Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Trọn Một Đời Tôi - Nguyện vọng của tôi

Đăng lúc: Thứ năm - 22/01/2015 16:09 - Người đăng bài viết: Diệu Thành
Nguyện vọng của tôi là muốn làm sao cho đất nước Việt Nam được độc lập, vững bền, lâu dài. Và muốn làm sao cho Phật giáo Việt Nam cũng có những nét độc lập của Phật giáo Việt Nam. Đem đạo Phật ứng dụng tu nơi tâm của mình, chớ không lệ thuộc hình thức người Ấn Độ, cũng không lệ thuộc hình thức người Trung Hoa, người Nhật Bản v.v… Chỉ Phật giáo Việt Nam là của Việt Nam.
MỤC LỤC
 
  1. Mục Lục & Lời đầu sách
  2. Mục đích của tôi
  3. Hoài bão của tôi
  4. Nguyện vọng của tôi
  5. Cuộc đời là mâu thuẫn
  6. Pháp Phật là thuốc trị tâm bệnh của chúng sanh
Giảng tại Thiền viện Trúc Lâm
Xuân Canh Thìn  (05-02-2000)

Hôm nay là ngày Tết Nguyên Đán, ở chùa cũng như ngoài thế gian, dân tộc Việt Nam rất quí trọng ngày Tết Nguyên Đán. Cho nên đầu năm con cháu trong nhà đến chúc mừng cho cha mẹ, ông bà. Năm nay, ở trong chùa cũng thể theo thông lệ chung đó mà có buổi lễ chúc Tết đầu năm do Tăng Ni và Phật tử tới đây chúc mừng năm mới. Vì vậy buổi lễ này bắt đầu bằng lời chúc Tết của Tăng Ni và Phật tử. Sau đó chúng tôi mới nhắc nhở, chuẩn bị cho một năm mới được tốt đẹp hơn.

Tăng Ni đã chúc Tết tôi rồi. Giờ đến phần tôi. Tôi có lời chúc mừng lại mà cũng là lời khuyến khích tu hành. Trong đây tôi có chia ra hai phần:

- Phần thứ nhất là tôi chúc mừng quí vị đầu năm.

- Phần thứ hai là tôi nói nguyện vọng của tôi cho tất cả quí vị nghe, biết để sau này nối tiếp những gì tôi muốn làm, tôi đang làm, quí vị tiếp tục theo.

Trước hết tôi chúc Tết cho Tăng Ni và toàn thể Phật tử. Tất cả chúng ta là người Việt Nam, sống trên đất nước Việt Nam, tự nhiên chúng ta cũng theo phong tục tập quán của người Việt Nam. Tổ tiên chúng ta ngày xưa rất là quan trọng ngày mồng một Tết. Những người nào tên xấu thì sáng không được đến nhà khách, sợ mang cái không tốt lại cho người ta. Cho nên ai muốn tới nhà thăm thân quyến thì phải tên tốt mới được vô, mới được đón.

Như vậy mới thấy ngày đầu năm người Việt Nam rất là quan trọng. Ở chùa chúng ta lý đáng đã vượt qua khỏi những phong tục tập quán đó. Nhưng cái gì hay của Tổ tiên mình, chúng ta dù tu cũng không thể bỏ qua, trừ những điều gì vô nghĩa thì chúng ta không làm. Vì vậy ở chùa cũng nhân ngày đầu năm chúc mừng nhau. Chúng ta dùng những lời đạo đức để khuyến khích, để sách tấn nhau tu hành. Đó cũng là lợi lạc lớn, để rồi chúng ta nhớ ngày kỷ niệm đầu năm mà cố gắng thực hành, cố gắng ứng dụng cho đời tu được hữu ích.

Tăng Ni đã chúc mừng năm mới cho tôi. Kế đây tôi chúc lại cho tất cả Tăng Ni và Phật tử. Sang năm Canh Thìn này, tôi cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho Tăng Ni và Phật tử một năm an vui, tinh tấn tu hành và luôn luôn tỉnh giác, không để cho những cái mê lầm che lấp tâm mình. Tôi cầu nguyện tất cả quí vị lúc nào cũng thấy rõ đạo đức là ngọn đuốc sáng. Mình phải ráng mồi, ráng thắp cho cháy ngọn đuốc của mình, để rồi mình sẽ mồi cho cháy những ngọn đuốc của người sau. Mình thấy đường đi, cũng muốn cho tất cả người cùng thấy như mình và mãi về sau cũng được sáng suốt luôn. Ngọn đuốc chánh pháp chúng ta mồi được, không bao giờ quên, không bao giờ để cho nó tắt, phải tiếp nối mãi mãi. Đó là lời chúc chân thành của tôi, cũng là ước nguyện của tôi. Mong tất cả Tăng Ni và Phật tử thành tâm ghi nhớ.

Phần chúc Tết của tôi đã xong. Giờ tới phần nguyện vọng của tôi.

Nguyện vọng của tôi thế nào? Muốn thấy muốn biết nguyện vọng của tôi cho thật rõ thì câu hỏi đặt ra ở đây là: Tại sao tôi đặt tên Thiền viện này là Trúc Lâm? Quí vị nghe dường như lạc đề. Nhưng thật ra khi tôi đặt tên một ngôi Thiền viện nào, thì đó là tất cả nỗi lòng ôm ấp của tôi. Nó thể hiện qua những từ ngữ đó, chớ không phải là chuyện ngẫu nhiên hay là bắt chước ai. Mà là tất cả nỗi lòng tôi đang ôm ấp.

Vì vậy muốn biết tại sao tôi đặt tên Thiền viện Trúc Lâm thì quí vị chịu khó nghe cho kỹ dòng thời gian từ trước đến nay, mới thấy rõ ý nghĩa đó. Bây giờ tôi nói xa xôi một chút. Đọc lịch sử Việt Nam, tất cả chúng ta đều thấy, đều biết rõ rằng nước Việt Nam đã bị Bắc thuộc hơn một ngàn năm, rồi Tây thuộc cả một trăm năm. Trong thời Tây thuộc, tôi đã có mặt vào thời gian cuối. Có mặt trong lúc đất nước bị lệ thuộc ngoại bang, chúng tôi thấm sâu nỗi đau khổ tủi nhục của dân tộc bị ngoại bang cai trị. Bởi vậy tôi mong mỏi, trông chờ đất nước Việt Nam được độc lập vững bền, dài lâu để cho những nỗi khổ đau của dân tộc, những tủi nhục của dân tộc được lành những vết thương đau đớn ấy.

Vì vậy lúc nào tôi cũng có sẵn một tâm niệm nguyện cầu cho đất nước chúng ta được độc lập vững bền dài lâu, cho dân tộc chúng ta được an vui, được hạnh phúc. Đó là nguyện vọng của tôi đối với đất nước.

Một đất nước thật sự độc lập đòi hỏi phải độc lập về chánh trị, độc lập về quân sự, độc lập về văn hóa, độc lập về kinh tế. Nhưng chúng tôi lại có duyên sâu trong Phật pháp. Cho nên ở trên đất nước Việt Nam, mà tôi chỉ có mặt trong lãnh vực Phật giáo, chớ tôi không có mặt trong những lãnh vực khác. Vì thế ở trong lãnh vực Phật giáo, tôi phải làm thế nào cho Phật giáo Việt Nam đóng góp một phần lớn cho dân tộc, cho đất nước. Làm sao đem được ánh đuốc sáng của Phật giáo soi cho người dân Việt Nam thấy được con đường sáng suốt, thấy được những hầm hố, không phải vấp ngã, không bị những điều khó khăn làm cho mình phải trở ngại trên bước đường tiến tới. Vì vậy tôi bao giờ cũng nghĩ phải làm sao cho Phật giáo Việt Nam được có những điểm rất là sáng suốt, rất là tốt đẹp, để ngọn đuốc sáng này soi rọi cho dân tộc chúng ta thấy được, đi được trên con đường tốt đẹp đó. Vì vậy khi tôi đặt vấn đề phải làm sao tạo duyên cho Tăng Ni tu và tạo duyên truyền bá Phật pháp cho hàng Phật tử hiểu. Đến đây, tôi thấy cơ duyên thuận lợi cho nên mới thành lập Thiền viện nơi này.

Khi thành lập Thiền viện, tôi nhìn lại kỹ trong dòng lịch sử Phật giáo Việt Nam, những mốc nào những điểm nào thích hợp với hoàn cảnh, với đất nước hiện tại để chọn làm cái mốc son; chúng ta tu, truyền bá, đem ra phổ biến cho mọi người thấy biết mà ứng dụng. Được như vậy mới phù hợp với tinh thần dân tộc của chúng ta trong giai đoạn hiện tại này. Khi chọn lựa, tôi chấm ngay cái điểm Phật giáo đời Trần. Tôi cho đó là một điểm son. Đó là thời gian xứng đáng để cho chúng ta nương theo mà tu, nương theo mà truyền bá và cũng nương theo mà thể hiện được tinh thần lợi dân ích nước. Đem tất cả khả năng đức độ của chúng ta gieo rắc cho người dân, cho đất nước mình được những mầm non tươi đẹp và cường tráng. Do đó chúng tôi lấy Phật giáo đời Trần làm cái mốc chánh.

Khi xây dựng xong Thiền viện, tôi đặt tên là Thiền viện Trúc Lâm, đúng với ý nghĩa là Trúc Lâm Yên Tử. Chữ Trúc Lâm có hai:
1- Trúc Lâm khi đức Phật còn tại thế, Ngài đã được nhà Vua xây dựng một ngôi Tinh xá để tên là Tinh xá Trúc Lâm. Đó là Trúc Lâm thời đức Phật.

2- Trúc Lâm hiện nay của chúng ta là Trúc Lâm Yên Tử, chớ không phải Trúc Lâm của ngôi Tinh xá thuở kia. Trúc Lâm Yên Tử để nói lên một hệ thống truyền bá Phật pháp ngay trong đời Trần. Hệ thống truyền bá đó có những ưu gì, đặc điểm nào mà tôi chọn? Đây là điều tôi sẽ nói ở sau.

Khi tôi chọn được tên để đặt là Thiền viện Trúc Lâm, thì tự nhiên quí vị thấy đó là một tâm hồn đang hướng về Phật pháp. Mà Phật pháp này đã được dân tộc Việt Nam chọn lọc. Từ sự chọn lọc này ứng dụng được để truyền bá cho mọi người. Nói tới Trúc Lâm Yên Tử thì chắc không ai chẳng biết. Nhưng tinh thần trong đó thì ít người thấu hiểu.

Như tôi đã nói, một nước độc lập thì phải độc lập về chánh trị, về quân sự, về văn hóa, về kinh tế. Thì thời Trần là thời giành được thắng lợi sau khi quân Nguyên Mông sang xâm lấn đất nước ta. Các Vua đời Trần đã chống được giặc. Như vậy về phần chánh trị, về quân sự thì các ngài đã làm rất vẻ vang cho đất nước. Về văn hóa thì thời Trần, nếu quí vị đọc lại những bản văn đời Trần thì thấy các Vua đời Trần đã có ý niệm cụ thể rằng chúng ta không thể nào mượn văn hóa Trung Quốc làm văn hóa Việt Nam mãi. Mà văn hóa thì chữ viết là một điều kiện thể hiện nền văn hóa của mình. Cho nên đời Trần tuy là học chữ Hán, nhưng các ngài muốn chuyển thành chữ Việt, do đó mới trọng chữ Nôm. Tuy chữ Nôm đã có trước rồi, nhưng tới đây là thời phát triển. Cho nên vua Trần Nhân Tông khi còn làm Thái thượng hoàng, Ngài đã viết một bản văn rất có giá trị đạo đức, đến nay vẫn còn nguyên vẹn. Bản văn đó là bài phú Cư Trần Lạc Đạo, hoàn toàn bằng chữ Nôm. Như vậy thì không phải chỉ độc lập bằng quân sự, bằng chánh trị thôi mà Ngài muốn độc lập luôn cả về văn hóa, không lệ thuộc Trung Quốc. Đó là điều tôi thấy rất là đáng nể, đáng kính.

Hiện nay chúng ta phải làm sao để cho đạo Phật được tốt. Mà muốn đạo Phật tốt thì chúng ta phải tạo cái duyên cho đời được đẹp. Chớ không thể nào đạo tốt mà đời để mặc thế nào cũng được. Chúng ta phải làm sao cho đạo với đời đều tốt đẹp với nhau. Thời Trần các Vua là Thiền sư, hiểu Phật pháp rất uyên thâm. Các ngài lại yêu nước, giành quyền lợi cho dân tộc, làm những việc xứng đáng như vậy. Khi làm tất cả việc đó, các ngài không bao giờ xao lãng sự tu tập, sự nghiên cứu Phật pháp.
Chúng ta thấy đạo Phật thời Trần là một đạo Phật rất tích cực, nằm ở trong hệ thống chánh quyền. Đem đạo đức làm lợi ích cho dân. Nhưng cái hay của các ngài là những ông vua Thiền sư, khi cầm quân đánh giặc chống ngoại xâm không lúc nào các ngài tuyên bố rằng tôi nhân danh đạo Phật để đi đánh giặc. Mà đạo Phật chỉ có ở trong tâm của các ngài. Còn hành động chống ngoại xâm, là trách nhiệm của một công dân, của người lãnh đạo đất nước, chớ không đem đạo Phật vào việc chiến tranh để làm hoen ố đạo. Đó là điều rất hay.

Các Vua từ vua Trần Thái Tông cho đến Trần Nhân Tông, rồi sau này Anh Tông v.v… đều là những ông Vua thấm nhuần đạo Phật. Mà chưa bao giờ nhân danh đạo Phật để làm chuyện sát hại quần sanh, chỉ khi rỗi, khi nhàn hạ thì các ngài cố gắng đem đạo Phật ứng dụng tu hành và truyền bá cho quần chúng. Còn khi loạn lạc thì các ngài nhân danh là một người có trách nhiệm với đất nước, đứng ra lãnh đạo chống ngoại xâm, chớ không có bóng dáng đạo Phật ở trong đó.

Chúng ta dùng hình ảnh Thiền tông đời Trần là một hình ảnh rất tốt đẹp. Nên khi đặt tên Thiền viện rồi, tôi đã có chủ trương khôi phục Thiền tông đời Trần. Khi nói khôi phục Thiền tông đời Trần thì có nhiều vấn đề liên hệ. Tôi sẽ thứ tự trình bày cho quí vị thấy.
Trước tiên liên hệ tới Phật pháp, tới Tam tạng giáo điển. Trong Tam tạng giáo điển là Kinh, Luật, Luận. Nhưng trong Tam tạng giáo điển, tôi lại nghiêng trọng về Kinh tạng và Luận tạng mà Luật tạng tôi hơi lơ là. Tự nhiên quí vị thấy có điều gì, ổn hay không? Tại sao tôi lại có cái nhìn, có cái hướng lệch như vậy? Sự thật tôi thấy đó là một trọng tâm.

Bởi vì đức Phật từng dạy tất cả giáo lý của Ngài là những phương thuốc trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng sanh có vô số bệnh thì Phật cũng dùng vô số thuốc để trị bệnh. Như vậy kinh là để dạy chúng ta biết phương pháp tu dẹp sạch phiền não. Đó là cái trọng tâm. Còn luật, thường thường chúng ta hay nghe các vị Tôn túc nhắc rằng giới luật là quan trọng. Nhất định giới luật phải quí phải kính, song tôi đặt nặng phần căn bản, phần tinh hoa của giới luật để gìn giữ, còn phần chi tiết, phần hình thức thì tùy hoàn cảnh, tùy thời chớ không cố định. Quí vị nghiệm xét kỹ thì thấy phần hình thức của luật có tánh cách nghiêng về phong tục tập quán của Ấn Độ thời cổ đại. Như trong giới Tỳ-kheo tăng hai trăm năm mươi giới, mà thật sự chúng ta thấy hai phần Tứ ba-la-di, Thập tam tăng tàn là trọng yếu. Còn những phần sau, ngày nay chúng ta giữ được bao nhiêu, nhất là một trăm pháp chúng học, chúng ta có giữ được gì không? Đó đều là tùy theo tập quán phong tục của địa phương mà Phật chế ra để đừng bị người ta không bằng lòng. Đây là điều tôi thấy rất rõ.

Tôi đã từng nói với Tăng Ni rằng đức Phật ra đời là để cứu độ chúng sanh. Cứu độ chúng sanh bằng cách nào? - Là đem chánh pháp chỉ dạy cho người ta tu, để dẹp sạch phiền não giải thoát sanh tử. Như vậy cứu độ chúng sanh chớ không phải cứu độ riêng cho dân tộc Ấn Độ. Ngài ra đời cứu độ chúng sanh thì mình ở đâu, nước nào cũng là một chúng sanh. Như vậy Ngài cứu độ chúng ta, chớ không phải Ngài tuyên bố Phật ra đời là vì dân tộc Ấn Độ, vì giáo hóa dân Ấn Độ. Như vậy đức Phật không tự đặt Ngài ở trong một phạm vi của một dân tộc, của một đất nước, của một màu da v.v… mà Ngài đặt Ngài là người của tất cả chúng sanh. Đã là người của tất cả chúng sanh thì chúng ta theo đạo Phật phải biết những gì Phật dạy để trị tâm bệnh. Mình lấy đó để ứng dụng tu hành, dẹp trừ được phiền não. Đó là cái gốc.

Tới điểm thứ hai, hiện tại chúng ta nhìn Phật giáo truyền bá trên thế giới, rõ ràng có hai hệ phái Nam tông và Bắc tông. Hiện giờ, quí vị thấy tôi đang theo hệ phái nào? Chắc không ai nghi ngờ tôi theo Bắc tông. Tại sao tôi lại theo Bắc tông mà tôi không thích Nam tông? Như tôi đã nói Phật là người của chúng sanh. Đã là người của chúng sanh thì chúng ta ở nước nào, nơi nào cũng có quyền tu theo Phật hết.

Tôi thí dụ như có một xí nghiệp bào chế thuốc tây. Họ bào chế thứ thuốc rất hay trị lành bệnh. Nếu người nhức đầu có thuốc nhức đầu uống liền lành. Người đau bụng có thuốc đau bụng uống liền lành v.v… Thuốc nào cũng hay hết, uống vào liền lành bệnh. Nhà thuốc chế những phương thuốc ấy ở bên Pháp, họ có nói rằng thuốc tôi chỉ chế trị bệnh cho người Pháp không? Hay thuốc này chế ra, ai biết đúng bệnh và đúng thuốc, uống đúng liều lượng thì sẽ lành? - Tất cả ai uống cũng được hết. Đó là điều thứ nhất.

Điều thứ hai, thuốc chế ra từ phương Tây như ở Pháp chẳng hạn. Chúng ta là người Việt Nam muốn uống thuốc tây, mình phải chuẩn bị làm sao, uống bằng cách nào cho có hiệu quả? Uống thuốc Tây phải mặc đồ Tây, phải mũi cao như Tây, lấy phấn thoa mặt cho trắng… uống mới có hiệu quả hay sao? Hay là bất cứ ăn mặc thế nào, bất cứ màu da thế nào, bất cứ mũi xẹp mũi cao gì miễn biết uống đúng thuốc, đúng bệnh và đúng liều lượng thì bệnh được lành?

Đạo Phật xuất phát từ Ấn Độ, phong tục tập quán của Ấn Độ, ăn mặc khác mình, xử sự khác mình. Bây giờ mình muốn dùng phương thuốc của Phật từ Ấn Độ trị bệnh cho người Việt Nam thì có phải ăn mặc giống người Ấn Độ không? Mình phải xử sự như người Ấn Độ không? Chúng ta không thể nào tu theo đạo Phật, dùng những phương pháp Phật dạy để trị tâm bệnh của mình, mà bắt buộc mình phải giống người Ấn Độ, mình phải ăn mặc như người Ấn Độ, mình phải xử sự như người Ấn Độ. Đâu cần thiết như vậy. Mà cần thiết ở chỗ mình biết bệnh, biết thuốc và biết liều lượng uống thì bệnh lành. Đó là một lẽ thật.

Bây giờ quí vị giở bộ luật Tứ phần ra thì thấy trong đó hết bao nhiêu phần nói về y bát. Mà bây giờ mình có mang y bát đi khất thực như Phật hồi xưa không? Thế mà bảo phải giữ giới thì làm sao giữ đây? Khi tôi sang Ấn Độ gặp mùa lúa chín, ngồi trên tàu hỏa chạy đi dọc đường thấy mấy cô gái Ấn Độ cắt lúa, tôi thương quá, họ quấn cái y lùm xùm cắt lúa khó khăn làm sao! Nhớ lại người Việt Nam mình mặc đồ gọn ghẽ cắt rất lẹ làng, còn họ xùng xình quá, cắt lúa hết sức khó. Đây là tại tập quán của người ta như vậy. Người ở quê từ người nam người nữ, trẻ già gì cũng quấn y. Cho nên Phật tu ở Ấn Độ, Phật cũng quấn y. Chuyện đó là chuyện đương nhiên.

Hệ phái Bắc tông bây giờ dùng từ là Phát triển có những cái không cố chấp như thuở xưa. Như Bắc tông truyền sang Trung Hoa thì các Thiền sư ở Trung Hoa có ăn mặc giống Ấn Độ không? Chính Phật, Ngài quấn y tu hành thành Phật. Bây giờ mình khi nào lễ Phật cũng quấn y để tỏ lòng tôn trọng cung kính Phật. Còn cách ăn mặc, xử sự trong mọi hoàn cảnh thì mình phải khác. Cho nên người Trung Hoa ăn mặc như người Trung Hoa, chỉ khác là cái áo khác màu với người thế tục thôi. Còn cái y chỉ dành khi nào lễ Phật. Bình thường người ta cũng mặc đồ thường để làm việc cho gọn ghẽ. Sang Nhật Bản, quí vị thấy người Nhật Bản có làm giống người Ấn Độ không? Y cũng có, nhưng y chỉ dành khi lễ lượt, còn bình thường họ cũng ăn mặc quần áo theo Nhật Bản. Như vậy chỉ khác với người thế gian, người tu ăn mặc nâu sòng, không lòe lẹt như người thế gian thôi.

Bắc tông dám cải đổi những gì không phải cái gốc, cái nguồn thì mình có thể sửa được. Gốc nguồn là pháp Phật. Còn ăn mặc là hình thức bên ngoài. Như vậy mình là người Việt Nam, muốn học Phật mà giữ nguyên bản sắc Việt Nam, mình phải ăn mặc và thực hành theo Bắc tông thì hợp hơn. Đó là một lý do riêng của tôi.

Còn một lý do thứ hai sâu sắc hơn là kinh điển Phật dạy như các bộ A-hàm. Trong các bộ A-hàm luôn luôn dạy chúng ta tu. Khi chúng ta đã phá được ngã chấp, pháp chấp rồi thì liền được chứng quả A-la-hán, là nhập Niết-bàn. Niết-bàn là vô sanh hay nói cách khác chúng ta tu đến quả vị A-la-hán rồi thì sẽ giải thoát sanh tử. Song nói giải thoát sanh tử, tôi đặt ra một câu hỏi: Nếu có người bị trói, bị cột trong cây hay là một nơi nào đó mà họ khổ sở, họ giãy giụa ra không được, có người thấy thương lại mở dây trói họ ra, người ta gọi người đó là người giải thoát cho họ. Ông A ông B bị cột trói, mở dây cột trói nói giải thoát cho họ. Giải thoát có nghĩa gì? Giải thoát là một động từ. Nhưng giải thoát phải giải thoát cho ai, giải thoát cái gì, còn một chủ từ nữa.

Trong kinh Phật nói hết phiền não thì được giải thoát sanh tử. Mà giải thoát sanh tử không biết ai giải thoát, cái gì giải thoát Phật không nói thêm. Quí vị đọc hết trong các kinh A-hàm thử xem, không bao giờ Phật nói thêm cái gì nữa. Chỉ nói giải thoát sanh tử là đủ. Nếu nói thêm, như trong kinh dạy có vị A-la-hán tịch, các Tỳ-kheo hỏi Phật: “Vị A-la-hán này tịch rồi sẽ về đâu?” Phật chỉ trả lời rằng: “Như củi hết thì lửa tắt.” Một đống củi đang cháy, nếu củi còn thì lửa tiếp tục còn cháy. Củi hết thì lửa tắt. Phật trả lời gọn như vậy thôi. Như vậy thì sao? Mình không biết sao nữa hết. Như vậy nói tới giải thoát có một cái gì chưa ổn.

Cho nên bước qua lãnh vực kinh điển Đại thừa thì các ngài nói trắng ra giải thoát sanh tử là giải thoát cái gì? Giải thoát sanh tử nghĩa là mình dứt sạch phiền não rồi thì Phật tánh Chân tâm của mình hiển lộ. Phật tánh Chân tâm là cái không có sanh tử. Cho nên dứt được những cái che đậy, những cái cột trói làm cho mình phải sanh tử thì mình hết sanh tử. Cái gì hết sanh tử? - Là Phật tánh, là Chân tâm của mình. Cái đó là cái giải thoát sanh tử. Rõ ràng quá, không còn gì nghi ngờ nữa. Còn như trước nói thì mình thấy có gì không ổn. Nhưng phải suy cho kỹ, tại sao đức Phật nói tới đó thôi? Bởi vì Ngài ra đời ở Ấn Độ, mà giáo lý của đạo Bà-la-môn luôn luôn nói con người có một Thần ngã. Tất cả hiểu biết của mình thuộc về Thần ngã. Cho nên chết rồi thì Thần ngã đó hoặc được sanh nơi này nơi kia, hoặc được về với Tự Tại Thiên chẳng hạn. Vì vậy mà Phật dè dặt. Nếu nói còn có cái gì đó thì người ta nói “như vậy là thần ngã rồi” nên Phật không nói. Phật chỉ nói củi hết lửa tắt là giải thoát. Vậy thôi, không nói thêm gì nữa.

Hoàn cảnh đức Phật buổi đầu khó khăn như vậy nên Phật không muốn nói hết. Sau này kinh điển Đại thừa là của Phật nói hoặc không phải Phật nói mà đệ tử Phật, những vị chứng quả A-la-hán hoặc quả Bồ-tát tiếp nối giải thích cho rõ cho người sau hiểu, thì việc đó không lỗi lầm gì hết. Cũng là một bước để cho người sau không nghi ngờ.

Chúng ta thấy kinh điển Đại thừa lúc nào cũng chỉ chúng ta một hướng đi vừa thực tế vừa chân thật. Chúng ta biết trong người chúng ta cái gì giả, rồi tìm phăng có cái thật. Cái thật với cái giả, mà cái giả mình không lầm thì cái thật sẽ hiển hiện.

Như vậy ngay nơi mình, tu rồi mình thấy rõ không nghi ngờ gì hết. Sự dạy dỗ tu hành rất thực tế, dễ dàng hơn. Đó là lý do tại sao tôi theo Bắc tông. Nhiều khi quí vị không hiểu nói sao cũng người tu Phật ở Việt Nam, có người theo Nam tông, người theo Bắc tông là lý do gì? Đây, tôi có lý do rõ ràng như vậy. Bởi vì dân tộc của chúng ta, Tổ tiên của chúng ta ngày xưa tu theo Bắc tông. Bây giờ chúng ta thấy Bắc tông có những lối nhìn cụ thể, thực tế mà không bị gò bó.

Bắc tông chỉ cho chúng ta thấy giáo lý đến chỗ cứu kính, không phải nói giải thoát không. Mà giải thoát là cái Chân tâm, cái Phật tánh của chúng ta không còn bị phiền não cột trói nữa, cho nên cái đó tự tại, thênh thang giải thoát, không bị sanh tử. Như vậy cái nào cũng cụ thể, cũng rõ ràng cho nên chúng ta theo.

Những gì tôi đã nói ở trên là để nói lên nguyện vọng của tôi cho quí vị biết.

Chúng ta là lớp người sau, chúng ta theo đạo Phật mà đạo Phật đã truyền bá trên đất nước chúng ta gần hai mươi thế kỷ rồi, tức là cả hai thiên niên kỷ. Như vậy đạo Phật ảnh hưởng rộng lớn sâu đậm thế nào đối với dân tộc Việt Nam. Như ở trên tôi đã nói đời Trần muốn cách mạng văn hóa, không lệ thuộc Trung Quốc. Bây giờ chúng ta ở trong đạo Phật, chúng ta có bị lệ thuộc gì văn hóa của Trung Quốc không? Ngày nay quí vị tới chùa thấy tối công phu Tịnh độ, khuya trì chú Lăng Nghiêm. Như vậy thì “hai thời khóa tụng mà hiện giờ chúng ta tu là Phật dạy hay ai đặt ra?” Đó là câu hỏi cần phải biết. Chúng ta tu Phật mà thấy người ta làm thì làm theo, không biết mình làm đó là học theo ai, bắt chước người nào, đó là thiếu sót lớn.

Chính khi nghiên cứu hai thời khóa tụng rồi, tôi buồn, rất là buồn. Vì hai thời khóa tụng ra đời trong thời nhà Thanh ở Trung Quốc, chính đời vua Khang Hy. Ông mời các Thiền sư, các vị Tăng có tiếng tăm tới sắp đặt hai thời khóa tụng. Mà thời nhà Thanh là thời Phật giáo suy đồi. Đặt ra hai thời khóa tụng để cho dân Trung Quốc tụng, mà sao lại lọt qua Việt Nam. Việt Nam cũng tụng theo. Tụng theo cả trăm năm nay. Quí vị nghĩ sao?

Nếu ở Nhật Bản, quí vị thấy có tụng hai thời khóa tụng như mình không? Ở Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan có tụng hai thời khóa tụng không? Chỉ có ở Trung Quốc đời nhà Thanh thôi. Phật giáo thạnh nhất ở Trung Quốc là đời Đường, đời Tống. Sang đời Nguyên, đời Thanh là Phật giáo suy đồi. Từ cái suy đồi đó, người ta mới tạo ra hai thời khóa tụng. Hai thời khóa tụng ra đời thì càng suy đồi hơn nữa. Mình lại lấy cái đó làm nền tảng tu hành cho xứ sở mình, cho Phật giáo Việt Nam thì quí vị có vui được không? Chính khi tụng hai thời khóa tụng thì Phật tử hiện nay nghe có hiểu câu nào không? Cứ tụng bằng chữ Hán. Mình học Phật, tại sao ở Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-bàn, các vị kiết tập bằng văn tự Nam phạn và Bắc phạn. Nam phạn tức là tiếng Pali, Bắc phạn tức là tiếng Sanskrit. Như vậy kinh sau này của Ấn Độ bằng hai thứ chữ Sanskrit và Pali.

Khi người Trung Hoa nghiên cứu đạo Phật, học đạo Phật, người ta chuyển thành chữ Hán hết, ba Tạng kinh đều bằng chữ Hán. Chúng ta ngày xưa vì chưa có chữ quốc ngữ cố định nên mình cũng phải học kinh chữ Hán. Ngày nay đã có chữ quốc ngữ là chữ mà tất cả đều chuyển được hết, từ tiếng Pháp, tiếng Anh chuyển thành tiếng Việt được, tại sao chữ Hán mình không chuyển thành chữ Việt? Chúng ta cứ đem chữ Hán ra đọc. Hiện nay nhiều vị tu ở chùa, chữ Hán cũng chút ít mà tụng kinh chữ Hán có biết gì đâu. Rồi Phật tử lại cũng tụng mà không biết gì hết. Như vậy mình tu Phật có lệ thuộc những người đi trước hay là những nước đàn anh đã theo đạo Phật? Người ta chế, người ta sắp đặt ra rồi mình theo như vậy thì có lệ thuộc không?

Rõ ràng, chúng ta muốn độc lập về văn hóa mà ở trong tôn giáo chúng ta lệ thuộc một cách đau đớn, đáng buồn. Cho nên tôi lên tiếng, tôi nói phải thay đổi lại, không được lệ thuộc như vậy nữa. Như vậy chúng ta muốn không lệ thuộc thì phải can đảm, phải chuyển hóa những gì lâu nay chúng ta bị lệ thuộc. Bây giờ dứt khoát phải thay đổi. Như vậy mới gọi là gan, như vậy mới gọi là người dám nhận đúng nhận sai. Nếu chúng ta không như vậy thì không có làm gì được.

Ở đây, Thiền viện Trúc Lâm ra đời, quí vị thấy chúng ta có cải đổi không? Tất cả những nghi thức đều chuyển thành tiếng Việt. Cho tới người ta gọi tôi là cầu kỳ. Lâu nay người ta quen gặp nhau hoặc tất cả buổi lễ khi niệm tới danh hiệu đức Phật thì niệm Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, gần như đây là một thông lệ không thay đổi được. Mà tôi dám thay đổi. Tôi đổi lại Nam-mô Phật Bổn sư Thích-ca Mâu-ni. Tại sao tôi kỳ khôi vậy? Làm việc lạ đời như vậy?

Quí vị nhớ, nếu đứng về mặt văn hóa thì văn hóa Trung Quốc, về câu văn luôn luôn danh từ chung được đặt sau, danh từ riêng được đặt trước. Như Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật, Bổn sư Thích-ca Mâu-ni là danh từ riêng, Phật là danh từ chung. Danh từ chung đặt sau, danh từ riêng đặt trước. Đó là lối văn phạm của Trung Quốc.

Còn người Việt Nam thì sao, danh từ chung được đặt trước, danh từ riêng được đặt sau. Thí dụ như muốn giới thiệu một vị Thượng tọa tên Chân Tâm thì chúng ta phải nói sao? Đây là Thượng tọa Chân Tâm hay Chân Tâm Thượng tọa? Nếu mình nói Chân Tâm Thượng tọa chắc người ta cười rần, phải không? Bởi vì Thượng tọa là danh từ chung, Chân Tâm là danh từ riêng. Nói theo Việt Nam thì đây là Thượng tọa Chân Tâm. Như vậy Việt Nam phải rõ ràng là Việt Nam. Tại sao chúng ta lệ thuộc chữ nghĩa, rồi lệ thuộc văn phạm, lệ thuộc hoàn toàn. Như vậy chúng ta có can đảm hay không?

Chúng ta là người Việt Nam, tu theo đạo Phật, phải đem chánh pháp của Phật ứng dụng tu hành, chớ không nên lệ thuộc người Ấn Độ về hình thức cũng như văn hóa chữ nghĩa. Mà không lệ thuộc người Ấn Độ chẳng lẽ chúng ta lệ thuộc Trung Hoa. Trung Hoa không lệ thuộc Ấn Độ, Nhật Bản không lệ thuộc Ấn Độ, mà Trung Hoa có ngôn ngữ văn tự của Trung Hoa, Nhật Bản có ngôn ngữ văn tự của Nhật Bản. Việt Nam chúng ta cũng có ngôn ngữ văn tự Việt Nam, mà chúng ta cứ ròng rặc đọc theo Trung Hoa thì có lệ thuộc không? Chúng ta tu theo Đại thừa, không cho lệ thuộc bất cứ hình thức hay văn hóa nào ngoại lai. Nhưng rõ ràng Phật giáo Việt Nam chúng ta lệ thuộc một cách đáng thương. Cho nên tôi chủ trương cái gì lệ thuộc thì chúng ta phải gỡ. Chúng ta phải cởi ách nô lệ. Nô lệ về chánh trị, nô lệ về kinh tế, nô lệ về văn hóa. Không lẽ chúng ta để bị nô lệ như vậy. Đây là cái nhìn riêng của tôi.

Hơn nữa, Phật giáo đã đóng góp văn hóa cho dân tộc Việt Nam rất đáng kể. Nhưng nhiều khi chúng ta không để ý. Nếu để ý quí vị sẽ thấy. Thuở nhỏ khoảng mười tuổi tôi thuộc lòng câu chuyện “mù rờ voi”. Mỗi khi làm gì xem có vẻ không được, không thành hình thì các ông già bà già nói: “Mầy làm như mù rờ voi.” Tôi không biết mù rờ voi là gì, chỉ biết làm như vậy là không đúng thôi. Có chỗ nói kỹ hơn có con voi và một đám người mù rờ nó. Người nói con voi như cái trống, người nói như cây cột, người nói như cây chổi… Như vậy biết rằng mấy người mù nói không đúng thật hình tượng con voi, mà chỉ đúng một bộ phận thôi. Cho nên làm việc gì không đúng hoàn toàn, người ta nói “mầy là mù rờ voi”. Mình tưởng câu đó, chuyện đó do Tổ tiên mình đặt ra, nó là văn hóa của dân tộc Việt Nam. Nhưng sau này khi nghiên cứu kỹ bộ kinh Trường A-hàm, tôi thấy câu chuyện đó nằm ngay trong kinh A-hàm.

Trong kinh Trường A-hàm kể rằng: Phật nói có một ông Vua muốn trắc nghiệm những người mù, ông bảo quần thần dẫn một con voi vào triều để trước sân triều. Mời những người mù lại đứng hai bên. Ông quan hô to rằng: “Đây là con voi, ở trước mặt các ông. Vậy các ông rờ xem diễn tả lại hình dáng con voi cho nhà Vua nghe. Thử ai diễn tả đúng thì được khen thưởng.” Sau đó, mỗi người chụp vào con voi, rờ được bộ phận nào liền nói. Như người chụp được cái chân, vuốt từ trên xuống thì la lên “con voi giống cây cột”. Người chụp được cái đuôi thì la “con voi giống cây chổi chà”. Người chụp được cái bụng thì la “con voi giống cái trống”. Người chụp được lỗ tai thì la “con voi giống cây quạt” v.v… Mỗi người nói mỗi cách. Nhà Vua và bá quan là người sáng mắt nhìn thấy tức cười. Nhưng những người mù đó, người nói con voi giống cây cột, người nói con voi giống cái trống. Hai người không chịu thua. Người nào cũng nói mình trúng vì mình nắm được mà. Vì vậy người này nói anh nói bậy, người kia nói anh nói trật. Hai người cãi một hồi đi đến đánh lộn nhau. Đánh nhau tứ tung rồi, nhà Vua mới ra lệnh giải hòa mà bảo rằng: “Vì các ông mù nên chỉ rờ được một bộ phận con voi. Nói diễn tả đúng chỗ mình rờ được, chớ chưa thấy toàn bộ. Mỗi người đều rờ trúng nhưng chỉ trúng một bộ phận, chớ không có toàn thể. Chỉ khi nào các ông sáng mắt thì mới thấy toàn thể con voi.”

Nếu sáng mắt rồi nhìn con voi có ai cãi lộn nhau đâu. Con voi như vậy thì thấy như vậy, có gì đâu mà cãi. Sở dĩ cãi lộn là tại mù, nắm được có một phần. Cho nên mình nói khác, người nói khác thành ra cãi lộn. Nghĩa là nắm được một bộ phận chân lý, rồi họ cho đó là cứu kính. Họ la lên, người khác cũng nắm một bộ phận chân lý, cũng la lên. Và hai người không giống nhau thành cãi lộn, sanh ra tranh cãi hơn thua phải quấy. Phật nói chỉ có người giác ngộ trọn vẹn rồi thì mới thấy chân lý. Mà thấy chân lý trọn vẹn thì không còn gì để cãi hết. Người giác ngộ trọn vẹn sẽ thấy như đức Phật.

Câu chuyện đó phát nguồn từ kinh điển Phật, nó ăn sâu trong văn hóa Việt Nam. Chẳng những một câu chuyện mà còn nhiều câu chuyện nữa. Nếu quí vị chịu khó đọc những kinh như Bách Dụ v.v… sẽ thấy có những thí dụ mà Tổ tiên chúng ta cũng dùng để dạy răn nhắc con cháu. Thế mới thấy văn hóa Phật giáo ảnh hưởng đến dân tộc chúng ta rất nhiều. Vì vậy ngày nay chúng ta biết tôn trọng sự độc lập của dân tộc. Chúng ta là người ở trong tôn giáo, cũng phải biết tôn trọng sự độc lập của văn hóa Phật giáo. Chúng ta đừng lệ thuộc hoặc một thứ chữ này thứ chữ khác. Hay cũng đừng lệ thuộc bất cứ một đường lối nào của những người cùng tu đạo Phật ở nơi khác. Người ta thực hiện theo phong tục tập quán của họ, mình cứ bắt chước, không sử dụng đúng với tinh thần của Phật giáo Việt Nam. Chúng ta phải có một nền Phật giáo Việt Nam thật sự. Nếu không thì chúng ta lệ thuộc một cách đáng thương. Nhất là bây giờ quí vị về các chùa xưa thì thấy tụng kinh, thấy các hình thức lễ lượt thật là Trung Quốc, chớ không có Việt Nam chút nào hết.

Tu theo đạo Phật thì chúng ta phải có một cái nhìn, có một trí tuệ sáng suốt, chọn lựa cái gì là hữu ích, có giá trị thật, chúng ta ứng dụng. Cái nào không thích hợp, cái nào lệ thuộc về văn hóa của nước này hoặc nước kia thì chúng ta phải cởi, phải bỏ để chuyển lại thành tất cả Phật giáo Việt Nam là của người Việt Nam. Ai cũng đọc, ai cũng hiểu và ai cũng có thể áp dụng tu được. Như vậy mới thấy cái hay của tinh thần Bắc tông. Không như thế thì chúng ta theo Bắc tông mà lệ thuộc Bắc tông, chớ không phải theo Bắc tông mà độc lập như người Nhật, người Trung Hoa.

Chính vì vậy tôi thấy chỉ có thiền Trúc Lâm Yên Tử là một đường lối tu thích ứng với hoàn cảnh hiện tại của xã hội. Đó là một lối tu rất là Việt Nam. Tại sao? Quí vị thấy ngài Tỳ-ni-đa-lưu-chi, ngài Vô Ngôn Thông, ngài Thảo Đường… truyền bá Thiền sang Việt Nam. Nhưng tới đời Trần, các ngài lượm lặt những tinh hoa của ba vị trước, rồi kết hợp lại thành thiền Trúc Lâm Yên Tử. Mà thiền Trúc Lâm Yên Tử là thiền Việt Nam. Vì Tổ Trúc Lâm là người Việt Nam, không phải từ Trung Quốc tới, không phải từ Ấn Độ sang. Đó là người Việt Nam đứng ra tinh lọc những cái hay, những cái quí để giáo dục, để chỉ dạy lại cho người sau, người Việt Nam.    

Như vậy, chúng ta không lấy đó làm cái mốc để chúng ta nhắm thì còn cái nào tốt hơn. Cho nên tôi phải dùng Trúc Lâm Yên Tử làm mục tiêu chúng ta nhắm để thực hiện theo tinh thần đó, ứng dụng tu và ứng dụng truyền bá để cho người Việt Nam được tự tín rằng trên đất nước Việt Nam vẫn có những người từng tu theo đạo Phật, từng tu theo Thiền tông, đã chứng ngộ, đã tự tại ra đi và đã thấy được chân lý, tiếp tục truyền nối mãi tới ngày nay không mất.

Như thế người ta mới đủ lòng tin rằng Phật giáo Việt Nam có giá trị. Nếu chúng ta chạy theo bên này bên kia bên nọ để học, rốt cuộc chúng ta không có gì hết. Thí dụ, chúng ta qua Thái Lan học, qua Miến Điện học, qua Nhật Bản học v.v… để nói lên rằng ở Việt Nam chưa có gì để chúng ta học. Nếu Phật giáo Việt Nam chưa có gì làm sao truyền bá được gần hai mươi thế kỷ. Nếu không có gì thì nó bị mất bị diệt rồi. Mà truyền bá thời gian dài như vậy thì biết rằng Phật giáo Việt Nam có một chỗ đứng rất vững, có một đường đi rất rõ ràng, chớ không phải là không có gì. Nhưng rất tiếc con cháu Việt Nam chúng ta không biết khai thác, không biết khơi dậy cái hay, cái đẹp, cái tốt của Tổ tiên mình đã làm. Chúng ta tưởng chừng như mình không có gì, rồi quên cái hay của Tổ tiên mình, chạy đi học của những người khác.

Như vậy mình có lệ thuộc không? Tuy theo đạo Phật mà chúng ta vẫn lệ thuộc. Cho nên tôi chủ trương mình theo đạo Phật thì phải có lập trường, lấy cái hay của Phật giáo Việt Nam làm chỗ đứng cho vững, để mình làm lợi ích cho người Phật tử Việt Nam. Còn tham vọng hơn là cho tất cả những nước khác, người ta mến đạo Phật nhìn thấy Phật giáo Việt Nam là một ngọn đuốc sáng, là chỗ đáng tin cậy để họ học hỏi. Như vậy mới hay chứ! Chẳng lẽ mình cứ chạy đi học chỗ này học chỗ kia, rồi rốt cuộc cái của mình lại bỏ.

Chúng ta phải biết khơi dậy ngọn đuốc sáng của Tổ tiên mình. Đó là chỗ mà tôi muốn nói cho tất cả hiểu. Vậy nguyện vọng của tôi là gì? Nguyện vọng của tôi là muốn làm sao cho đất nước Việt Nam được độc lập, vững bền, lâu dài. Và muốn làm sao cho Phật giáo Việt Nam cũng có những nét độc lập của Phật giáo Việt Nam. Đem đạo Phật ứng dụng tu nơi tâm của mình, chớ không lệ thuộc hình thức người Ấn Độ, cũng không lệ thuộc hình thức người Trung Hoa, người Nhật Bản v.v… Chỉ Phật giáo Việt Nam là của Việt Nam. Như vậy chúng ta mới có được một cái gì cho đất nước mình, cho xứ sở mình, chớ không thì chúng ta trống rỗng, chỉ học của người thôi, mình không có gì hết. Đó là chỗ nhắm của tôi. Nếu tôi không nói ra, có lẽ trong đây Tăng Ni năm năm, mười năm sau có người hỏi tại sao Thầy đặt tên Thiền viện này là Thiền viện Trúc Lâm, rồi lúng túng không biết trả lời. Như không biết tại sao lâu nay người ta niệm Nam-mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật mà Thầy lại niệm ngược lại, kỳ vậy.

Có thể việc làm của tôi, chỗ mong mỏi, trông đợi của tôi, tôi muốn thực hiện mà người sau tôi không biết. Đó cũng là cái hại. Nên hôm nay nhân ngày đầu năm tôi nói rõ nguyện vọng của tôi cho Tăng Ni và Phật tử hiểu. Sở dĩ tôi đặt tên Thiền viện là cả một nguyện vọng gởi gắm vào đây, chớ không phải việc làm suông, bắt chước hay tùy hứng. Mà đem tất cả tâm tư nguyện vọng của tôi gởi gắm vào tên của Thiền viện. Và nhắm mãi, trông đợi mãi những người sau tôi thấy rõ được nguyện vọng của tôi mà tiếp nối, làm cho nó sáng tỏ, làm cho nó được lâu dài. Đó là chỗ trông đợi mong mỏi nơi tất cả Tăng Ni và Phật tử hiện giờ.

Hôm nay buổi nói chuyện vào ngày đầu Xuân hay ngày Tết Nguyên Đán tới đây cũng tạm xong. Vậy mong tất cả Tăng Ni quí vị nhớ kỹ hiểu rõ thâm ý của tôi trông đợi, mong mỏi thế nào, quí vị ráng thực hiện. Như vậy chúng ta mới có được một hướng đi và mới có được một con đường tiếp nối dài xa cho con cháu mai sau. Đó là sự mong mỏi của tôi.

Tác giả bài viết: HT. Thích Thanh Từ
Nguồn tin: Thiền viện thường chiếu
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 42
  • Khách viếng thăm: 41
  • Máy chủ tìm kiếm: 1
  • Hôm nay: 7197
  • Tháng hiện tại: 1359392
  • Tổng lượt truy cập: 59012325

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile