuyện, vì gần hai năm không thuyết pháp nên hơi ngắn, tôi nói nhiều không được, nói từ từ chút chút thôi. Đề tài buổi nói chuyện hôm nay là Khám phá Ông chủ. Đơn giản vậy!

Chúng ta ai cũng có Ông chủ, nhưng hỏi Ông chủ ở đâu thì không biết. Lâu nay người tu thường mắc bệnh tìm bên ngoài hơn là quay lại mình. Giờ đây khám phá được Ông chủ là niềm vui lớn của tôi. Tôi nghĩ cũng là niềm vui chung của tất cả Tăng Ni, Phật tử. Lý do gì tôi khám phá được Ông chủ? Đó là đi sâu trong vấn đề.

Cách đây mười hai hôm, 7 giờ tối ngày 13 tháng 08 năm Giáp Thân, tôi ngồi thiền tới khoảng 8 giờ. Được yên định khoảng thời gian không biết bao lâu, tôi tự phản chiếu lại cái định của mình sao không được rõ ràng thường biết như định nghĩa Chân tâm. Vì vậy tôi hơi ngờ, không chấp nhận được. Bởi không chấp nhận nên tôi dừng lại, tỉnh táo đặt câu hỏi: “Nếu là Chân tâm của mình, đòi hỏi phải thường xuyên rõ ràng. Bây giờ mình yên định mà hơi mờ mờ không biết rõ ràng. Đó không phải là Chân tâm.”

Khi ấy tôi ngồi lại bình thường, đặt từng câu hỏi để khám phá ra Chân tâm là gì, ở đâu? Bấy giờ tôi nhớ trong kinh, Phật nói Chân tâm ở ngay sáu căn, nơi sáu căn đầy đủ Chân tâm. Tôi ngạc nhiên tự hỏi: “Nơi sáu căn, làm sao mình biết được Chân tâm?” Ngồi một hồi tôi tỉnh, nhớ lại trong Duy thức học nói, niệm đầu là chân, niệm thứ hai thứ ba là vọng. Tôi nghĩ khi mắt mở ra nhìn thấy cái này, cái nọ, phân biệt tốt xấu là rơi vào niệm thứ hai. Nó đi một mạch chớ không dừng. Nếu nói Chân tâm là niệm đầu nơi sáu căn, làm sao mình giữ được niệm đầu? Vừa thấy liền chạy qua niệm thứ hai, thứ ba mất. Tôi nghĩ muốn nhận ra Chân tâm thì phải biết rõ Chân tâm.

Trong nhà Phật thường nói Chân tâm là cái thường biết rõ ràng, tỉnh táo sáng suốt chớ không mờ mờ. Như vậy khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần mình biết rõ ràng, làm sao dừng ở chặng đầu, đó là điều quan trọng. Ngồi gẫm thật kỹ, tôi thấy bây giờ mình nên đặt thành phương tiện. Vừa nhìn chưa cần thấy cái gì, tự nhủ mắt biết thấy là Chân tâm. Biết là tâm. Thấy được cảnh, ngay niệm đầu đừng có niệm thứ hai thứ ba. Thấy biết là Chân tâm, còn thêm cái gì nữa thì quá Chân tâm rồi.

Ngay nơi sáu căn, mắt thấy - biết - dừng. Tai nghe - biết - dừng. Thân xúc chạm - biết - dừng, không cho đi qua niệm thứ hai thứ ba. Tôi sử dụng như thế thấy có hiệu nghiệm. Khi thấy nói Chân tâm, nó dừng lại. Khi nghe nói Chân tâm, nó dừng lại. Vừa khởi phân biệt nói Chân tâm, nó dừng lại. Nếu để nó đi thì nó đi luôn một mạch, chớ không dừng. Muốn nó dừng phải chận lại, bằng cách đem Ông chủ ra chận. Vừa thấy là Chân tâm, vừa nghe là Chân tâm, sáu căn vừa tiếp xúc với sáu trần, vừa ở niệm đầu là Chân tâm. Mới thấy Chân tâm ở sẵn nơi mình, tại vì chúng ta cứ cho qua hoài nên không thấy. Bây giờ ngay nơi niệm đầu nhận là Chân tâm thì các niệm khác không xen vào. Tôi ứng dụng tu phương pháp này thấy có hiệu nghiệm.

Trong sáu căn, nổi nhất là mắt, kế đến tai, kế nữa là thân. Đó là ba căn nổi, luôn tiếp xúc với bên ngoài. Còn mũi, lưỡi, ý thì chìm, khi có khi không. Vì vậy tôi lấy ba căn nổi làm chỗ tựa. Mắt biết thấy là Chân tâm. Tai biết nghe là Chân tâm. Thân biết xúc chạm là Chân tâm. Biết thấy, biết nghe, biết xúc chạm đều là Chân tâm hiện tiền, không có niệm nào nữa.

Như vậy tự mình thấy mình có cái chân thật hiện tiền, chẳng phải không. Lâu nay chúng ta quên đi, thấy thì thấy cái gì, nghe thì nghe cái gì, xúc chạm thì xúc chạm cái gì… cứ tìm cái thứ hai thứ ba, từ đó dẫn mình đi luôn, quên mất cội gốc. Bây giờ vừa thấy, vừa nghe, vừa biết xúc chạm liền đặt thẳng “Chân tâm”, nó dừng ngay, không bước qua niệm thứ hai thứ ba. Đó là tự mình quay trở về với chính mình, không chạy ra ngoài nữa.

Thí nghiệm được rồi, tôi nghĩ nếu Chân tâm ở khắp sáu căn, mình biết ba căn chưa đủ. Còn ba căn kia tôi cũng dùng phương tiện như mắt biết thấy là Chân tâm, tai biết nghe là Chân tâm, mũi biết mùi là Chân tâm, lưỡi biết nếm là Chân tâm v.v… tôi đi một mạch, tới ý biết pháp trần là Chân tâm. Chỉ biết thôi, không có phân biệt. Như vậy sáu căn tiếp xúc với sáu trần, biết là dừng ngay. Ngay sáu căn vừa tiếp xúc sáu trần mình chận đứng, nó không chạy nữa. Tự nhiên tôi phấn khởi trong lòng, nhớ lại câu chuyện ngài Đại An đến hỏi Tổ Bá Trượng:

- Bạch Hòa thượng, thế nào là Phật?

Tổ Bá Trượng nói:

- Như người cỡi trâu tìm trâu.

Chúng ta có giống cỡi trâu tìm trâu không? Phật ở ngay nơi sáu căn mà mình bỏ, cứ tìm Phật bên ngoài, khác gì cỡi trâu tìm trâu. Cho nên khi thấy được Chân tâm sẵn nơi sáu căn, chúng ta tự nhận lấy, không tìm Phật ở ngoài nữa. Đến đây tôi nhận ra cái chân thật của chính mình ngay nơi sáu căn, với điều kiện chỉ có niệm đầu thôi thì là chân, đừng để tới niệm thứ hai thứ ba là qua vọng thức rồi.

Từ hôm đó, mỗi đêm ngồi thiền tôi hết buồn ngủ. Nhớ sáu căn, nhớ ông Phật của mình, nhớ hoài hết buồn ngủ. Từ sự tỉnh táo đó tôi đi sâu thêm. Sáu căn là cái chân thật hiện có của chính mình, biết sống ngay đó là biết sống trở về với mình. Trở về với mình là biết được Ông chủ. Đến đây tôi đặt câu hỏi: “Chân tâm là gì?” Lâu nay chúng ta cứ định nghĩa, Chân tâm là Tâm chân thật của chính mình. Tâm chân thât là cái biết chân thật. Bây giờ tôi không định nghĩa mà tự hỏi: “Chân tâm là gì?” Tôi thấy Chân tâm là Ông chủ thường biết rõ ràng, trùm khắp sáu căn, không có tướng mạo, không có sanh diệt. Định được nghĩa đó rồi, tôi thấy mình có Ông chủ hay nói cách khác là khám phá ra Ông chủ.

Khi khám phá được như vậy, tôi thấy trên đường tu, chúng ta ứng dụng lối tu trở về với Ông chủ là lối tu gần nhất, còn những lối tu khác hơi xa hơn. Tôi nghĩ hiện mình có Ông chủ sẵn nơi sáu căn, làm sao đừng vượt qua Ông chủ, chạy đầu này đầu nọ. Tới Ông chủ là dừng, như vậy trở về không khó. Vì thế khi thấy tôi nói biết thấy, khi nghe tôi nói biết nghe, khi xúc chạm tôi nói biết xúc chạm. Biết thấy là Chân tâm, biết nghe là Chân tâm, biết xúc chạm là Chân tâm. Ngang đó nghĩ là Chân tâm thì các niệm khác không có. Cho nên tu bằng cách này gọi là đánh phủ đầu. Đem Ông chủ ra dọa, đánh cho các niệm thứ hai thứ ba chạy mất. Vừa thấy biết là thấy, nếu không biết làm sao thấy? Biết tức là thấy, thấy đó là Chân tâm, có ai chen vô được? Đằng này mình biết liền hỏi “cái gì”, nên bị nó dẫn đi một mạch.

Tất cả những thấy, nghe… đều là biểu hiện cái chân thật của chính mình. Khi ứng dụng như vậy tôi thấy giờ ngồi thiền chỉ ròng rã trong cái biết chân thật thôi. Thấy là Chân tâm, nghe là Chân tâm, cái gì cũng Chân tâm, cả ngày mình sống trong Chân tâm mà không hay. Tìm ra tới đó thì hết giờ ngồi thiền, tôi xả thiền rồi đi ngủ, nhưng ngủ không được. Nó phơi phới trong lòng, nhẹ nhàng làm sao! Mới thấy lâu nay mình cứ tìm bên ngoài.

Ngồi thiền muốn định để thấy Chân tâm, nhưng định lại thấy mờ mờ. Chân tâm là rõ ràng thường biết mà thấy mờ mờ thì đâu phải Chân tâm. Vì vậy tôi không chấp nhận thấy mờ mờ, đòi hỏi rõ ràng thường biết. Muốn rõ ràng thường biết phải tỉnh táo, hơi mờ mờ không được. Lâu nay mình quan niệm hơi lệch một chút, ngồi thiền muốn được yên nên kềm, làm như bị say trong định. Định rồi có khi quên ngày quên tháng, tưởng như vậy rất tiến bộ, nhưng định như thế là quên mình.

Lần này tôi thí nghiệm, ngồi thiền bắt buộc quên hết không còn biết gì. Quả nhiên tôi quên hết. Tới hồi xả thiền, không biết nãy giờ mình làm cái gì. Tôi nghĩ đó là định nhưng thuộc về si định, vì định mà không biết gì. Định sáng sủa mới định trong Chân tâm. Chân tâm mà không sáng sủa thì đâu được Chân tâm. Nên đôi khi chúng ta cũng bị lầm, cứ ngỡ ai ngồi được năm ngày, bảy ngày cho là đại định. Định đó thuộc về Thanh văn, không phải định của Thiền tông. Thiền tông là định trong cái rõ ràng thường biết. Thường biết thì không quên, quên thì không định. Đó là những kinh nghiệm tôi trải qua, nhất là trong thời gian gần đây.

Từ hồi đầu năm đến giờ trong thất, tôi hơi nặng về Bát-nhã, nghiên cứu sâu về Bát-nhã. Càng đi sâu vào Bát-nhã tôi lại cảm thấy lo. Nếu thấu triệt lý Bát-nhã để tu kết quả cũng tốt, nhưng đem truyền bá nói không ai dám nghe, vì cái gì cũng không hết, tam thiên đại thiên thế giới cũng không thì cái gì có? Nếu không hết làm sao Phật tử dám tu? Cho nên đi sâu trong lý Bát-nhã chừng nào tôi thấy càng khó truyền bá. Đang băn khoăn về lẽ đó thì hôm ngồi thiền này, tôi thấy được Ông chủ hiện tiền, ai cũng có. Ông chủ đã có, mất mát đâu mà sợ, do đó khỏi nói lý không. Mắt thấy là Ông chủ thấy, tai nghe là Ông chủ nghe. Ông chủ hiện tiền, lúc nào cũng có.

Nhận ra như thế, tôi thấy ai cũng có thể tu được, không phải chỉ riêng một ít người thôi, vì ai cũng muốn thấy Ông chủ. Mình là chủ, muốn sống về Ông chủ của mình, đó là chuyện thích hợp. Cho nên nhận ra được lẽ thật này, tôi nghĩ đây là con đường dễ truyền bá, gần gũi với quần chúng, còn đường trước khó hơn. Đó là nói đại cương.

Bây giờ đi sâu trong Chân tâm, biết rõ mình có Chân tâm. Một bữa khuya ngồi thiền, tôi đặt câu hỏi: “Chân tâm là gì?” Thường chúng ta định nghĩa chân là chân thật, tâm là cái biết, Chân tâm là cái biết chân thật, nhưng bây giờ tôi không định nghĩa như vậy. Tôi nói Chân tâm là Ông chủ thường biết rõ ràng, trùm khắp sáu căn, không tướng mạo, không sanh diệt. Bởi không tướng mạo nên đồng với hư không, không sanh diệt nên giải thoát sanh tử. Đi tới đó mới ra khỏi dòng sanh tử. Nếu chỉ hiểu Chân tâm theo nghĩa Chân tâm thôi thì chúng ta không thấy gì là giải thoát sanh tử.

Chân tâm trùm hết sáu căn nhưng không có tướng mạo, nếu có tướng mạo làm sao trùm hết sáu căn được? Không có tướng mạo nên khi thân này hoại nó đồng với hư không, tức Pháp thân. Chân tâm không có sanh diệt, còn gì nữa mà sanh tử nên giải thoát sanh tử. Chân tâm có đủ trong tất cả chúng ta, không hề thiếu. Có Ông chủ là có đủ khả năng đi tới giải thoát, không tìm kiếm ở đâu khác.

Như vậy biết được tột cùng gốc Chân tâm rồi, khi khởi sự tu chúng ta phải tu bằng cách nào? Khi trước đọc câu chuyện Tổ Đạt-ma, Tổ Huệ Khả, tôi lãnh hội và đề ra pháp tu. Tổ Huệ Khả thưa:

- Bạch Hòa thượng, tâm con không an xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.

Tổ Bồ-đề-đạt-ma nói:

- Đem tâm ra ta an cho.

Ngài Huệ Khả sửng sốt tìm tâm, tìm mãi không thấy mới thưa:

- Con tìm tâm không được.

Tổ nói:

- Ta an tâm cho ngươi rồi.

Ngài Huệ Khả lãnh hội được, thời gian sau trình:

- Bạch Hòa thượng, con dứt hết các duyên.

Tổ Bồ-đề-đạt-ma nói:

- Coi chừng rơi vào không.

Ngài Huệ Khả thưa:

- Rõ ràng thường biết, không sao được?

Tổ liền ấn chứng.

Qua câu chuyện đó, tôi thấy an tâm là quay lại tìm xem cái tâm ở đâu, biết nó không thật là an. Lâu nay chúng ta cứ cho cái nghĩ suy hơn thua, phải quấy là tâm mình, sự thật đó chỉ là bóng dáng thôi, tâm thật không phải vậy. Khi chúng ta xoay tìm lại những bóng dáng ấy mất, đó là an. Cho nên tôi hướng dẫn quí vị tu thấy vọng khởi liền buông. Buông hết nó tỉnh lặng, nhưng đi sâu trong sự tu hành trăm người tu chưa được kết quả một hai người. Tại sao? Vì thiếu Bát-nhã mà ra, do đó tôi bắt đêm nào cũng tụng Bát-nhã, nhưng tụng bằng chữ chưa thấm.

Tâm lăng xăng lộn xộn không dừng được tại vì chúng ta thấy người thật, cảnh thật, muôn vật đều thật. Người thật, cảnh thật, muôn vật đều thật thì không nhớ cái này cũng nhớ cái kia, luôn luôn tâm không an. Bây giờ muốn nó an phải thấu triệt lý Bát-nhã, người không, cảnh không, cái gì cũng không hết, tự nhiên an liền. Muốn tu có kết quả tốt phải ứng dụng Bát-nhã triệt để, ứng dụng triệt để Bát-nhã rồi, không muốn an nó cũng an. Vì không có gì thật hết nên đâu còn nhớ chi nữa, do đó tâm an.

Quí vị thấy cái gì cũng thật nên bảo bỏ, bảo đừng nghĩ không được. Người ta mắng mình thật, ngồi lại nhớ chuyện vui, chuyện buồn, chuyện hay, chuyện dở, đủ thứ chuyện thật hết nên tâm bất an. Một năm rưỡi tôi đi sâu trong Bát-nhã, càng đi sâu càng thấy không có ngã, không có pháp. Không ngã không pháp thì còn gì nghĩ? Bây giờ chúng ta chưa bỏ ngã, chưa bỏ pháp được thì chấp còn nguyên. Ngã, pháp còn thì tu không tiến.

Bởi vậy tôi lo đi sâu Bát-nhã, thấy ngã pháp không có, mình nói đạo lý sao đây? Không nói được làm sao giáo hóa? Trong khi tâm tôi ngại ngùng như vậy, bỗng dưng tôi thấy được lý này, tôi hết lo. Ai cũng muốn biết mình có Ông chủ, không ai nói mình không ngơ, thì bây giờ chỉ Ông chủ cho họ. Sống được với Ông chủ ai cũng vui. Cho nên đường lối này gần gũi, rõ ràng, thích hợp với mọi người, vì ai cũng có sẵn.

Chúng ta tu tới hết vọng tưởng, còn Chân tâm thì nhắm mắt mới nhập Pháp thân, từ Pháp thân có Ứng thân, Hóa thân độ chúng sanh. Ở đây Ông chủ có đủ, thường biết rõ ràng, không sắc tướng, không sanh diệt. Vì vậy biết được Ông chủ thì không còn kẹt thân sắc tướng nữa. Bấy giờ thân đồng hư không, là Pháp thân bất sanh bất diệt, giải thoát sanh tử. Ngay đây mình có đủ hết, chúng ta nhân danh Ông chủ đi thẳng vào chỗ bất sanh bất diệt. Chớ tu mà không có gì thì buồn chết, không biết sẽ đi về đâu, ai chịu trách nhiệm trong việc tu này?

Vì vậy khi nói tới sự tu, tôi thấy nhà Thiền phân hai loại: một là Thiền tông tu loại ra, hai là Thiền tông tu thu vào. Phương pháp chúng ta ứng dụng lúc trước thuộc về loại ra. Nhưng quí vị loại hoài không hết vì còn thấy thật. Chừng nào thấy thân không, cảnh không, tất cả đều không thì dễ loại. Còn nếu thấy thân thật, cảnh thật thì không bao giờ loại hết. Phương pháp thu vào, thật giả không cần biết, chỉ cần biết Ông chủ thôi, bám vào Ông chủ làm chỗ tựa. Phương pháp loại ra lấy Bát-nhã làm trí tuệ dẹp phá. Phương pháp thu vào lấy Ông chủ làm chỗ tựa. Biết. Ông chủ biết thấy, Ông chủ biết nghe, Ông chủ biết xúc chạm v.v… Nhớ như vậy, sống như vậy thì trở về gốc, gọi là thu vào. Bởi vì cái gì cũng đem vô Ông chủ hết, không bỏ ra. Còn pháp kia cái gì cũng bỏ ra. Phương pháp thu vào thấy như lạ, nhưng thật tình đó là gốc của Thiền tông. Cưỡi trâu chỉ biết trâu chớ không biết gì hết, chỉ giữ con trâu thôi, không kiếm ở đâu khác.

Tất cả chúng ta tu, mỗi người mỗi hạnh nhưng pháp nào gần gũi hơn, cần thiết hơn thì mình sử dụng tu, dạy người cùng tu. Từ hôm tôi thấy được cái gốc đó, tới nay chỉ mười hai mười ba ngày, chưa đủ thời gian kinh nghiệm kỹ. Nhưng tôi nghĩ vô thường bất cập lắm, bây giờ chờ đủ kinh nghiệm mới kêu nói thì không biết mình còn sống hay chết mất, nên tôi phải nói sớm cho tất cả biết. Giả sử tôi có tịch, quí vị cũng có một lối đi rồi phăng lần thêm. Chúng ta cứ đi theo lối cũ thì không thuận tiện trong việc giáo hóa hiện tại. Nói tới thiền phải nói tới tột cùng, không thể đi nửa chặng, không phải tu thiền để yên tâm, để khỏe, mà là phải đi tới tột cùng.

Bây giờ trở lại phương pháp tôi đã và đang ứng dụng trong thời gian gần đây. Khi sử dụng pháp này thì đi, đứng, nằm, ngồi đều rất dễ tu. Như sáng tôi đi chơi, chống gậy đi trên đường, vừa bước đi, mắt thấy, tôi nói “mắt thấy là Chân tâm”; vừa nghe tiếng chim kêu, tôi nói “tai nghe là Chân tâm”; chân bước cộp cộp là thân xúc chạm, tôi nói “thân xúc chạm là Chân tâm”. Như vậy thấy, nghe, vận động đều không ngoài Chân tâm, cái nào cũng Chân tâm. Đi giáp một vòng không biết mấy trăm lần Chân tâm. Tôi không nói sống được với Chân tâm, nhưng đi tới đi lui đều có Chân tâm. Như vậy tôi có sống được chút nào chưa?

Đi từng bước mình biết đi trong Chân tâm. Bởi vì định nghĩa Chân tâm là cái thấy, cái biết. Thấy biết ở chặng đầu, không phải chặng thứ hai thứ ba. Chúng ta thấy đường đi, đó là Chân tâm chớ gì, đâu có nghĩ suy. Thấy đường thì cứ vậy mà đi, đó là sống trong Chân tâm. Đi nghe chim kêu biết nghe, đó là Chân tâm. Giở chân bước tới, biết thân xúc chạm là Chân tâm. Trong sáu căn, ba căn đầu mắt, tai, thân là ba căn nổi, còn ba căn sau mũi, lưỡi, ý là ba căn chìm. Bởi ba căn nổi nên chúng ta dễ ứng dụng tu.

Lối tu này ứng dụng khi ngồi thiền, khi làm công tác, khi ra đường. Chúng ta cứ làm một cách tự nhiên, không ngại chi hết, nhưng nhớ mắt nhìn là Chân tâm, tai nghe là Chân tâm, thân biết xúc chạm là Chân tâm. Đi một giờ, nửa giờ giống như ngồi thiền, chỉ nhớ Chân tâm, không nhớ gì khác. Như vậy có thiền không? Đi, đứng, nằm, ngồi đều nhớ Chân tâm. Nhớ Chân tâm là nhớ niệm đầu, không nghĩ bậy. Vì vậy chúng ta tu rất thuận lợi, trong hoạt động cũng tu, giờ ngồi thiền cũng tu.

Giờ ngồi thiền tôi bắt mình làm hai việc. Việc thứ nhất mắt thấy là Chân tâm, tai nghe là Chân tâm, thân xúc chạm là Chân tâm. Tức mắt biết thấy, tai biết nghe, thân biết xúc chạm, đó là Chân tâm. Cứ thế lặp tới lặp lui mắt biết thấy, tai biết nghe, thân biết xúc chạm đều là Chân tâm. Nói nguyên câu là “mắt biết thấy là Chân tâm, tai biết nghe là Chân tâm, thân biết xúc chạm là Chân tâm, Chân tâm luôn hiện tiền”. Lặp đi lặp lại như thế ngồi thiền không buồn ngủ chút nào, vì nhớ Chân tâm nên không buồn ngủ, tỉnh táo hoàn toàn.

Lặp tới lặp lui bao nhiêu đó thấy như không định. Không định mà Chân tâm hiện tiền tức là định. Khi nói như vậy một hồi thấy nhọc, tôi cho nó nghĩ một chút bằng cách nhớ Chân tâm hiện tiền. Nhớ Chân tâm hiện tiền đến lúc khỏe, tiếp tục nhắc tới nhắc lui lại. Suốt giờ ngồi thiền làm việc ấy, đó là chặng số một.

Qua chặng thứ hai, tôi đặt câu hỏi: Chân tâm là gì? Như tôi đã nói “Chân tâm là Ông chủ thường biết rõ ràng, trùm khắp sáu căn, không có tướng mạo, không có sanh diệt”. Chân tâm là thường biết rõ ràng. Cái thường biết rõ ràng đó trùm khắp cả sáu căn, chớ không phải biết một chỗ. Nó không có tướng mạo, nếu có tướng mạo làm sao trùm được? Ngồi đó nhớ Ông chủ, định nghĩa “Ông chủ thường biết rõ ràng, trùm khắp sáu căn, không có tướng mạo, không có sanh diệt”. Bởi không tướng mạo nên khi bỏ thân này, Ông chủ nhập Pháp thân đồng hư không. Không sanh diệt nên giải thoát sanh tử, vì có gì dẫn trong sanh tử?

Như vậy đường đi từ thủy tới chung có manh mối rõ ràng. Bởi vậy tôi ngồi thiền, có lúc khoe với Thị giả:

- Bây giờ tôi mới biết Thiền duyệt vi thực.

Ngồi trong yên tịnh mới thấy vui, nhẹ. Khi trước ngồi một, hai giờ thấy đau, bây giờ ngồi hoài thấy thích, nên người ta nói Thiền duyệt. Tôi cũng trải qua những trạng thái ấy, nhưng tới lần này mới thấy chính xác, mình đi thẳng ngay từ một con người mê lầm trở lại con người tỉnh táo, sáng suốt rồi tiến tới chỗ tột cùng mình nhắm là được thể nhập Pháp thân, giải thoát sanh tử. Như vậy mới gọi là tu giải thoát.

Tu lừng chừng mà nói giải thoát thì hơi ngờ, không biết chừng nào thấy. Trên đường tu chúng ta phải đi tới nơi tới chốn mới thấy cái hay cái quí. Nếu tu thường thường không bao giờ thấy những cái đó. Tu miên mật với Chân tâm của mình, giả sử ngang đây tắt thở, chúng ta còn gì? Chân tâm thôi. Khỏi lo, khỏi cầu nguyện chi hết, vì mình đang sống với Chân tâm.

Con đường cuối của chúng ta tu đến chỗ giải thoát sanh tử là như vậy, bởi vì sống được với Chân tâm thì không sanh diệt, đâu có tướng mạo. Không tướng mạo nên trùm khắp pháp giới. Không tướng mạo cũng không sanh diệt, nên giải thoát sanh tử. Như vậy trên con đường tu, đi từ mê lầm đến giải thoát sanh tử, chúng ta có manh mối, có đường hướng rõ ràng sẵn đủ nơi mình, chớ không đâu khác. Đây là cách tu thu hồi về mình, thường biết rõ ràng, thiếu thường biết rõ ràng là nguy hiểm. Lúc nào cũng nhớ thường biết rõ ràng, không lầm, không sai.

Thật ra Tăng Ni ứng dụng pháp tu này có hiệu quả nhất trong giai đoạn nhập thất. Vì cả ngày mình nhớ Ông chủ dễ, nếu chúng ta đang chạy tứ tung thì nhớ Ông chủ hơi khó. Giai đoạn này là giai đoạn đầu tôi ứng dụng, chưa phải giai đoạn cuối. Tôi ứng dụng từ nay cho tới ngày ra thất chắc cũng được khá khá một chút. Khi biết được điều này rồi tôi thấy sự tu dễ, hướng dẫn người ta cũng dễ.

Lúc trước tôi nghĩ ba năm ra không biết dạy gì, vì tất cả đều không, dạy gì bây giờ? Thời này người ta ham tu thiền, nhưng không biết tu thế nào? Đường lối tu này không có gì nguy hiểm, vì quay lại mình mà. Mắt mình thấy, tai mình nghe, thân xúc chạm, cái gì mình cũng biết có Ông chủ, Chân tâm hiện tiền vậy thôi, không có chi nguy hiểm. Còn người ngồi kềm chế quá mới có những phản ứng nguy hiểm. Tu theo phương pháp này không kềm, nhẹ nhàng thảnh thơi, tu như không tu. Nói thế cũng nên nhắc lại, nhiều người lợi dụng “tu như không tu” rồi không tu gì hết. Nói đi, đứng, nằm, ngồi tôi cũng tu vậy, nhưng mà ai biết? Miệng nói thế nhưng trong ruột không phải vậy.

Người thật sự biết tu, ham tu dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào cũng có thể tu được. Tu với Tâm chân thật của mình thì lợi ích lớn, trường hợp nào cũng có kết quả tốt. Còn nếu thiếu chân thật, gian lận thì không tốt. Tôi nhắc cho tất cả nhớ để dè dặt cẩn thận.

Như vậy kể từ hôm nay, tôi không ứng dụng như ngày xưa nữa, mà đi con đường mới. Nói thế để quí vị đừng hiểu lầm, ngày trước thầy dạy thế này, ngày nay thầy dạy thế kia. Sự thật hai cái thấy tuy khác, nhưng cuối cùng không hai. Bên loại ra thì dứt hết các duyên, Chân tâm hiện tiền. Chân tâm hiện tiền, bỏ thân này nhập Pháp thân. Bên thu vào cũng vậy, dứt hết các duyên, chỉ biết có Ông chủ. Ông chủ đó không tướng mạo, không tướng mạo thì như hư không, nhập Pháp thân hết sanh tử. Tuy hai bên thấy như khác, nhưng cuối cùng là một. Phật dạy nhiều pháp tu nhưng cuối cùng đều gặp nhau, chớ không khác. Khác thì không phải đạo Phật. Miễn đi đúng đường thì cuối cùng gặp nhau, trừ khi đi sai đường.

Còn ba căn mũi, lưỡi và ý, chúng ta ít sử dụng, nhưng tôi cũng nhắc cho đủ. Mắt thấy là Chân tâm, tai nghe là Chân tâm, thân xúc chạm là Chân tâm, mũi biết ngửi là Chân tâm, lưỡi biết nếm là Chân tâm, ý biết pháp trần là Chân tâm, như vậy đi một mạch đủ sáu căn. Biết pháp trần là đủ rồi, còn biết cái gì là phân tích tức vọng thức. Mắt biết thấy là Chân tâm, đừng nói mắt tôi thấy này thấy kia. Chỉ biết thấy là được, mới là niệm đầu, là chân.


 

Thiền viện Trúc Lâm - Đà Lạt ngày 17-01-2005

I. QUI SÁU CĂN VỀ CHÂN TÂM

GIỚI

1. Mắt biết thấy là Chân tâm.

2. Tai biết nghe là Chân tâm.

3. Thân biết xúc chạm là Chân tâm.

4. Mũi biết ngửi là Chân tâm.

5. Lưỡi biết nếm là Chân tâm.

6. Ý biết pháp trần là Chân tâm.

* Ba căn đầu sử dụng lúc tiếp xúc bên ngoài và khi ngồi thiền.

* Ba căn sau chỉ sử dụng khi ngồi thiền.

II. TU KHI NHẬN RA CHÂN TÂM

ĐỊNH

1. Tu khi nhận ra Chân tâm thì đi, đứng, nằm, ngồi đều nhẩm đi nhẩm lại câu “Chân tâm hiện tiền”.

2. Đến lúc nào trong đầu nhớ liên tục “Chân tâm hiện tiền” thì chuyển qua giai đoạn III ở dưới.

 

Tác giả bài viết: HT Thích Thanh Từ
Nguồn tin: Thiền viện thường chiếu
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

CÁC NGÀY VÍA PHẬT

Tháng GiêngNgày mồng một, vía Đức Phật Di Lặc Tháng HaiNgày mồng tám, vía Đức Phật Thích Ca xuất giaNgày rằm,vía Đức Phật Thích Ca nhập diệtNgày 19,vía Đức Quán Thế Âm Bồ tátNgày 21,vía Đức Phổ Hiền Bồ tát Tháng BaNgày 19,vía Đức Chuẩn Đề Bồ tát Tháng TưNgày mồng bốn,vía Đức Văn Thù Bồ tátNgày...

Thống kê

  • Đang truy cập: 230
  • Hôm nay: 66543
  • Tháng hiện tại: 916505
  • Tổng lượt truy cập: 60356522

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile