Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Chú Giải Hồng Danh Chư Phật

Đăng lúc: Chủ nhật - 13/05/2012 21:01 - Người đăng bài viết: minhdat
Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Chú Giải Hồng Danh Chư Phật

Chú Giải Hồng Danh Chư Phật

Nam mô Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn

Như Lai: bậc an nhiên tự tại. Tánh của pháp thân. Thể không động gọi là Như, đến là Lai. Bi, Trí, Dũng hiện ra trong tánh diệu. Hiện ra 32 ứng thân vào các quốc độ để cứu độ chúng sinh.

Ứng Cúng: bực đáng được hưởng sự cúng dường. Bậc Nhị thừa là hàng Thanh Văn (A La Hán) và Duyên Giác (Bích Chi Phật) đã dứt được kiến hoặc và tư hoặc cho nên chỉ được trời và người cúng dường mà thôi. Đức Phật được đến chín cõi cúng dường vì ngài đã được tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.

Chánh Biến Tri: Chánh- Trung đạo, dung hoà, không thái quá. Biến- Bao gồm tất cả mọi nơi . Tri- Sự hiểu biết. Chánh biến tri- Bậc thấu rõ tất cả các pháp, có chánh trí, biết hết tất cả.

Minh Hạnh Túc: Minh-Sáng, thấu suốt. Hạnh- Đức hạnh. Túc-Đầy đủ, hạnh mãn, quả tròn. Minh Hạnh Túc là bậc có đầy đủ trí huệ và đức hạnh.

Thiện Thệ: Thiện-khéo, lành. Thệ- Đi không trở lại. Thiện thệ là bậc đã phá hết ba cõi kiến và tư hoặc, đã khéo qua, tuy thân còn ở trong đời mà tâm đã ra khỏi ba cõi, tâm luôn luôn giác, không bị cảnh trần làm ô nhiễm.

Thế Gian Giải: Thế gian-Cõi đời, cõi chúng ta đang sống là dục giới. Hữu lậu là còn sinh tử luân hồi. Vô lậu là xuất thế gian. giải là chia gỡ ra, hiểu rõ, giảng rõ. Thế gian giải là bậc có thể hiểu rỏ các lý và sự của các bậc hữu tình và vô tình trong thế gian. Trí của Phật đâu chẳng hiểu rõ sáng suốt.

Vô Thượng Sĩ: Chín phẩm giới, không ai xứng với Phật. Bậc cao hơn hết trong các hạng chúng sinh.

Điều Ngự Trượng Phu: Điều-Điều hoà, thu xếp, sắp đặt cho việc xong xuôi. Ngự - Đánh xe ngựa. Điều Ngự -Cầm cương sai khiến ngựa kéo xe. Trượng Phu- Người có chí khí đảm lược, đàn ông, con trai. Điều Ngự Trượng Phu: Bậc chế ngự được chính mìnhvà chúng sinh, như bậc trượng phu cầm cương ngựa để đánh xe đi vào con đường lành. Phật tùy căn tánh chúng sinh mà điều ngự.

Thiên Nhân Sư: Bậc thầy của hàng trời, người. Tối hậu thân ở cỏi trời Đâu xuất, xuống nhân gian để hoá độ.

Phật: Bậc toàn giác, đã giác ngộ hoàn toàn.

Thế Tôn: Bậc cao hơn hết trong cõi thế, được tất cả cõi và chúng sinh tôn kính.

Nam mô Phổ Quang Phật: hoá thân hàng trăm, hàng ức ánh trí huệ khắp chiếu

Nam mô Phổ Minh Phật: Báo thân tròn đầy, đuốc tuệ khắp sáng.

Nam mô Phổ Tịnh Phật: Pháp thân khắp giáp hư không, xưa nay vẫn thường thanh tịnh.

Nam mô Đa Ma La Bạc Chiên Đàn Hương Phật: Đa Ma La Bạc- li cấu, đoạn trừ tham, sân si, tên núi Ngưu Đầu. Chiên Đàn-dữ dược. Nghĩa là năng trừ các bịnh, dụ phận đủ các đức, hương mầu khắp xông. chúng sinh được li cấu thanh tịnh.

Nam mô Chiên Đàn Quang Phật: giới hương thanh tịnh, ánh sáng tràn đầy.

Nam mô Ma Ni Tràng Phật: Ma Ni -Ngọc báu như ý; Tràng- phan, phướng nghĩa là cao sáng, là tồi tà phụ chánh. Dụ cho đức của đức Phật tỷ ngọc Như ý treo trên cao, xô pháp tà xuống nêu cao pháp chánh.

Nam mô Hoan Hỉ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật: Kho pháp vô tận, khiến chúng vui mừng, khắp độ quần mê.

Nam mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật: hết thảy thế gian ưa cần thấy Phật, tinh tiến bực thượng đại , thì chóng thành Phật đạo.

Nam mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật: ngọc như ý ánh đèn, là rõ hai trí: thực trí để chiếu lý tánh và quyền trí để chiếu căn cơ.

Nam mô Huệ Cự Chiếu Phật: Hừng đuốc lửa huệ để chiếu phá vô minh phiền não. Phá vô minh phiền nảo thì phải dùng trí bát nhã.

Nam mô Hải Đức Quang Minh Phật: đức lớn rộng sâu tựa như biển rộng, ánh sáng tỏ soi xét không cùng.

Nam mô Kim Cang Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật: kim cương(cang) là chất cứng rắn mà lại còn phát ra tia sáng, đức trí tuệ chắc bền mà còn khắp chiếu.

Nam mô Đại Cường Tinh Tấn Dũng Mãnh Phật: Đại-giáp khắp nơi, Cường- mười lực, Tinh-trọn một, Tấn-chẳng lui, Dũng- chẳng khiếp sợ, Mãnh- dấn đến trước, tu nhân đã tròn, Phật trí riêng chiếu, đại phá quần mê.

Nam mô Đại Bi Quang Phật: Đại- lòng bi thưong giáp khắp, Quang- Ánh sáng toả tròn đầy.

Nam mô Từ Lực Vương Phật: Vương - tự tại, sức Từ vô duyên (bất trụ), khắp dạy thong thỏa.

Nam mô Từ Tạng Phật: kho báu từ bi, nói pháp chẳng cùng, chẳng tận.

Nam mô Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm thắng Phật: thân Phật cả tám vạn bốn nghìn lổ chân lông, đều rỉ ra các mùi hương mầu Chiên Đàn, khắp xông cả Pháp giới, để làm trang nghiêm Pháp Thân.

Nam mô Hiền Thiện Thủ Phật: đức Như Lai là bậc hiền tài vô thượng, vượt lên đảnh mười pháp giới, làm thầy đứng đầu cả chúng.

Nam mô Thiện Ý Phật: nhớ cả chúng sinh dường như con đỏ ý lành nói Pháp, đều đặng lợi ích.

Nam mô Quãng Trang Nghiêm Vương Phật: rộng tu giới, định, huệ để trang nghiêm thân Phật quả.

Nam mô Kim Hoa QuangPhật: Kim-tịnh quả, Hoa-tu nhân, nhân bền quả tịnh, sáng rọi không lường.

Nam mô Bửu Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật: Bữu Cái bằng tâm từ bi, khắp che cỏi hư không: lấy sức tự tại, làm chúa mười giới.

Nam mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật: pháp thân thanh tịnh dường như hư không, ánh trí sáng vẻ, như lọng hoa báu.

Nam mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật: lưu ly-ngọc báu sắc xanh, thân của Phật trang nghiêm, thanh tịnh trong suốt như báu, trong ngoài ngời sạch, bóng dáng tự tại hiển hiện.

Nam mô Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật: khắp trong pháp giới, tùy cơ hiện thân, phóng quang, như kinh Hoa nghiêm nói: thân đầy dãy nơi pháp giới, khắp hiện trước tất cả quần sinh, sáng tròn khắp chiếu cả mười phương, thị hiện mỗi mỗi chổ làm việc.

Nam mô Bất Động Trí Quang Phật: trí căn bản chẳng động, nên hay khắp phóng ánh trí sai biệt.

Nam mô Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật: Phật dùng sức trí vô lậu để chiến thắng các ma, đã chịu giáo hoá rồi, đắc pháp tự tại.

Nam mô Tài Quang Minh Phật: đem biện tài, trí huệ vô ngại để độ quần mê và phá hết phiền não.

Nam mô Trí Huệ Thắng Phật: đem thắng lực trí huệ, khiến các chúng sinh, phá cả ba hoặc phiền não.

Nam mô Di Lặc Tiên Quang Phật: Di Lặc-từ thị, Tiên-giác. Đem hào quang đại từ trí giác để phổ chiếu chúng sinh lìa hết các khổ mê mờ.

Nam mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật: Phật tánh vắng lặng mà thường soi, soi mà nói Pháp, công đức rất mầu, được cả chúng suy tôn, trí như trăng sáng lớn, khắp phá vô minh.

Nam mô Thế Tịnh Quang Phật: với thế gian của Phật đạo, đã tịnh mà Quang rồi , khiến cho thế gian của chúng sinh cũng sạch mà sáng.

Nam mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật: Long Chủng- trí chủng, Rồng hay nổi mây xông mưa, Phật thường hiện thân thuyết Pháp, làm đấng vô thượng tự tại độ sinh.

Nam mô Nhật Nguyện Quang Phật: Phật thỉ giác như Nhật, Phật bổn giác như Nguyệt. Thỉ giác soi tột, Bổn giác mở rỏ, bổn thỉ hiệp một, sáng như mặt trời, mặt trăng.

Nam mô Nhật Nguyện Châu Quang Phật: Ánh Nhất Thế Trí như Nhật Quang, ánh Đạo Chủng Trí như Nguyện Quang, ánh Nhất Thế Chủng Trí như Minh Châu, ba trí tròn suốt, sáng lẫn không ngăn.

Nam mô Huệ Tràng Thắng Vưong Phật: trí huệ như cây phướng cao, chiến thắng phá tan tà ma ngoại đạo mà đắc tự tại lợi sinh.

Nam mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật: sư tử là chúa trăm loài thú, một khi nó rống lên, thì bách thú bặc dấu; Như Lai nói pháp, chúng tà ma ngoại đạo đều kinh nép, nên đắc tự tại.

Nam mô Diệu Âm Thắng Phật: tiếng của Như Lai đủ tám giọng, không phải ở gần nghe lớn, ở xa nghe nhỏ, xa gần gì, nghe đồng một cở.

Nam mô Thường Quang Tràng Phật: dựng cây pháp tràng lớn rực rỡ thường chói.

Nam mô Quan Thế Đăng Phật: ba trí xét soi làm đèn sáng cho thế gian

Nam mô Huệ Oai Đăng Vương Phật: lời huệ hiện vô ngại, uy vang mười phương, đèn pháp tròn soi, dung thông tự tại.

Nam mô Tu Di Quang Phật: Tu Di- diệu cao, do bốn chất báu hợp thành là diệu, vượt khỏi các núi là cao. Là núi chúa lớn nhất, sáng chói soi xa. Tiêu biểu Phật có bốn trí Phựt sáng vô cùng.

Nam mô Tu Ma Na Hoa Quang Phật: Ma Na Hoa- xứng ý, hoa màu xanh, vàng, trắng, thơm và sáng đưa xa, dụ cho Phật có tâm hương phực sáng, đâu chẳng vừa ý chúng sinh.

Nam mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật: Ưu Đàm Bát La Hoa- Hoa Linh Thoại, ba ngàn năm mới trổ một kỳ, tiêu biểu cho Luân Vương ra đời. Thù Thắng- đến kỳ Phật ra đời còn lâu hơn cả hoa ấy nữa cho nên nói là thù thắng (hơn hết). Phật ra đời là việc rất khó và hiếm có cho nên Phật Pháp nan văn là vậy.

Nam mô Đại Huệ Lực Vương Phật: Do sức đại tự tại và trí huệ mà thuyết pháp độ sinh

Nam mô A Súc Tỳ Hoan Hỉ Quang Phật: A Súc Tỳ-Bất động. Dùng trí huệ bất động khắp khiến chúng sinh được lợi ích. Bất động-Giải thoát, chứng được lẽ không tức là vạn pháp giai không. Vô Nộ-Không giận. Người nào không giận tức là A Súc Bệ Phật vì tâm không động nên sinh hoan hỉ.

Nam mô Vô Lượng Âm Thinh Vương Phật: Phật nói ra vô lượng âm thanh, mỗi một tiếng là diễn ra vô lượng lời nói. Tùy theo mỗi loài mà hiểu được tiếng khác nhau của loài đó.

Nam mô Tài Quang Phật: Biện tài thuyết pháp tùy theo căn cơ của chúng sinh mà hoá độ.

Nam mô Kim Hải Quang Phật: Thân Phật sắc vàng, trong ngoài thấy suốt, ẩn hiện ra mười phương. Y báo và chánh báo ví như muôn vật đều hiện rõ trong gương.

Nam mô Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật: Đem ánh sáng trí tuệ chiếu soi, thuyết pháp thông suốt một cách vô ngại, ví như núi cao biển rộng. Ngài A Nan dùng trí tuệ, phương tiện cao như núi, rộng như biển mà thuyết pháp cho chúng sinh.

Nam mô Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật: Hoá thân ứng cơ, khắp hay tự tại. Công hạnh của chư Phật, thảy đều viên mãn.

Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật: Thích Ca-Năng nhân, ứng hoá ba giới (dục, sắc, vô sắc) , rộng độ chúng sinh vì không trụ nơi cảnh vui niết bàn. Mâu Ni-Tịch mặc, thật trí vắng lặng thanh tịnh vì chẳng bị nơi cảnh khổ sinh tử. Cảnh vui Niết Bàn là tịch.

Nam mô Kim Cang Bất Hoại Phật: Trí tuệ kiên cố như chất kim cương, không hư nát mà còn phá hoại được tất cả vật khác. Phật tánh vì vô hình, vô tướng nên không có gì phá hoại được, cho nên Phật ví như chất Kim cương.

Nam mô Bảo Quang Phật: Trí quang sáng ngời, chiếu suốt không cùng. Trí tuệ của ta cũng rất là rộng lớn, sáng soi, không bị cám dỗ. Trí quang là tâm từ, bi, hỉ, xả, còn gọi là chân trí.

Nam mô Long Tôn Vương Phật: Rồng hay lên xuống, biến hiện rất nhanh. Phật hay tùy cơ ứng hoá. Tùy căn cơ của chúng sinh mà giáo hoá.

Nam mô Tinh Tấn Quân Phật: Phật làm đại pháp tướng hàng phục các ma oán như ba quân mãnh lực tinh tấn hay đẩy lui quân địch. Tinh tấn-Phải tự lợi rồi mới lợi tha, giác hạnh viên mãn.

Nam mô Tinh Tấn Hỷ Phật: Do vì tinh tấn làm việc tự lợi, lợi tha, công tròn, quả mãn, khắp đặng hoan hỷ.

Nam mô Bảo Hoả Phật: Dùng lửa trí huệ để đốt cháy hết rừng phiền nảo sinh tử của tự và tha.

Nam mô Bảo Nguyệt Quang Phật: Trăng báu tròn sạch, sáng suốt pháp giới. Phật tánh viên thông vô ngại ví như trăng báu tròn sạch.

Nam mô Hiện Vô Ngu Phật: Hiện ra đức tướng trí tuệ, vận không cái ngu, ba hoặc là vô minh hoặc, trần sa hoặc, kiến hoặc.

Nam mô Bảo Nguyệt Phật: Trăng báu dạo đi trên hư không, ánh trí chiếu nơi pháp giới.

Nam mô Vô Cấu Phật: Chân thể riêng bày, xưa nay thanh tịnh. Phật tánh xưa nay thanh tịnh, như như bất động.

Nam mô Ly Cấu Phật: Vẫn lìa nhơ phiền não, thường được điều sạch chân như.

Nam mô Dũng Thí Phật: Mạnh dạn ra bố thí tài và pháp để rộng đường giáo hoá chúng sinh.

Nam mô Thanh Tịnh Phật: Thực tướng thanh tịnh xưa nay vẫn tròn đày.

Nam mô Thanh Tịnh Thí Phật: Thí pháp thanh tịnh, tam luân không tịch khắp khiến chúng sinh đều đến địa vị Phật. Bởi khi bố thí Pháp cho chúng sinh, quán tam luân không tịch nên đến quả vị Phật và vì chúng sinh cũng quán như ta nên cũng đến quả vị Phật.

Nam mô Ta Lưu Na Phật: Ta Lưu -Nước Cam Lồ, thuốc trường sinh bất tử. Phật Pháp khiến chúng sinh vào địa vị vô sinh.

Nam mô Thủy Thiên Phật: Nước trong chiếu trên trời, dưới trời, lòng in lẽ Phật và chúng sinh. Tâm lắng hết phiền não rồi thì chỉ còn tánh thanh tịnh.

Nam mô Kiên Đức Phật: Đức trí bền chắc hoá độ vô biên. Trí tuệ của đức Phật miên viễn không bao giờ thay đổi và dùng trí tuệ đó để hoá độ chúng sinh. Đây là chỉ cho Phật tánh của chúng sinh.

Nam mô Chiên Đàn Công Đức Phật: Pháp thân có mùi hương công đức, khắp huân vào nơi chúng sinh. Pháp thân có vô lượng công đức bởi giới, định, tuệ, giải thoát của đức Phật và xông khắp chúng sinh.

Nam mô Vô Lượng Cúc Quang Phật: Cúc-Lột. Đức Như Lai tướng tốt, lột ra ánh sáng trùng trùng vô tận.

Nam mô Quang Đức Phật: Ánh từ khắp ích, ơn đức không hết. Chỉ cho lòng từ bi đối với chúng sinh là chúng sinh duyên từ bi, pháp duyên từ bi, vô duyên từ bi.

Nam mô Vô Ưu Đức Phật: Chứng đại niết bàn, vẫn lìa ưu não, tự chứng công đức, khắp giáp không cùng.

Nam mô Na La Diên Phật: Na La Diên-Kiên cố. Thân Phật kiên cố dường như kim cương không gì phá hoại được. Pháp thân vô hình, vô tướng cho nên không gì phá hoại được dù thời gian hay không gian.

Nam mô Công Đức Hoa Phật: Nhân tu vạn thiện công đức như hoa mở, quả chứng ba đức chân như dường kết trái.

Nam mô Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật: Hoa sen nở trải sáng vẽ khắp ngời, phép thần dạo chơi ứng hoá cả ba cõi.

Nam mô Tài Công Đức Phật: Công đức bố thí tài, pháp khắp giúp vô cùng.

Nam mô Đức Niệm Phật: Đức từ khắp nhuần, niệm bi chẳng nghỉ.

Nam mô Thiện Danh Xưng Công Đức Phật: Công đức diệu thiện, tiếng đồn khắp nghe.

Nam mô Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật: Hồng Diệm-Ánh của cây phướn bằng ngọc Xích Châu trong cung của Thiên Đế, tia ngọc xạ lẫn nhau, để tỉ dụ hào quang của Phật khắp suốt.

Nam mô Thiện Du Bộ Công Đức Phật: Đức Như Lai bước đi dường như voi chúa, phàm có dạo bước, xứng khéo công đức, khắp đến mười phương, ứng hoá vô lượng.

Nam mô Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật: Công đức trang nghiêm giáp khắp mười phương, hoá hoá chẳng dứt, lợi ích vô lượng.

Nam mô Bảo Hoa Du Bộ Phật: Dưới đáy lòng bàn chân của Phật có tướng tốt như vòng tròn bánh xe một ngàn bức, bước đi có hoa báu đỡ chân, dạo khắp mười phương.

Nam mô Bảo Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vương Phật: Ta La-Tối thắng, kiên cố, làm chúa loại cây, là một cây chỗ Như Lai thành đạo nên xưng là vương.

Nam mô Pháp Giới Tạng Thân A Di Đà Phật: Thu hết hai phần nghĩa của Phật danh trước để quy về đức A Di Đà. Quán Kinh nói "Thân pháp giới của chư Phật Như Lai vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh". Nay Pháp thân của A Di Đà Phật đây, Pháp thân bao trùm cả mười phương vi trần sát độ, thế là kho thân pháp giới vô tận công đức.

Tác giả bài viết: sưu tầm
Nguồn tin: phatgiaovnn.com
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 121
  • Khách viếng thăm: 119
  • Máy chủ tìm kiếm: 2
  • Hôm nay: 38378
  • Tháng hiện tại: 408564
  • Tổng lượt truy cập: 59848581

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile