Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục giảng giải (1999)

Đăng lúc: Thứ hai - 05/12/2011 13:42 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục giảng giải (1999)

Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục giảng giải (1999)

Vốn nghe, Phật Tổ ở nước Tây Thiên Trúc truyền đến, ban đầu là Thái tử con vua Tịnh Phạn, rồi Ngài lên núi Tuyết tu hành thành đạo, hiệu là Thế Tôn nói rộng ba tạng kinh điển. Sau đó truyền sang nước Chấn Đán (Trung Hoa) ở phương Đông, từ đời Hiếu Minh Đế triều Hán cho đến ngài Huyền Trang đời Đường, vâng chiếu mở mang truyền bá, lần lượt hơn năm trăm năm.
HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
GIẢNG GIẢI

THÍCH THANH TỪ
HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
GIẢNG GIẢI
DL 1999 - PL 2543

HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
Giảng giải
A. CHÁNH VĂN
NGỮ LỤC CỦA THIỀN SƯ HƯƠNG HẢI
I. BÀI TỰA
Vốn nghe, Phật Tổ ở nước Tây Thiên Trúc truyền đến, ban đầu là Thái tử con vua Tịnh Phạn, rồi Ngài lên núi Tuyết tu hành thành đạo, hiệu là Thế Tôn nói rộng ba tạng kinh điển. Sau đó truyền sang nước Chấn Đán (Trung Hoa) ở phương Đông, từ đời Hiếu Minh Đế triều Hán cho đến ngài Huyền Trang đời Đường, vâng chiếu mở mang truyền bá, lần lượt hơn năm trăm năm. Truyền đến nước Nam, Tổ ban đầu là Tuệ Trung Thượng Sĩ được ấn chứng nơi Thiền sư Tiêu Dao. Thượng Sĩ lại dạy đạo cho vua Trần, truyền năm đời vua, làm sáng tỏ cơ nhiệm mầu của Phật pháp, rõ thấu ý chỉ sâu xa hiển và mật. Vua Nhân Tông bỏ nước xuất gia, lên chùa Hoa Yên thành Tổ Điều Ngự. Từ đây mặt trời Phật thêm sáng rực, bánh xe pháp càng xoay khắp. Cũng từ đây việc nghiên cứu học tập lời dạy xưa và kinh điển của Phật được mở mang truyền rộng dẫn khởi tông tích đến cho người sau thấu suốt cội nguồn để lại cho hậu thế.
Kính ghi lời tựa.
Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8 (1747)
ngày lành tháng 5 năm Đinh Mão.
Đệ tử nối pháp soạn thuật.
II. TIỂU SỬ THIỀN SƯ HƯƠNG HẢI
(1628 - 1715)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình. Ông sanh được hai người con trai. Con cả trông coi Lãng Doanh, tước Hùng quận công, quản đốc ba trăm lính thợ. Con thứ làm chức Phó cai quan, tước Trung lộc hầu, là ông Tổ bốn đời của Sư. Khoảng niên hiệu Chính Trị đời vua Lê Anh Tông (1558-1571), Trung lộc hầu theo Đoan quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn Quảng Nam. Ông được Nguyễn Hoàng tin dùng nên thăng chức Chánh cai quan, quản lãnh các lính thợ đóng thuyền. Nguyễn Hoàng lại dâng sớ về triều kể rõ công trạng, vua Lê phong cho ông hiệu Khởi Nghĩa Kiệt Tiết Công Thần, cấp cho ba mươi mẫu ruộng và con cháu được thế tập.
Sư thuở nhỏ đã thông minh tài giỏi, năm mười tám tuổi thi đỗ Hương tiến (Cử nhân) được chọn vào làm Văn chức trong phủ chúa Nguyễn. Sau lại bổ Sư ra làm Tri phủ phủ Triệu Phong (nay là tỉnh Quảng Trị). Năm Sư hai mươi lăm tuổi rất hâm mộ Phật pháp nên tìm vào học đạo với Thiền sư Viên Cảnh ở Lục Hồ, được đặt pháp danh là Huyền Cơ Thiện Giác, pháp tự Minh Châu Hương Hải. Sau Sư lại tìm đến Thiền sư Đại Thâm Viên Khoan để tham học.
Hơn ba năm sau, Sư từ quan xin xuất gia, rồi dong thuyền ra biển Nam Hải, trụ trên ngọn núi Tim Bút La, cất ba gian nhà tranh ở tu.
Sư ở đây chuyên tu thiền định và giới luật tinh nghiêm được hơn tám tháng, nhân dân cùng quan trưởng xa gần đều quí kính, tiếng tăm vang dội. Sau chúa Nguyễn nghe danh sai sứ ra đảo mời Sư về. Người đời thường truyền tụng lại lúc Sư sắp đắc đạo có nhiều câu chuyện rất linh dị.
Như nói khi Sư mới ra tu ở núi Tim Bút La này, gần đó có biển tên Ngọa Long Hải và đảo Đại Lãnh. Hai nơi này ít người đi đến và là hang ổ của ma quái. Chúng ma đã nhiều lần kéo đến ngăn trở sự tu hành của Sư, mà tâm Sư vẫn không lay động.
Một đêm vào lúc canh hai, những đồ đệ của Sư bỗng trông thấy một con ma lớn đen sì, cao chừng hai trượng (8 thước) xồng xộc chạy vào, một lúc rồi biến đi đâu mất. Đến cuối canh ba, bỗng có một con rắn lớn bò đến quấn chặt mình Sư, Sư không cựa động được, cố nhích mình lần tới bàn Phật, niệm chú Thần đao, một lát con rắn ấy biến mất.
Lại một hôm, đang giữa ban ngày bỗng mây đen kéo đến trước sân mù mịt, gió cuốn ầm ầm, cây gãy cát bay, mái nhà bung tốc, một lát mới hết.
Đến tháng thứ ba, lại một lần giữa đêm vắng, núi non yên tĩnh, bỗng nghe tiếng như ngàn muôn con mèo kêu ran lên một chặp.
Lại đến tháng thứ tám, một lần giữa canh vắng đêm khuya, Sư đang ngồi thiền trước điện Phật, hương đèn sáng choang, bỗng thấy quân ma vừa trai vừa gái đứng vây tứ phía, đứa cầm giáo, đứa cầm mác, đứa dắt trâu, đứa dắt ngựa, đứa dắt voi, nhiều thứ quái tượng. Sư cảm thấy đau bụng, mắt mờ không thấy ánh sáng của đèn, không thấy tượng Phật, chỉ thấy toàn ma tinh.
Lúc đó, Sư dùng hết sức trì chú, nhiều phương thức bí mật đều không linh nghiệm. Sư bèn lập chí Kim cang tưởng lửa Tam-muội, quyết đốt cháy thân mình và thiêu cả thế giới. Quả thấy rất linh nghiệm, một lát chúng ma biến đâu mất, cảnh sắc lại quang minh như trước. Song giữa đêm vắng núi yên không ai thấy biết.
Sáng ra, Sư cho rằng đất này là ác địa, khó giáo hóa được, bèn trở về quê cũ là làng Bình An Thượng, phủ Thăng Hoa xứ Quảng Nam. Sư bảo với bà con làng xóm rằng: “Chỗ đảo này từ lúc mở mang đến nay chưa được khai hóa, chính là ác địa, cung ma, khó mở đạo pháp.” Sư ở qua một tuần, chợt có người Mán đến cầu thỉnh, Sư hỏi người ấy:
- Ban đêm đến tìm tôi chắc là có duyên cớ gì cần tỏ bày?
Người Mán thưa:
- Cả thôn xóm của tôi có ba ngôi đền cũ ở núi Tim Bút La. Một miếu thần Cao Các đại vương, một miếu Phục Ba đại tướng quân, một miếu thần Bô Bô đại vương. Hôm Sư cụ về được bốn ngày, trong làng chợt thấy thần cả ba ngôi đền này đều phục đồng lên nói rằng: “Hôm nọ bọn ma tinh tác quái mấy lần làm não hại Pháp sư, chúng ta ngồi yên xem thử coi ai thắng ai bại. Chúng ta bỗng thấy Pháp sư biến hình biến tướng, chẳng biết ở đâu, khiến chúng ma tinh phải lui hết. Chúng ta thấy Pháp sư thật là đạo hạnh kiêm toàn. Vì vậy chúng ta rất thán phục Pháp sư ấy, nên báo cho dân làng biết hãy đi thỉnh Sư về trụ ở đây.” Bấy giờ mọi người trong làng nghe thấy việc như trên mới cho tôi vào thỉnh bạch Sư cụ về duyên do trước đó.
Khi ấy Sư nghĩ: “Việc bọn ma đã nép phục hiển nhiên rồi.” Nên sau đó Sư lại một phen cùng đệ tử xuống thuyền trở ra đảo Tim Bút La. Từ đây Sư ở chuyên tu hơn tám năm an ổn, không có gì chướng ngại. Sư được thần khen quỉ giúp, cảm ứng tự nhiên, Phật pháp thạnh hành, tiếng tăm vang khắp.
Một hôm, Thuần quận công trấn thủ Quảng Nam có bà vợ đau đã lâu mà không trị lành, nghe danh tiếng của Sư, ông cho người đến rước. Sư đến nhà lập đàn tụng kinh bảy ngày bảy đêm, phổ độ gia tiên và oan khiên thì bệnh bà lành mạnh. Cả nhà đều kính phục, đồng xin qui y với Sư, cộng lại là năm mươi người. Từ đây Sư đã có tín chủ. Xong việc, thí chủ đưa Sư trở lại đảo Tim Bút La.
Hơn nửa năm sau, quan Tổng thái giám là Hoa Lễ Hầu ở Quảng Nam mắc bệnh lao đã ba năm, thuốc men trăm thứ vẫn không khỏi, bèn từ quan về dưỡng già ở quê nhà. Lúc đó Thuần quận công đang trấn thủ Quảng Nam là người có nghĩa xưa với vị quan trên nên đến thăm hỏi. Hai ông nói chuyện về nguyên do bệnh, Thuần quận công kể cho Hoa Lễ Hầu về bệnh của vợ mình không ai trị khỏi, nhờ thỉnh vị Tăng ở đảo ấy gia trì kinh chú, được một tháng thì lành bệnh. Vì vậy nên xin Trưởng quan hãy đến đảo ấy cầu thỉnh cho được Sư hành trì pháp lực mong sẽ được mạnh chăng. Hoa Lễ Hầu nghe nói linh nghiệm cũng tin thật chẳng dối, liền cho Thuần quận công dẫn mười người lính và một chiếc thuyền đến chùa ở đảo thỉnh Sư tới dinh Hoa Lễ Hầu tại Quảng Nam trị hộ. Sư đến gặp Hoa Lễ Hầu hỏi han nguyên do bệnh từ bao giờ, Hoa Lễ Hầu đáp rằng:
- Bệnh đã ba năm không phương cứu chữa, mong Thầy từ bi có phương gì cứu giúp cho.
Sư bảo:
- Trưởng quan quyền cao chức trọng giết hại nhiều người, phải nương sức đại sám hối mới mong được an lành khỏi bệnh.
Hoa Lễ Hầu nghe theo lời Sư, thiết lập đàn tràng bảy ngày bảy đêm, phổ độ oan khiên, bệnh dần dần được bớt, đến một tuần trăng thì thân thể khỏe mạnh. Quyến thuộc lớn nhỏ trong toàn dinh đều qui y với Sư được hơn bảy mươi người. Sau đó Hoa Lễ Hầu về Thuận Hóa vào phủ chầu Chúa. Lúc này Dũng quốc công Nguyễn Phúc Tần, tục gọi là chúa Hiền (1648-1687) đang trị vì, Chúa hỏi thăm:
- Gặp thuốc nào, thầy nào, ai hay cứu khỏi cho ngươi?
Hoa Lễ Hầu thưa:
- Thần may mắn gặp bậc minh sư ở đảo tên Minh Châu, thỉnh về nhà trì tụng kinh chú, phổ độ oan khiên, nương nhờ sức Phật mới được mạnh khỏe như cũ.
Khi ấy Dũng quốc công sai Hoa Lễ Hầu thỉnh gấp Sư về kinh giúp nước. Một hôm Sư vâng chiếu về triều. Vào phủ chúa Hiền hỏi thăm:
- Nghe nói Sư ở núi có sức tu hành khổ hạnh, đến nhà người trừ được khỏi bệnh tật!
Chúa Hiền sai quan lập Thiền tịnh viện ở núi Qui Kính mời Sư ra ở đây chúc lành cho Vương gia, hộ trì quốc mạch.
Sư ở núi Qui Kính giáo hóa thạnh hành, bà Quốc Thái phu nhân cùng ba công tử là Phúc Mỹ, Hiệp Đức và Phúc Tộ đều xin qui y học đạo, tu hành tại gia. Quan quân cũng đồng qui y học đạo rất nhiều, gồm bảy mươi vị chánh quan, hơn một trăm vị phó quan, quân lính trong ngoài hơn một ngàn hai trăm vị.
III. SƯ BỊ CHÚA NGHE LỜI GIÈM PHA
TRUYỀN CHO VỀ QUÊ QUÁN CŨ
Bấy giờ có quan Thị nội giám là Gia quận công người làng Thụy Bái, huyện Gia Định, phủ Thuận An ở Kinh Bắc, tòng quân vào đánh Thuận Hóa bị Phúc Tần bắt được, nhưng tha cho đồng ở Thuận Hóa, ban lương tháng để ra vào trong phủ dạy học nội cung. Gia quận công thấy Sư được trong nước dùng, đạo đức tinh nghiêm, phát tâm qui hướng thọ giáo học đạo, ngày đêm chuyên tâm cầu pháp. Bởi Gia quận công lo mình tuổi cao, đường sống chết gần kề, muốn gần gũi Sư thưa hỏi cho được lối đi sáng sủa. Dần dà ngày tháng trôi qua đã lâu, lúc nọ có kẻ ngoại đạo thấy Sư được ưu đãi hơn bèn sanh ganh ghét, tâu với chúa Nguyễn vu khống Sư tính trốn đi. Họ nói:
- Hai người thân tình quen biết nhau, Sư ngầm mưu với Gia quận công che chở cho ông trở về với chúa Trịnh.
Bấy giờ chúa Hiền nghe tâu liền sanh nghi bắt Sư và Gia quận công giao cho quan tra khảo, hơn bảy ngày rốt cuộc không có bằng chứng gì. Chúa Hiền bảo:
- Việc này tình ngay mà lý gian.
Bèn ra lệnh cho Sư về Quảng Nam cách kinh thành ba ngày đường.
Bởi lý do ấy, Sư quyết chí trở về Bắc thật sự. Sư ngầm dự bị một chiếc thuyền cùng hơn năm chục đồ đệ quyết tâm vượt biển ra Bắc. Lúc đó vào khoảng tháng ba mùa Xuân năm Nhâm Tuất (1682), Sư năm mươi ba tuổi. Về tới đồn Trấn Lao (Dinh Kiều) Sư đến yết kiến quan Đốc sư là Yên quận công Trịnh Na. Quan binh đón tiếp, Sư ở đây một tháng đợi Trịnh Na dâng sớ về triều tâu cho vua Lê hay. Bấy giờ chúa Trịnh Hoằng Tổ Tịnh Vương (Trịnh Tạc) sai quan Vệ tiếp Đường quận công đem năm chiếc thuyền đến đồn Trấn Lao đón hết thầy trò Sư về kinh tỏ bày mọi việc. Chúa sai Đường quận công đem thầy trò Sư về dinh, ngày ngày sai quan đến tra hỏi cốt cho rõ đầu mối tranh nhau giữa hai bên. Một quan Phụng sai - Thị nội giám Nhương quận công Tài quận công Tổng giao Tổng tể - hai vị Thượng thư là Vĩnh và Lê Hy, tra hỏi xong trở về phủ đợi lệnh. Qua một tháng thì dừng, tra thấy có sự quả chánh đáng rõ ràng, Sư trình đủ quê quán ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quan, Nghệ An. Quan Phụng sai cho đòi người làng Áng Độ đến nhận thật.
Biết đúng lẽ thật rồi, chúa Trịnh cho mời Sư vào triều thăm hỏi và phong cho chức Vụ anh, hai vị đệ tử đi theo một người chức Ty sứ, một người chức Khố sứ. Đồng thời thưởng Sư ba trăm quan tiền, cấp khẩu phần mỗi năm hai mươi bốn lâu thóc, ba mươi sáu quan tiền, một tấm vải trắng, một phân phiến lịch. Đồ đệ mỗi người cũng được ban áo mão, cấp mỗi năm mười hai lâu thóc, mười hai quan tiền và vải, phiến lịch…, thành lệ.
Một hôm, Chúa sai Sư vẽ địa đồ hai xứ Quảng Nam và Thuận Hóa. Sư vâng lệnh vẽ rất đầy đủ rõ ràng, hai mươi mốt ngày thì xong, dâng lên Chúa. Chúa khen ngợi thưởng hai mươi quan tiền.
Khoảng tháng sáu đức Hoằng Tổ (Trịnh Tạc) mất, đức Chiêu Tổ lên thay. Chúa cho đưa Sư về ở nhà công quán trấn Sơn Tây. Qua tám tuần trăng, Chúa lại dời Sư về ở trấn Sơn Nam, thuộc quan Thiếu bảo tước Quận công trấn thủ. Lúc này Sư năm mươi lăm tuổi.
IV. SƯ RA VÙNG BÊN NGOÀI GẦN TRẤN
LẬP THIỀN TỊNH VIỆN
Từ khi Sư về trấn Sơn Tây, Chúa sai quan Trấn thủ Lê Đình Kiên đo hơn ba mẫu đất ban cho Sư và cất ngôi am năm gian hai chái. Ở đây Sư chuyên tâm lễ Phật tụng kinh, tinh tấn thiền định hơn mười tám năm. Mỗi ngày sớm tối ba thời tu hành đàn Chuẩn-đề không lười mỏi. Sư lại chú giải các kinh ra chữ Nôm như:
- Giải Pháp Hoa Kinh, một bộ.
- Giải Kim Cang Kinh Lý Nghĩa, hai đạo.
- Giải Sa-di Giới Luật, một quyển.
- Giải Phật Tổ Tam Kinh, ba quyển.
- Giải Di-đà Kinh, một quyển.
- Giải Vô Lượng Thọ Kinh, một quyển.
- Giải Địa Tạng Kinh, ba quyển.
- Giải Tâm Kinh Đại Điên, một quyển.
- Giải Tâm Kinh Ngũ Chỉ, một quyển.
- Giải Tâm Châu Nhất Quán, một quyển.
- Giải Chân Tâm Trực Thuyết, một quyển.
- Giải Pháp Bảo Đàn Kinh, sáu quyển.
- Giải Phổ Khuyến Tu Hành, một quyển.
- Giải Bảng Điều, một thiên.
- Soạn Cơ Duyên Vấn Đáp Tinh Giải.
- Soạn Lý Sự Dung Thông, một quyển.
- Soạn Quán Vô Lượng Thọ Kinh Quốc Ngữ.
- Soạn Cúng Phật Tam Khoa Kết.
- Soạn Cúng Dược Sư, một khoa.
- Soạn Cúng Cửu Phẩm, một khoa.
Những thiên trên đây rất được thạnh hành. Cứ thế năm tháng trôi qua, khi thì vào thiền định, xả ra thì giải kinh, trong hai mươi bốn giờ luôn luôn tinh tấn.
V. SƯ RA TRỤ TRÌ
DỰNG LẬP CHÙA NGUYỆT ĐƯỜNG
Khoảng cuối năm Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa (1700) Sư đã bảy mươi tuổi, xét thấy việc đời vô thường, tỏ ngộ thân căn không lâu bền, một lòng nghĩ nhớ muốn xây dựng ngôi Tam Bảo, nhóm họp kẻ Tăng người tục để kéo dài về sau, đèn đèn tiếp nối mãi không dứt. Một hôm Sư gặp bà Thị nội cung tần Nguyễn Thị Ngọc Hân ở phủ Chúa trước kia đến thỉnh qua trụ trì chùa Nguyệt Đường, để trùng tu mở mang cho ngôi chùa trang nghiêm trở lại. Đức Bà nội cung thưa với Chúa cúng ba dật bạc (60 lạng) lại khuyên thêm quan Trấn thủ tước Quận công hỉ cúng mười quan tiền.
Sư lên trụ trì chùa Nguyệt Đường ngày đêm nhóm họp, thiền đồ xa gần tựu về. Hàng pháp tử xuất gia thọ giáo, trường trai tu hành, tinh thông kinh luật thuộc hàng chữ “Chân” khoảng bảy mươi người, hàng cư sĩ thuộc chữ “Chân” thì rất nhiều, còn hàng cư sĩ thuộc chữ “Như” số không kể hết. Nhân đây Sư xây dựng lại thượng điện, gồm ba gian hai chái rất khang trang. Bên trong có chín pho tượng Tam Thế Phật toàn bằng vàng, mười hai tượng Tứ Thánh, bốn tòa Tứ Đại Thiên Vương, mỗi tòa ba tượng bằng gỗ phết sơn, hai tượng Thiên Chủ bằng gỗ. Sư lại cất hai ngôi tiền đường, mỗi ngôi năm gian, bên trái có tượng Địa Tạng bằng gỗ, bên phải có tượng Di-lặc bằng đồng, lại có một tượng Tề Thiên Đại Thánh bằng gỗ, hai bên trái và phải phía ngoài có hai tượng Hộ Pháp bằng gỗ. Lại cất hai ngôi hậu đường, mỗi ngôi năm gian, bên trong có tượng mười tám vị La-hán bằng gỗ phết sơn, giữa có tượng Phật Mẫu Chuẩn-đề ba mắt, mười tám tay bằng gỗ, hai tượng Thánh tăng và Thổ địa, sáu tượng Lục Phủ Thần Vương bằng gỗ phết sơn năm màu, hai dãy nhà hai bên bằng ngói xếp chồng đồ sộ, mỗi bên chín gian. Phía trước dãy bên trái có hai ngôi Nghi Đàn Dược Sư, bên trong giữa nóc nhà có cửa thông gió (thiên tỉnh), ngoài chạy bát vận, trên treo ba ngàn vị Hóa Phật hình dáng người Ấn, giữa có tượng bảy đức Phật bằng đồng, hai hàng mười vị Đại Bồ-tát, mười hai vị Dược Xoa, mỗi tượng đều bằng đồng thân tướng đoan nghiêm.
Phía trước bên phải có ba đài Cửu Phẩm Liên Hoa, tầng trên chồng mái, dưới giáp vòng bát vận, giữa nổi bật lên chín phẩm hoa sen chia ra làm chín tầng, mỗi tầng tám mặt, mỗi mặt ba tượng, phía trên có lọng báu rủ xuống, dưới đất nổi lên sen vàng, hai bên là tranh vẽ cảnh Tây phương với rất nhiều Thánh tượng, bốn góc có vị Thần vương Đại Hộ Pháp thân cao tám thước (khoảng 2,6m) rất uy nghi, trang nghiêm, phía sau có tượng Địa Tạng bằng đồng. Lại có ba tượng Tam Tổ bằng gỗ quí, một tượng Thiên Chủ ba cõi toàn bằng vàng, tượng Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương, lại có hai hàng tượng Phật bằng gỗ ở phía sau.
Phía sau bên phải có ngôi đàn Đại Bi năm gian, hai chái, bên trong có tượng Phật bốn mươi hai cánh tay, làm đài sen rất đẹp. Phía Đông Bắc có một ngôi nhà trù bát vận ba gian, phía Tây Nam có một ngôi nhà chứa kinh cũng ba gian bát vận, bảy ngôi Tăng đường vây quanh giáp vòng, một ngôi ngay giữa ba gian bằng gạch. Trong chùa thì bốn phía vách gạch, hành lang gạch xám tro. Ngoài chùa bốn góc toàn bằng gạch Bát thiết quí giá.
Lại có hai tòa nghi môn ở hai bên, mỗi tòa ba gian, chồng lớp hai tầng dùng làm gác khánh, gác mai. Hai ngôi Tổ đường hai bên, mỗi ngôi ba gian bát vận, chồng mái, bên trong có khám thờ cùng tượng hai vị Tổ. Một ngôi bảo tháp Tổ sư ở bên trái cao hai mươi mốt thước (khoảng 6m93). Một bảo tháp Tôn sư bên phải cao hai mươi lăm thước (khoảng 8m25) mỗi tháp đồng có tượng sư tử ở bệ đá phía dưới hai bên. Một cổng tam quan ở con đường trước chùa, lầu gác trên dưới, ba gian bát vận toàn dùng gạch Bát thiết.
Núi bên trái có gác chuông, tầng trên treo một cái hồng chung rộng hai thước (0m66), tầng dưới treo một đại hồng chung rộng ba thước năm tấc (1m15). Núi bên phải có lầu trống đối lại, trong đặt một cái trống to, bề mặt rộng ba thước (0m99). Thềm phía dưới bằng gạch Bát thiết bằng phẳng. Trước chùa có tường bao quanh, trang trí hoa văn. Con đường hai bên phải và trái dùng toàn gạch Bát thiết. Trong ngoài vườn cảnh, cây cối, hoa quả tươi tốt, trước sau sắp bày hàng lối như lọng che.
Niên hiệu Bảo Thái (1720-1729), một hôm vua Lê Dụ Tông thỉnh Sư vào nội điện lập đàn cầu tự ba ngày đêm. Sư cảm thán:
- Thái Công tám mươi tuổi gặp Văn Vương!
Lúc này Sư tám mươi tuổi.
Vua hỏi đạo:
- Trẫm nghe nói Lão sư học rộng nhớ nhiều, vậy xin Lão sư thuyết pháp cho trẫm nghe để trẫm được liễu ngộ.
Sư tâu:
- Xin bệ bạ chí tâm nghe cho thật hiểu bốn câu kệ này:
Phản văn tự kỷ mỗi thường quan,
Thẩm sát tư duy tử tế khan.
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức,
Tương lai diện thượng đổ sư nhan.
Dịch:
Hằng ngày quán lại chính nơi mình,
Xét nét kỹ càng chớ dễ khinh.
Trong mộng tìm chi người tri thức,
Mặt thầy sẽ thấy trên mặt mình.

Vua lại hỏi:
- Thế nào là ý Phật ý Tổ?
Sư đáp:
Nhạn quá trường không,
Ảnh trầm hàn thủy.
Nhạn vô di tích chi ý,
Thủy vô lưu ảnh chi tâm.
Dịch:
Nhạn bay trên không,
Bóng chìm đáy nước.
Nhạn không ý để dấu,
Nước không tâm lưu bóng.

Vua khen ngợi:
- Lão sư thông suốt thay.
Vua lại hỏi:
- Phật đối với chúng sanh có ân đức gì đến nỗi khiến Lão sư bỏ vua, bỏ cha mẹ, vợ con theo thờ làm Thầy?
Sư đáp:
- Phật đối với chúng sanh thì ân quá trời đất, sáng hơn mặt trời mặt trăng, đức vượt cha mẹ, nghĩa qua cả vua tôi.
Vua hỏi:
- Trời đất, mặt trời, mặt trăng có đủ công tạo hóa; cha mẹ vua tôi có đủ đức sanh thành. Vì sao nói Phật đều vượt qua những thứ này?
Sư tâu:
- Trời chỉ hay che mà chẳng hay chở, đất chỉ hay chở mà chẳng hay che, mặt trời soi ban ngày mà chẳng soi ban đêm, mặt trăng ban đêm sáng mà ban ngày tối; cha chỉ hay sanh chẳng hay dưỡng, mẹ chỉ hay dưỡng chẳng hay sanh; vua có đạo thì tôi trung, vua không đạo thì tôi nịnh, suy theo đó thì đức chẳng toàn. Đức của Phật đối với chúng sanh thì chẳng vậy. Luận về che thì khắp bốn loài sanh, luận về chở thì sáu đường đều được chở, luận về sáng thì soi sáng cả mười phương, luận về tỏ thì tỏ rực cả ba cõi, luận về từ thì vớt lên khỏi biển khổ, luận về bi thì cứu ra chỗ tối tăm, luận về Thánh thì vua trong các Thánh, luận về thần thì sáu thông tự tại. Do đó cứu khắp cả người còn kẻ mất, dẫn dắt hết kẻ quí người tiện, kính mong Bệ hạ để tâm kính ngưỡng!
Vua vui vẻ nói:
- Ân Phật như thế, ngoài Thầy ra khó ai nói rõ, trẫm xin ngay đời này kính ngưỡng.
*
Tháng sáu năm Giáp Ngọ niên hiệu Vĩnh Thịnh (1714) Sư đã tám mươi bảy tuổi.
*
Chúa Trịnh Cương (Hi Tổ) đến thăm chùa và hỏi thăm lai lịch của Sư. Sư trình bày lai lịch cớ sự trước sau, đã hưởng lộc Chúa qua ba triều. Chúa hoan hỉ cúng một ngàn quan tiền trước Phật và đề bài thơ:
Danh lam từng trải đã hay danh,
Trình độ này âu hợp chốn Trình.
Pháp giới chăm chăm tuyên diệu pháp,
Kinh lâu rờ rỡ diễn chân kinh.
Công nhiều nhờ có công vô lượng,
Thế thuận vầy nên thế hữu tình.
Ngán tục chẳng hề mùi tục lụy,
Lòng thiền tua cẩn chốn thiền quynh.
Một hôm, quan Trấn thủ Quốc lão trí sĩ Ưng quận công đến thưởng ngoạn chùa Nguyệt Đường, vịnh bài thơ:
Xuân hoa nhân vọng mộc thiều dương,
Hạ nhật giai nhân thưởng Nguyệt Đường.
Lão bá đình tiền trương thúy cái,
Nộn hà lam ngoại tiến kỳ hương.
Băng tâm trì ấn tuyên kinh dũng,
Thiết diện tuần tường vọng đạo lương.
Cơ chủng hữu tình qui bút để,
Huyền huyền vị đắc nhất thiên trường.
Dịch:
Hoa xuân người ngắm tắm thiều dương,
Ngày rảnh giai nhân thưởng Nguyệt Đường.
Bách lão trước sân giương lọng biếc,
Sen non ngoài ao dâng kỳ hương.
Tâm băng cầm ấn nói kinh mạnh,
Mặt sắt theo tường ngắm đạo lành.
Bao thứ hữu tình về ngọn bút,
Sâu mầu cảm được một thiên trường.

Quan Trấn thủ thường hay đến hỏi đạo, nhân đó Sư làm bài thơ tán:
Hướng minh qui mệnh sự quân vương,
Yết kiến tôn công khánh thọ trường.
Tài dụng kinh luân kiêm đức hạnh,
Ân thi lễ nghĩa quí văn chương.
Ngoại trừ đạo tặc binh dân ái,
Nội dưỡng trinh liêm sĩ tốt cường.
Quyền trấn Nam giao danh tứ hải,
Khuông phò quốc chánh lạc quần phương.
Dịch:
Theo về trời sáng thờ quân vương,
Gặp được ngài đây chúc thọ trường.
Tài đã kinh luân gồm đức hạnh,
Ân vừa lễ nghĩa quí văn chương.
Ngoài trừ giặc trộm dân binh mến,
Trong dưỡng liêm trinh quân sĩ cường.
Quyền trấn vùng Nam danh bốn biển,
Giúp lo trị nước vui các phương.

Sau đó, quan Quốc lão xin Sư lập đàn trai phổ độ bảy ngày đêm, mỗi ngày ông đích thân đem xe chở ba giỏ hương đến, thành tâm niêm hương dâng cúng.
Một hôm, rảnh rang trưởng quan lại mời ba vị thầy thuộc đạo Hòa Lan đồng đi đến chùa Nguyệt Đường cùng Sư đối đáp bàn luận xem thắng bại thế nào. Ba vị đó là Tài Gia, Tài Hữu, Tài Chi. Trưởng quan hỏi bên Đạo một câu, hỏi bên Thích một câu, ba vị thầy bên Đạo ba lần bặt lời không nói được, chỉ còn lại một bên Thích lời lẽ nói ra không cùng. Trưởng quan bảo:
- Đạo chẳng bằng Thích, Hòa Lan dùng lời dối trá dẫn dụ làm cho nghiêng ngả người đời, đó gọi là tà đạo chẳng thật biết nghĩa lý.
Ông lại nói thêm:
- Lời của bên Thích thông suốt chí lý, có sự có tích, pháp bảo không bờ mé, từ đây rõ biết Đạo là dối chẳng chân thật.
Ông liền quay về trình lên Chúa. Qua tám tháng quan Phụng sai đuổi người Hòa Lan về nước họ, chẳng được ở Trấn Hiến.
Lúc này Tăng chúng rất nhiều, chùa mỗi ngày thêm hưng thạnh. Một hôm trời mùa Xuân, Sư rảnh rang ngâm bài thơ:
Tam dương khai thái chuyển hồng quân,
Cửu thập thiều quang sắc sắc tân.
Dạ tĩnh thanh phong điều ngọc lộ,
Nhật tình thụy khí ái từ vân.
Sơn ca lâm thọ hi, kỳ, mỹ,
Bình địa viên hoa phức úc huân.
Xứ xứ nghinh tường ca vạn thọ,
Nhân nhân hòa lạc vịnh thiên xuân.
Dịch:
Tiết xuân thông nở chuyển muôn phương,
Ba tháng thiều quang sắc sắc xuân.
Đêm yên gió mát sa sương móc,
Ngày sáng khí lành nổi từ vân.
Trên non cây cối ôi đẹp lạ!
Dưới đất vườn hoa thơm ngát hương.
Đón lành chốn chốn ca vạn thọ,
Hòa vui kẻ kẻ vịnh ngàn xuân.

VI. Khai thỊ ngỘ nhẬp đưỢc duyên
tỐt truyỀn trao Ấn chỨNG
Một hôm Sư dạy chúng:
- Từ khi ta lên trụ chùa Nguyệt Đường, lập Thiền tịnh viện thì đệ tử ở khắp nơi theo về đông đảo để học đạo qui y, thảy đều ghi tên tất cả để rõ dấu tích.
Trong đó đệ tử Thượng túc là Hòa thượng Viên Thông tự Chân Lý Hiển Mật.
Kế là các vị:
Chân Tạng Mật Hạnh, Chân Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quản Trí, Chân Quý Phổ Ứng, Chân Truyền Quang Tán, Chân Tịch Khổ Hạnh, Chân Thành Bồ-đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ý, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Đẳng, Chân Bình, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí, Chân Bảo, Chân Thường, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân Kinh, Chân Tĩnh, Chân Quang.
Hàng chữ “Chân” này được bảy mươi vị, trên đây là tạm ghi những vị lớn tiếp nối truyền đăng.
Sau đây là hàng cháu thuộc chữ “Như”:
Thứ nhất là người tiếp nối hương hỏa, Tăng lục ty Hòa thượng Tăng thống Chánh Tông tự Như Nguyệt hiệu Hoa Quang (trụ trì chùa).
Kế là Sơn tăng Như Tông, Tăng phó Như Túc, Như Khoản, Tăng phó Như Nhật, Nội đàn Như Đài, Như Bảo, Tăng chánh Như Sơn, Tăng phó Như Thừa, Như Công, Tăng phó Như Thuyên, Hữu công Như Hiền, Như Nhẫn, Tăng thống Như Toàn, Hữu công Như Biện, Như Đề, Tăng chánh Như Viên, Như Kiên, Như Lưu, Như Mật, Tăng phó Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm… khoảng hai trăm vị, trên đây chỉ tạm ghi hai mươi bốn vị hoặc có công với chùa, hoặc có sắc mệnh.
Kế là hàng cháu chắt thuộc chữ “Tánh”.
Thứ nhất là Chánh phái Phụng thị Nội đàn Tăng thống tự Tánh Thanh, Nội đàn Tánh Liễn, Tánh Kế, Đạm hạnh Tánh Khả, Nội đàn Tánh Châu, Tánh Duệ, Tánh Thước, Tánh Tường, Tánh Mẫn, Tánh Nhu, Tánh Định, Tánh Bạch, Tánh Anh, Tánh Trác, Tánh Đức, Tánh Trí, Tánh Lãng, Tánh Tiếp, Tánh Phụng, Tăng phó Tánh Xán, Tánh Tuyên, Tăng chánh Tánh Hoàn, Tánh Không…
Hàng chữ “Hải” gồm có:
Tăng phó Hải Bồi, Hải Triều, Hải Thường, Hải Nhã, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải Liêm, Hải Trung…
Ni cô xuất gia từ nhỏ, giới hạnh tinh nghiêm khoảng ba mươi vị. Cư sĩ nam nữ cả ngàn muôn vị đều qui hướng theo Sư.
Sư thường đọc lại những bài kệ để dạy chúng:
Kệ ngộ liễu.
Bài 1
Giác không không giác, không không giác,
Giác dĩ không không không bất không.
Dục thức vô cùng hảo tiêu tức,
Đô lô chỉ tại thử hiên trung.
Dịch:
Giác không, không giác, không không giác,
Giác đã không không, không chẳng không.
Muốn biết vô cùng tin tức tốt,
Thảy đều chỉ ở trong hiên này.

Bài 2
Sư tử quật trung sư tử,
Chiên-đàn lâm lý chiên-đàn.
Nhất thân hữu lại càn khôn khoát,
Vạn sự vô ưu nhật nguyệt trường.
Dịch:
Sư tử trong hang sư tử,
Chiên-đàn trong rừng chiên-đàn.
Một thân nhờ có trời đất rộng,
Muôn việc không lo ngày tháng dài.

Bài 3
Long đắc thủy thời thiêm ý khí,
Hổ phùng sơn sắc trưởng uy nanh.
Nhân qui đại quốc phương tri quí,
Thủy đáo Tiêu Tương nhất dạng thanh.
Dịch:
Được nước rồng càng thêm ý khí,
Gặp non cọp mới trổ oai hùng.
Người về đại quốc thành cao quí,
Nước đến Tiêu Tương một sắc trong.

Bài 4
Thiên thượng hữu tinh giai cung Bắc,
Nhân gian vô thủy bất triều Đông.
Quát qui mao ư thiết ngưu bối thượng,
Tiệt thố giác ư thạch nữ yêu trung.
Dạ-xoa la-sát tài khể thủ,
Ngục tốt ngưu đầu tiện kình quyền.
Dịch:
Sao ở trên trời đều chầu Bắc,
Nước dưới nhân gian thảy về Đông.
Giữa eo gái đá cắt sừng thỏ,
Trên lưng trâu sắt nhổ lông rùa.
Dạ-xoa la-sát đầu vừa cúi,
Ngục tốt ngưu đầu giơ sẵn thoi.

Bài 5
Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức,
Nghịch hạnh thuận hạnh thiên mạc trắc.
Cách sơn nhân xướng Chá cô từ,
Thác nhận Hồ gia thập bát phách.
Dịch:
Hoặc phải hoặc quấy nào ai biết,
Nghịch hạnh thuận hạnh trời khó xét.
Cách núi người ca khúc Chá cô,
Lầm nhận kèn Hồ mười tám nhịp.

Sư thăng tòa dạy chúng:
- Có một người một đời làm lành. Có một người một đời làm dữ. Người làm lành một sớm phạm giới không cho mà lấy. Người làm dữ một niệm liễu ngộ Tự tâm. Người lành phạm giới không cho mà lấy, tức gọi là giặc. Người dữ liễu ngộ Tự tâm, tức gọi là Phật. Hai người đồng đến Vân Môn hỏi chấp nhận người nào đúng. Nếu chấp nhận người lành bỏ người dữ thì là nhận giặc mà bỏ Phật. Nhận người dữ bỏ người lành, thì là sợ ác mà khinh thiện. Nếu chấp nhận cả hai người thì Phật và giặc chẳng phân. Nếu cả hai người đều không nhận thì lành dữ chẳng rõ. Nếu quyết định chỉ Phật là người ác thì chuốc tội chê bai Phật, vào địa ngục như tên bắn. Nếu chỉ giặc là người lành thì chưa có người lành nào mà làm giặc.
Tụng:
Bài 1
Tân phụ kỵ lư a gia khiên,
Bộ bộ tương tùy bất trước tiên.
Qui đáo tận đường nhân bất thức,
Tùng kim lãn cánh xuất môn tiền.
Dịch:
Cô dâu cỡi lừa mẹ chồng dẫn,
Từng bước theo nhau chẳng cần roi.
Về đến tận nhà người chẳng biết,
Từ nay ra cửa cũng biếng lười.

Bài 2
Phu tử bất thức tự,
Đạt-ma bất hội thiền.
Huyền diệu vô ngôn ngữ([1]),
Thiết mạc vọng lưu truyền.
Dịch:
Khổng Tử không biết chữ,
Đạt-ma chẳng hội thiền.
Huyền diệu không lời nói,
Cốt đừng dối lưu truyền.

Bài 3
Tầm ngưu tu phỏng tích,
Học đạo quí vô tâm.
Tích tại ngưu hoàn tại,
Vô tâm đạo dị tầm.
Dịch:
Tìm trâu phải noi dấu,
Học đạo quí vô tâm.
Dấu còn trâu đâu mất,
Vô tâm đạo dễ tầm.

Bài 4
Sanh tùng hà xứ lai?
Tử tùng hà xứ khứ?
Tri đắc lai khứ xứ,
Phương danh học đạo nhân.
Dịch:
Sanh từ chỗ nào đến?
Chết sẽ đi về đâu?
Biết được chỗ đi đến,
Mới gọi người học đạo.
*
*   *
Một hôm Sư thảnh thơi ngâm hai bài kệ dặn dò người tại gia:
Bài 1
Thành thị du lai ngụ tự chiền,
Tùy cơ ứng hóa mỗi thời nhiên.
Song chiêu nguyệt đáo sàng thiền mật,
Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên.
Sắc ánh lâu đài minh sắc diệu,
Thanh truyền chung cổ diễn thanh huyền.
Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể,
Nhậm vận hà tằng lý hữu thiên.
Dịch:
Từ thành thị đến nghỉ chùa chiền,
Tùy cơ ứng hóa lẽ đương nhiên.
Song vời trăng đến giường thiền mát,
Gió thổi thông cười khách ngủ yên.
Lầu đài rực rỡ, màu huyền diệu,
Chuông trống vang rền, tiếng thâm uyên.
Ba giáo nguyên lai đồng một thể,
Hồn nhiên đâu có lẽ nào thiên.

Bài 2
Thượng sĩ thường du Bát-nhã lâm,
Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm.
Liêm Khê, Trình thị minh cao thức,
Tô Tử, Hàn Văn khế diệu âm.
Vạn tượng sâm la cao dị hiển,
Nhất biều tạo hóa mật nan tầm.
Nho nguyên đãng đãng đăng di khoát,
Pháp hải trùng trùng nhập chuyển thâm.
Dịch:
Thượng sĩ từng chơi cảnh tùng lâm,
Phong trần không vướng hội thiền tâm.
Liêm Khê, Trình Hiệu người thông suốt,
Tô Tử, Hàn Văn hiểu diệu âm.
Muôn ngàn cảnh vật cao dễ thấy,
Tạo hóa một bầu kín khó tầm.
Nguồn Nho thăm thẳm lên càng rộng,
Bể Thích trùng trùng xuống lại thâm.
*
*    *
Lại một hôm Sư rảnh rang dạy chúng:
- Muốn cầu thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh, chỉ vì chúng sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có làm mê chúng sanh. Ngộ được Tự tánh của mình thì chúng sanh là Phật, mê Tự tánh của mình thì Phật là chúng sanh. Giữ được Tự tánh của mình bình đẳng thì chúng sanh là Phật, để Tự tánh mình gian hiểm thì Phật là chúng sanh. Tâm ta sẵn có Phật, Phật sẵn nơi mình đó là chân Phật. Nếu Tự tâm không Phật thì tìm chân Phật nơi nào? Nên kinh nói: “Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt.” Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ-đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật. Niệm trước chấp cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh là Bồ-đề.
Tự thể của Chân tâm chẳng phải chỗ ta nói bày đến được, trong suốt như hư không không bờ mé, như tấm gương trong sạch tròn sáng, khen chê khó đến kịp, nghĩa lý khó suốt thông. Không thể lấy cái có không, nơi này chốn nọ mà xét tột được chỗ u huyền của nó. Cũng không thể lấy trí khôn và ngôn ngữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Chỉ có ai ngộ được Chân tâm thì hiểu ngay nơi mình. Ví như muôn thứ hương thơm, chỉ đốt một lò là hiểu hết mùi thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước là biết hết toàn vị của bể cả.
Chốn chân thật thâm sâu lặng lẽ, giác ngộ thì bụi trần lắng sạch Tâm thể trong ngần; dứt hết mối manh danh tướng của ngoại cảnh, sạch hết những năng sở ở trong tâm. Bởi ban đầu bất giác, bỗng khởi ra vọng động, chiếu soi lại Tự tâm, theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm trần, nên gọi là chúng sanh. Như gương hiện hình tượng, chợt có thân căn. Từ đó Chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, chấp vào tướng đuổi theo danh, chứa mãi những vọng trần ứ đọng, kết mãi những vọng thức liên miên. Đem túm bọc chân giác vào giấc mê đêm, đắm chìm mê muội trong tam giới. Làm mù lòa con mắt trí ở trong ngõ tối, khúm núm cúi lòn trong chín loài. Ở trong cõi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống chịu kiếp luân hồi. Trong pháp vô thoát, mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Như con tằm mùa xuân, làm kén tự giam mình, con thiêu thân mùa thu tự nhào vô đèn thiêu xác. Đem những sợi tơ nhị kiến buộc lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của lòng tham mù quáng toan dập tắt vòng lửa tử sanh.
Lại có những kẻ tà căn ngoại chủng, tiểu trí quyền cơ; chúng không hiểu rõ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến chấp của ngã nhân (ta người). Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng tướng tách từng mảnh bụi của từng vật thể để tìm hiểu biết. Làm như thế, tuy nói rằng nếm được mùi tĩnh lặng, thầm hợp với lý không, nhưng không biết đó là cái lối làm chôn vùi Chân tánh, trái ngược Chân giác, chẳng khác nào kẻ chẳng biện rõ sắc xanh đỏ trong mắt, chỉ lo tắt quầng sáng của ngọn đèn, không lo xét tột cùng cái huyễn thân ở trong thức, lại luống chạy trốn cái bóng rỗng dưới mặt trời. Như thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Chẳng khác nào đổ nước vào băng, ném củi vào lửa. Có biết đâu, bóng lòa hiện ra màu xanh, bóng rỗng theo nơi thân. Nếu chữa khỏi bệnh lòa ở mắt thì bóng xanh kia tự mất, diệt thân huyễn chất này thì bóng nọ không còn.
Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi mình, bỏ ngoại cảnh mà xem ở Tự tâm, thì Phật nhãn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, Pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Ta phải lấy lưỡi dao trí của tâm tự giác mà rạch lấy ra tâm châu trong những mối dây quấn chặt. Phải dùng mũi giáo tuệ chặt đứt lưới kiến chấp trong trần cảnh. Ấy chính là tông chỉ cùng tâm chân thuyên đạt thức đó vậy.
Sư lại nói:
- Trí hay chiếu vốn không, cảnh bị duyên cũng lặng. Lặng mà không phải lặng, bởi không có người hay lặng. Soi mà không soi, bởi không có cảnh bị soi. Cảnh và trí đều lặng, tâm lo nghĩ an nhiên, đây chính là con đường cốt yếu trở về nguồn.
Lại nói:
- Lặng lặng sanh vô ký, tỉnh tỉnh sanh loạn tưởng. Lặng lặng dù hay trị loạn tưởng mà trở lại sanh vô ký. Tỉnh tỉnh dù hay trị vô ký mà trở lại sanh loạn tưởng. Vì vậy nói: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, vô ký lặng lặng sai. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.”
Sư lại nói:
- Người phàm phần nhiều ở nơi sự làm ngại lý, nơi cảnh làm ngại tâm, nên thường muốn trốn cảnh để an tâm, bỏ sự để giữ lý. Song chẳng biết, chính tâm ấy làm ngại cảnh, lý làm ngại sự. Chỉ cần tâm không thì cảnh tự không, lý lặng thì sự tự lặng, chợt liền trở ngược lại Tự tâm.
Vọng thân đem đến gương soi bóng, bóng chẳng khác với vọng thân. Chỉ muốn bỏ bóng ghét vọng, có biết đâu thân cũng vốn hư dối, thân nào khác với bóng mà muốn một có, một không?
Nếu muốn lấy một, bỏ một hằng cùng chân lý cách xa. Lại mến Thánh ghét phàm thì nổi chìm trong biển sanh tử.
Phiền não nhân tâm cố hữu,
Vô tâm phiền não hà cư,
Bất lao phân biệt thủ tướng,
Tự nhiên đắc đạo tu du.
Dịch:
Phiền não do tâm nên có,
Tâm không phiền não ở đâu?
Chẳng nhọc phân biệt lấy tướng,
Tự nhiên được đạo chóng mau.

Sư lại nói:
Thức đắc y trung bảo,
Vô minh túy tự tỉnh.
Bách hài tuy hội tán,
Nhất vật trấn trường linh.
Tri cảnh hồn phi thể,
Thần châu bất định hình.
Ngộ tắc tam thân Phật,
Mê si vạn quyển kinh.
Tại tâm tâm khả trắc,
Lịch nhĩ nhĩ nan thinh.
Võng tượng tiên thiên địa,
Huyền tuyền xuất yểu minh.
Bản cương phi đoàn luyện,
Nguyên tịnh mạc trừng đình.
Bàn bạc luân triêu nhật,
Linh lung ánh hiểu tinh.
Thụy quang lưu bất diệt,
Chân khí xúc hoàn sanh.
Giám chiếu không động tịch,
La lung pháp giới minh.
Giải ngữ phi quan thiệt,
Năng ngôn bất thị thanh.
Tuyệt biên nhị ô mạn,
Vô tế đẳng không bình.
Kiến nguyệt phi quan chỉ,
Hoàn gia mạc vấn trình.
Thức tâm tâm tắc Phật,
Hà Phật cánh kham thành.
Dịch:
Biết được báu trong áo,
Vô minh say tự tỉnh.
Trăm hài dù tan rã,
Một vật vững sáng luôn.
Biết cảnh chẳng phải thể,
Châu thần chẳng định hình.
Ngộ ắt ba thân Phật,
Si mê muôn quyển kinh.
Ở tâm tâm lường được,
Qua tai tai khó nghe.
Không hình trước trời đất,
Suối huyền vượt tối tăm.
Cứng sẵn không nung luyện,
Vốn sạch chớ lóng yên.
Mênh mông vầng nhật sớm.
Lấp lánh ánh sao mai.
Sáng lành sáng sáng mãi,
Chân khí chạm lại sanh.
Chiếu soi không động lặng,
Che trùm pháp giới minh.
Hiểu lời nào dính lưỡi?
Hay nói chẳng phải thanh.
Tuyệt bờ dừng nhơ nhiễm,
Không mé đồng hư không.
Thấy trăng thôi xem ngón,
Đến nhà chớ hỏi đường.
Biết tâm tâm ắt Phật,
Còn Phật nào để thành?

Pháp thân không hình tướng, chẳng thể đem âm thanh cầu. Diệu đạo không lời nói, chẳng thể dùng văn tự hội. Dẫu cho vượt lên Phật Tổ, vẫn rơi vào thềm bậc. Mặc dù nói diệu bàn huyền, cuối cùng cũng dính trên môi lưỡi. Phải là, chẳng phạm công huân, chẳng để dấu vết, như cây khô, gộp đá lạnh, trọn không chút tươi nhuận. Như người huyễn, ngựa gỗ đều không tình thức. Được như thế, mới hay buông tay vào chợ, chuyển thân đi trong dị loại. Cũng chẳng nói:
Trong cõi vô lậu giữ chẳng dừng,
Lại đến trũng sương nằm cát lạnh.

(Vô lậu quốc trung lưu bất trụ,
Khước lai yên ổ ngọa hàn sa.)
Nếu dùng cái biết mà biết lặng, đây chẳng phải là cái biết không duyên. Như tay cầm hạt châu Như ý, chẳng phải không có cái tay và châu Như ý. Nếu dùng tự biết mà biết, cũng chẳng phải cái biết không duyên. Như tay tự nắm lại, chẳng phải không có cái tay nắm. Cũng chẳng biết cái lặng lặng, cũng chẳng biết cái biết biết, song không thể cho là không biết. Vì Tự tánh tỏ rõ nên chẳng đồng với cây đá. Tay chẳng cầm hạt Như ý, cũng chẳng tự nắm lại, chẳng thể cho là không có tay. Do cái tay vốn sẵn như vậy nên chẳng đồng với sừng thỏ. Mé trước không phiền não đáng trừ, mé giữa không Tự tánh đáng giữ, mé sau không Phật đáng thành. Đó là dứt bặt cả ba mé, ba nghiệp được mát mẻ.
Ta vừa mống tâm đã thuộc về quá khứ rồi. Tâm ta chưa mống bèn gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai, tức là tâm quá khứ, vậy tâm hiện tại ở chỗ nào? Người học rõ biết một niệm vừa dấy lên trọn không thật có, đó là Phật quá khứ. Quá khứ chẳng có, vị lai chẳng không, đó là Phật vị lai. Ngay đây niệm niệm chẳng dừng, đó là Phật hiện tại. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Đây chính là cửa phương tiện tột ban đầu.
Khi mặt trời lên thì sáng khắp thiên hạ mà hư không chưa từng sáng. Khi mặt trời lặn thì tối khắp thiên hạ mà hư không chưa từng tối. Hai cảnh tối và sáng tự lấn đoạt lẫn nhau, tánh hư không thì rỗng rang tự sẵn như vậy. Tâm Phật và chúng sanh cũng như thế. Nếu xem Phật là tướng thanh tịnh sáng rỡ, xem chúng sanh là tướng nhơ đục tối tăm, dù trải qua số kiếp như cát sông Hằng trọn chẳng được Bồ-đề.
Lại ba đời chư Phật trọn ở trong thân chính mình. Nhân bị tập khí che mờ, cảnh vật chuyển lôi liền tự mê mất. Nếu ở nơi tâm mà vô tâm, chính là Phật quá khứ. Lặng lẽ chẳng động, chính là Phật vị lai. Tùy cơ ứng vật, chính là Phật hiện tại. Thanh tịnh không nhiễm, chính là Phật ly cấu. Ra vào không ngại, chính là Phật thần thông. Đến đâu đều thảnh thơi là Phật tự tại. Một tâm chẳng mê mờ, là Phật quang minh. Đạo niệm bền vững là Phật bất hoại. Biến hóa ra nhiều nơi song chỉ một chân thật vậy thôi.
Diễn-nhã-đạt-đa chấp bóng quên đầu, đâu khỏi ôm đầu chạy đi tìm đầu. Chính ngay khi mê đó, cái đầu vẫn chẳng mất, đến khi tỉnh rồi cũng chẳng có được. Tại sao? Kẻ mê cho là mất, người ngộ cho là được. Được mất ở nơi người, đâu dính dáng gì với động tịnh.
Sư lại nói:
- Chí đạo gốc ở tâm, tâm pháp gốc ở vô trụ. Tâm thể vô trụ đó, tánh tướng đều lặng lẽ, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt, tìm nó thì chẳng được, bỏ đi cũng chẳng rời. Mê hiện lượng thì hoặc và khổ lăng xăng. Ngộ Chân tánh thì rỗng rang tỏ suốt. Tuy tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, song chỉ có người chứng mới biết.
Song còn chấp có chứng, có biết thì mặt trời trí tuệ rơi vào đất có. Nếu tâm mờ mịt không chiếu, không sáng thì đám mây hôn trầm che lấp ở cửa không. Chỉ có tâm không sanh một niệm thì không còn ngăn cách trước sau, Chân tánh chiếu thể đứng riêng thì ta người nào khác. Nhưng mê đối với ngộ, ngộ trông vào mê, vọng đối với chân, chân nương nơi vọng. Nếu ta cầu chân mà bỏ vọng như người chạy trốn bóng luống nhọc mình. Nếu ta nhận chân chính nơi vọng, như người vào chỗ mát thì bóng mất. Nếu tâm không vọng chiếu thì vọng lự tự hết. Nếu mặc tình lặng biết thì các thiện hạnh được phát khởi. Thế nên cái ngộ tịch mà không tịch, cái chân tri dường như vô tri. Do một tâm không phân chia tịch và tri, khế hợp với lẽ huyền diệu dung thông cả có và không, không chấp, không mắc, không nhiếp, không thu, phải quấy đều quên, năng sở cũng dứt. Cái dứt ấy cũng bặt luôn thì Bát-nhã hiện tiền, mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật; chốn chốn đều thành đạo, không một hạt bụi nào chẳng phải cõi Phật.
Thế nên chân với vọng, vật với ngã, đều do ở một tâm ta. Phật với chúng sanh cũng đều chung nhau một tâm ấy. Nếu mê thì người theo sự vật, sự vật thì vô vàn nên người chẳng giống nhau. Nếu ngộ thì sự vật theo người, người đem một trí mà dung hòa muôn cảnh. Đến đây thì hết chỗ nói năng, bặt đường tư tưởng còn gì mà nói nhân trước quả sau? Tâm thể rỗng lặng, còn gì là người này giống, kẻ kia khác. Chỉ còn một tâm trong sáng, tăng giảm chan hòa. Như tấm gương sáng tuy không có hoa mà bóng hoa hiện, gương vẫn vô tâm; tuy thấy ảnh tượng chiếu trong gương, mà ảnh tượng vẫn hằng không.
Hơn nữa, đạo thì luận nói cũng chẳng được, im lặng cũng chẳng được; dù cho quên cả hai nói và im cũng không dính dáng. Tại sao? Quang minh của bậc Cổ Phật, phong thái của hàng Tiên đức, mỗi mỗi đều từ trong chỗ không muốn, không nương mà được phát hiện. Hoặc có khi cao vút vòi vọi trọn không thể nhổ lên, hoặc có khi bao trùm hòa lẫn trọn không chỗ thấy. Cuối cùng chẳng cố định một chỗ, cũng chẳng dính mắc ở hai đầu, không phải mà không gì chẳng phải, không quấy mà không gì chẳng quấy, được cũng không chỗ được, mất cũng không chỗ mất, chẳng từng cách xa một mảy tơ, chẳng từng dời đổi một sợi tóc, sáng ngời lối xưa, chẳng thuộc nhiệm mầu sâu kín (huyền vi), ngay trước mặt đem lại, chợt đó liền qua, chẳng ở nơi chánh vị, đâu rơi vào lối tà, chẳng đi nơi thênh thang, đâu đạp vào lối nhỏ, xoay đầu chẳng gặp, chạm mắt lại không đối trước, một niệm xem khắp, thênh thang rỗng lặng. Một chút tông yếu này, ngàn Thánh chẳng truyền, thẳng đó rõ biết, ngay đây vượt lên. Mới biết, chỗ sạch trọi trơn thế ấy tức dễ, chỗ sáng rỡ rõ ràng thế ấy tức khó. Nếu là việc bổn phận thì tay chân buông đi mà không cái gì thu chẳng đến, mỗi mỗi phóng ánh sáng hiện tướng lành, mỗi mỗi dứt bặt dấu vết, trên cơ trọn chẳng dừng, trong lời không thể bày, tột đáy khuấy chẳng đục, toàn thân đập chẳng nát, rốt ráo là cái gì được tinh thông thế ấy, được kỳ đặc thế ấy?
Này các ngài! Chẳng cần biết mặt mũi y, chẳng cần đặt tên cho y, cũng chớ tìm chỗ nơi của y. Tại sao? Vì y không chỗ nơi, y không tên tuổi, không mặt mũi, ta vừa dấy niệm đuổi tìm liền cách mười đời, năm đời.
Chi bằng buông đi tự do, cần bước liền bước, cần dừng liền dừng, tức thiên nhiên mà chẳng phải thiên nhiên, tức như như mà chẳng phải như như, tức trong lặng mà chẳng phải trong lặng, tức bại hoại mà chẳng phải bại hoại, không thích sống không sợ chết, không cầu Phật, không sợ ma, chẳng cùng hợp với Bồ-đề, chẳng đồng chung với phiền não, chẳng nhận một pháp, chẳng ghét một pháp, không ở đâu mà ở tất cả, chẳng phải lìa mà chẳng phải chẳng lìa. Nếu ai hay thấy được như thế thì Thích-ca tự Thích-ca, Đạt-ma tự Đạt-ma.
Sư lại nói:
- Tám mươi bốn ngàn pháp môn Ba-la-mật, mỗi môn luôn mở ra các đức Phật nhiều như bụi nhỏ trong cõi Tam thiên Đại thiên. Mỗi đức Phật nói pháp đều chẳng nói có, chẳng nói không, chẳng nói không phải có không phải không, chẳng nói cũng có cũng không. Sao vậy?
Ly tứ cú tuyệt bách phi,
Tương phùng cử mục thiểu nhân tri.
Tạc nhật sương phong lậu tiêu tức,
Mai hoa y cựu xuyết hàn chi.
Dịch:
Lìa bốn câu bặt trăm quấy,
Gặp nhau nhướng mắt mấy ai hay.
Hôm qua sương gió thông tin tức,
Cành đông như cũ điểm hoa cười.
*
*    *
Rảnh rang Sư thường ngâm lại những bài kệ dạy chúng:
Bài 1
Nhất thiết vô tâm Tự tánh Giới,
Nhất thiết vô ngại Tự tánh Tuệ.
Bất tăng bất giảm tự Kim cang,
Thân khứ thân lai bản Tam-muội.
Dịch:
Tất cả không tâm Tự tánh Giới,
Tất cả không ngại Tự tánh Tuệ.
Chẳng thêm chẳng bớt tự Kim cang,
Thân đi thân lại gốc Tam-muội.

Bài 2
Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến,
Đại tự phù vân giá nhật diện.
Bất tri nhất pháp thủ không tri,
Hoàn như thái hư sanh thiểm điện.
Thử chi tri kiến miết nhiên hưng,
Thác nhận hà tằng giải phương tiện.
Nhữ đương nhất niệm tự tri phi,
Tự kỷ linh quang thường hiển hiện.
Dịch:
Chẳng thấy một pháp còn thấy không,
Giống in mây nổi che mặt nhật.
Chẳng biết một pháp giữ biết không,
Lại như hư không sanh điện chớp.
Cái thấy biết này chợt dấy lên,
Lầm nhận đâu từng rõ phương tiện.
Ông nên một niệm tự biết lỗi,
Tự kỷ linh quang luôn hiển hiện.

Bài 3
Kiến văn tri giác vô chướng ngại,
Thanh hương vị xúc thường tam-muội.
Như điểu không trung chỉ ma phi,
Vô thủ vô xả vô tắng ái.
Nhược hội ứng xứ bản vô tâm,
Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại.
Dịch:
Thấy nghe hiểu biết không ngăn ngại,
Thanh hương vị xúc thường tam-muội.
Như chim trong không chỉ thế bay,
Không lấy, không bỏ, không yêu ghét.
Nếu rõ chỗ hiện vốn không tâm,
Mới được gọi là Quán Tự Tại.

Bài 4
Cô viên khiếu lạc trung nham nguyệt,
Dã khách ngâm tàn bán dạ đăng.
Thử cảnh thử thời thùy hội đắc,
Bạch vân thâm xứ tọa Thiền tăng.
Dịch:
Vượn lẻ hú rơi trăng lưng núi,
Khách quê ngâm lụn ngọn đèn khuya.
Cảnh đấy người đây ai biết được.
Thiền tăng ngồi lặng núi sâu kìa.

Bài 5
Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân,
Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân.
Vô minh Thật tánh tức Phật tánh,
Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.
Pháp thân giác liễu vô nhất vật,
Bản nguyên Tự tánh thiên chân Phật.
Ngũ ấm phù vân không khứ lai,
Tam độc thủy bào hư xuất một.
Dịch:
Dứt học không làm, đạo nhân nhàn,
Chẳng trừ vọng tưởng chẳng cầu chân.
Thật tánh vô minh tức Phật tánh,
Thân không, huyễn hóa tức Pháp thân.
Pháp thân giác rồi không một vật,
Cội nguồn Tự tánh thiên chân Phật.
Năm ấm mây trôi luống lại qua,
Ba độc bọt nổi dối chìm mất.

Bài 6
Ngộ tâm dung dị tức tâm nan,
Tức đắc tâm nguyên đáo xứ nhàn.
Đẩu chuyển tinh di thiên dục hiểu,
Bạch vân y cựu phú thanh san.
Dịch:
Ngộ tâm là dễ, khó dừng tâm,
Dừng được nguồn tâm mọi chốn nhàn.
Sao Đẩu chuyển dời trời sắp sáng,
Như xưa mây trắng che núi xanh.

Bài 7
Ngu nhân trừ cảnh bất trừ tâm,
Trí giả trừ tâm bất trừ cảnh.
Bất tri tâm cảnh bản như như,
Xúc mục ngộ duyên thường trấn định.
Dịch:
Kẻ ngu trừ cảnh chẳng trừ tâm,
Người trí trừ tâm chẳng trừ cảnh.
Đâu biết tâm cảnh vốn như như,
Chạm mắt gặp duyên luôn vững định.

Bài 8
Nhất diệp biển chu phiếm diểu mang,
Trình nhiêu vũ trạo biệt cung thương.
Vân sơn thủy nguyệt đô phao khước,
Doanh đắc Trang Chu nhất mộng trường.
Dịch:
Một chiếc thuyền con vượt bể khơi,
Quẫy chèo múa nhịp hát ca chơi.
Núi mây trăng nước đều ném quách,
Giành được Trang Chu giấc mộng dài.

Bài 9
Nam đài tĩnh tọa nhất lô hương,
Chung nhật ngưng nhiên vạn lự vong.
Bất thị tức tâm trừ vọng tưởng,
Đô duyên vô sự khả tư lương.
Dịch:
Đài nam tĩnh tọa một lò hương,
Lặng lẽ suốt ngày niệm lự không.
Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng,
Chỉ vì không việc đáng lo lường.

Bài 10
Sấu trúc trường tùng trích thúy hương,
Lưu phong sơ nguyệt độ vi lương.
Bất tri thùy trụ Nguyên Tây tự,
Mỗi nhật chung thanh tống tịch dương.
Dịch:
Tre gầy thông cỗi nhỏ giọt hương,
Gió lướt trăng lên chút lạnh lùng.
Nguyên Tây chùa ấy ai ở đó?
Chiều chiều chuông đánh tiễn tịch dương.

Bài 11
Trụ mộng na tri mộng thị hư,
Giác lai phương giác mộng trung vô.
Mê thời kháp đắc mộng trung sự,
Ngộ hậu hoàn đồng thùy khởi phu.
Dịch:
Trong mộng đâu hay mộng dối hư,
Tỉnh rồi mới biết có gì ư?
Khi mê hợp với việc trong mộng,
Đã ngộ lại đồng ngủ dậy chừ!

Bài 12
Khô mộc nham tiền sai lộ đa,
Hành nhân đáo thử tận tha đà.
Lộ tư lập tuyết phi đồng sắc,
Minh nguyệt lô hoa bất tự tha.
Liễu liễu liễu thời vô sở liễu,
Huyền huyền huyền xứ diệc tu ha.
Ân cần vị xướng huyền trung khúc,
Không lý thiềm quang yết đắc ma?
Dịch:
Cây khô trước núi dễ lạc đàng,
Người đi đến đó thảy mơ màng.
Tuyết trong cò trắng đâu cùng sắc,
Trăng sáng hoa lau màu chẳng đồng.
Liễu liễu, khi liễu không chỗ liễu,
Huyền huyền, chỗ huyền cũng phải buông.
Ân cần hát khúc trong huyền ấy,
Ánh trăng giữa trời nắm được không?

Bài 13
Nhàn tọa yến nhiên thánh mạc tri,
Túng ngôn vô vật tỉ phương y.
Thạch nhân bã bảng vân trung phách,
Mộc nữ hàm sanh thủy để xuy.
Nhược đạo bất văn cừ vị hiểu,
Dục tầm kỳ hưởng nhĩ hoàn nghi.
Giáo quân xướng họa nhưng tu họa,
Hưu vấn cung thương trúc dữ ti.
Dịch:
Thảnh thơi ngồi lặng Thánh biết chi,
Dẫu rằng không vật so sánh y.
Trong mây người đá cầm phách gõ,
Đáy nước nàng gỗ miệng thổi sênh.
Nếu bảo chẳng nghe, y chưa hiểu,
Muốn tìm vang đó, anh lại nghi.
Cho anh xướng họa thì cứ họa,
Chớ hỏi cung, thương, trúc với ti.

Bài 14
Vũ tẩy đạm hồng đào ngạc nộn,
Phong xuy thiển bích liễu ti khinh.
Bạch vân ảnh lý quái thạch lộ,
Lục thủy quang trung cổ mộc thanh.
Dịch:
Mưa rửa nhạt đào hồng nhụ mởn,
Gió đùa bớt biếc liễu tơ bay.
Dưới bóng mây trắng đá lạ hiện,
Trong ánh nước trong cây xưa xanh.

Bài 15
Nhất dước dước phiên tứ đại hải,
Nhất quyền quyền đảo Tu-di sơn.
Phật Tổ vị trung lưu bất trụ,
Hựu xuy ngư địch bạc La Loan.
Dịch:
Một nhảy nhảy khỏi bốn bể cả,
Một đấm đấm nhào núi Tu-di.
Trong ngôi Phật Tổ mời chẳng ở,
Lại thổi sáo chài thẳng La Loan([2]).

Bài 16
Hảo sự đôi đôi điệp điệp lai,
Bất tu tạo tác dữ an bài.
Lạc lâm hoàng diệp thủy suy khứ,
Hoành cốc bạch vân phong quyển hồi.
Hàn nhạn nhất thanh tình niệm đoạn,
Sương chung tài động ngã sơn thôi.
Bạch Dương cánh hữu quá nhân xứ,
Tận dạ hàn lô bát nguyên khôi.
Dịch:
Việc đến dập dồn cũng tốt luôn,
Chẳng cần sắp đặt với lo toan.
Gió cuốn mây tan bày cửa động,
Nước trôi lá rụng sạch vườn rừng.
Chuông sương vừa dộng núi “ngã” sập,
Nhạn lạnh kêu lên tình niệm ngưng.
Bạch Dương lại có người qua đấy,
Đêm trọn lò tàn bới tro hừng.

Bài 17
Liễu vọng qui chân vạn lụy không,
Hà sa phàm Thánh bản lai đồng.
Mê lai tận thị nga đầu diệm,
Ngộ khứ phương tri hạc khứ lung.
Phiến nguyệt ảnh phân thiên giản thủy,
Cô tùng thanh nhậm tứ thời phong.
Trực tu mật khế tâm tâm địa,
Thủy ngộ sanh bình thùy mộng trung.
Dịch:
Bỏ vọng về chân muôn lụy không,
Thánh phàm ức triệu xưa nay đồng.
Mê đi cả thảy ngài([3]) vào lửa,
Ngộ lại mới hay hạc xổ lồng.
Một mảnh bóng trăng phân ngàn suối,
Thông côi reo mãi bốn mùa rung.
Cần phải thầm thông tâm địa ấn,
Mới ngộ bình sanh một giấc nồng.

Bài 18
Tâm pháp song vong du cách vọng,
Sắc trần bất nhị thượng dư trần.
Bách điểu bất lai xuân hựu quá,
Bất tri thùy thị trụ am nhân.
Dịch:
Tâm, pháp đều quên còn cách vọng,
Sắc, trần như một vẫn thừa trần.
Trăm chim chẳng đến Xuân cứ đến,
Nào biết ai là người trụ am?

Bài 19
Tàng thân vô tích cánh vô tàng,
Thoát thể vô y tiện xí đương.
Cổ cảnh bất ma hoàn tự chiếu,
Đạm yên hòa vụ thấp thu quang.
Dịch:
Tàng thân không dấu lại không tàng,
Thoát thể không nương liền đảm đang.
Gương xưa tự chiếu lau chùi khỏi,
Khói nhạt sương mờ nhuận thu quang.

Bài 20
Quang minh tịch chiếu biến hà sa,
Phàm Thánh hàm linh cọng ngã([4]) gia.
Nhất niệm bất sanh toàn thể hiện,
Lục căn tài động bị vân già.
Đoạn trừ phiền não trùng tăng bệnh,
Thú hướng Chân như tổng thị tà.
Tùy thuận chúng duyên vô quái ngại,
Niết-bàn sanh tử đẳng([5]) không hoa.
Dịch:
Quang minh tịch chiếu khắp hà sa,
Phàm Thánh, hàm linh chung nhà ta.
Một niệm chẳng sanh toàn thể hiện,
Sáu căn vừa động bị mây lòa.
Dứt trừ phiền não càng thêm bệnh,
Hướng đến Chân như cũng là tà.
Tùy thuận các duyên không chướng ngại,
Niết-bàn, sanh tử thảy không hoa.

Bài 21
Cảnh duyên vô hảo xú,
Hảo xú khởi ư tâm.
Tâm nhược bất cưỡng danh,
Vọng tình hà xứ khởi.
Dịch:
Cảnh duyên không tốt xấu,
Tốt xấu dấy nơi tâm.
Nếu tâm chẳng gượng đặt, (tên)
Vọng tình từ đâu sanh!

Bài 22
Vọng tình ký bất khởi,
Chân tâm nhậm biến tri.
Niệm tưởng do lai huyễn,
Chân tánh vô chung thủy.
Nhược đắc thử trung ý,
Trường ba đương tự chỉ.
Dịch:
Vọng tình đã chẳng sanh,
Chân tâm mặc biết khắp.
Niệm tưởng xưa nay huyễn,
Chân tánh không thủy chung.
Nếu đạt ý trong ấy,
Sóng dài sẽ tự dừng.

Bài 23
Kiến đạo phương tu đạo,
Bất kiến phục hà tu?
Đạo tánh như hư không,
Hư không hà sở hữu?
Biến quán tu đạo giả,
Bát hỏa mích phù âu.
Đản khán lộng ổi lỗi,
Tuyến đoạn nhất tề hưu.
Dịch:
Thấy đạo mới tu đạo,
Không thấy lấy gì tu?
Tánh đạo như hư không,
Hư không tu chỗ nào?
Khắp xem người tu đạo,
Vạch lửa tìm bọt trôi.
Chỉ xem người gỗ máy.
Đứt dây một loạt dừng.

Bài 24
Suy chân chân vô tướng,
Cùng vọng vọng vô hình.
Phản quán suy cùng tâm,
Tri tâm diệc giả danh.
Dịch:
Xét chân, chân không tướng,
Tìm vọng, vọng không hình.
Quán lại tâm tìm xét,
Biết tâm cũng giả danh.

Bài 25
Thiện ký tùng tâm sanh,
Ác khởi ly tâm hữu?
Thiện ác thị ngoại duyên,
Ư tâm thật bất hữu.
Xả ác tống hà xứ?
Thủ thiện linh thùy thủ?
Thương ta nhị kiến nhân,
Phan duyên lưỡng đầu tẩu.
Nhược ngộ bản vô tâm,
Thủy hối tùng tiền cửu.
Dịch:
Thiện đã từ tâm sanh,
Ác đâu rời tâm có?
Thiện ác là duyên ngoài,
Nơi tâm thật chẳng có.
Bỏ ác đẩy chỗ nào?
Lấy thiện bảo ai giữ?
Than ôi! Người thấy hai,
Bám víu hai đầu chạy.
Nếu ngộ vốn không tâm,
Mới hối lỗi từ trước.

Bài 26
Hữu vật tiên thiên địa,
Vô hình bản tịch liêu.
Năng vi vạn tượng chủ,
Bất trục tứ thời điêu.
Dịch:
Có vật trước trời đất,
Không hình vốn lặng yên.
Hay làm chủ muôn vật,
Chẳng theo bốn mùa tàn.

Bài 27
Không thủ bả sừ đầu,
Bộ hành kỵ thủy ngưu.
Nhân tùng kiều thượng quá,
Kiều lưu thủy bất lưu.
Dịch:
Tay không cầm cán cuốc,
Đi bộ ngồi lưng trâu.
Người đi qua trên cầu,
Cầu trôi nước chẳng trôi.

Bài 28
Dạ dạ bão Phật miên,
Triêu triêu hoàn cọng khởi.
Khởi tọa trấn tương tùy,
Ngữ mặc đồng cư chỉ.
Tiêm hào bất tương ly,
Như hình ảnh tương tự.
Dục thức Phật khứ xứ,
Chỉ giá ngữ thanh thị.
Dịch:
Đêm đêm ôm Phật ngủ,
Ngày ngày cùng Phật dậy.
Ngồi đứng mãi theo nhau,
Nói nín đồng chung ở.
Mảy may không tách rời,
Như hình cùng với bóng.
Muốn biết chỗ Phật đi,
Chỉ cái nói năng ấy!

Bài 29
Nhãn quang tùy sắc tận,
Nhĩ thức trục thanh tiêu.
Hoàn nguyên vô biệt chỉ,
Tạc nhật dữ kim triêu.
Dịch:
Nhãn quang theo sắc hết,
Nhĩ thức tùy tiếng tiêu.
Về nguồn không ý khác,
Hôm qua với sáng nay.

Bài 30
Phiến nguyệt xâm hàn đàm,
Vi vân ánh bích không.
Nhược ư đạt đạo nhân,
Hảo cá chân tiêu tức.
Dịch:
Mảnh trăng ngâm đầm lạnh,
Mây mỏng ánh trời xanh.
Nếu với người đạt đạo,
Đấy là tin tức thật.

Bài 31
Kiến vật tiện kiến tâm,
Vô vật tâm bất hiện.
Thập phần thông tắc trung,
Chân tâm vô bất biến.
Nhược sanh tri thức giải,
Khước thành điên đảo kiến.
Đổ cảnh năng vô tâm,
Thủy kiến Bồ-đề diện.
Dịch:
Thấy vật liền thấy tâm,
Không vật tâm chẳng hiện.
Mười phần trong bít thông,
Chân tâm thảy biến khắp.
Nếu sanh tình thức hiểu,
Lại thành thấy điên đảo.
Đối cảnh hay không tâm,
Mới giáp mặt Bồ-đề.

Bài 32
Phật vị vô tâm ngộ,
Tâm nhân hữu Phật mê.
Phật tâm thanh tịnh xứ,
Vân ngoại dã viên đề.
Phong động tâm diêu thọ,
Vân sanh tánh khởi trần.
Nhược minh kim nhật sự,
Muội khước bản lai nhân.
Dịch:
Phật do không tâm ngộ,
Tâm nhân có Phật mê.
Chỗ Phật tâm thanh tịnh,
Vượn hoang hú ngàn mây.
Gió động tâm lay cây,
Mây sanh tánh dấy bụi.
Nếu sáng việc hiện tại,
Quên mất người xưa nay.

Bài 33
Ngại xứ phi tường bích,
Thông xứ một hư không.
Nhược nhân như thị giải,
Tâm sắc bản lai đồng.
Dịch:
Chỗ ngại chẳng tường vách,
Chỗ thông đâu hư không.
Nếu người rõ như thế,
Tâm sắc xưa nay đồng.

Bài 34
Mỹ ngọc tàng ngoan thạch,
Liên hoa xuất ứ nê.
Tu tri phiền não xứ,
Ngộ tức thị Bồ-đề.
Dịch:
Ngọc đẹp ẩn đá cứng,
Hoa sen mọc bùn lầy.
Nên biết ngay phiền não,
Ngộ tức đó Bồ-đề.

Bài 35
Nhật dụng vô phi đạo,
Tâm an tức thị thiền.
U thê vân hác để,
Mộng mị tuyết bồng biên.
Dịch:
Đạo tức hằng ngày dụng,
Tâm an đó là thiền.
Dừng nghỉ đáy hang mây,
Nằm mơ bên lều tuyết.

Bài 36
Cảnh lập tâm tiện hữu,
Tâm vô cảnh bất sanh.
Cảnh hư tâm tịch tịch,
Tâm chiếu cảnh linh linh.
Dịch:
Cảnh lập tâm liền có,
Tâm không cảnh chẳng sanh.
Cảnh hư tâm lặng lẽ,
Tâm chiếu cảnh vắng im.

Bài 37
Y pháp bất y nhân,
Y nghĩa bất y ngữ.
Y trí bất y thức,
Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa kinh([6]).
Dịch:
Y pháp chẳng y nhân,
Y nghĩa chẳng y ngữ.
Y trí chẳng y thức,
Y kinh liễu nghĩa chẳng y kinh bất liễu nghĩa.

Bài 38
Nhất đóa hàm đán liên,
Lưỡng chu thanh sấu bách.
Trường hướng tăng gia đình,
Hà lao vấn cao cách.
Dịch:
Một đóa hoa sen búp,
Hai gốc bách xanh gầy.
Luôn hướng trước nhà tăng,
Nhọc chi hỏi cao cách.
*
Một hôm quan Trấn thủ đến chùa Nguyệt Đường vịnh bài thơ:
Lục trầm thùy thức ngụ thao tàng,
Kim Nguyệt Đường phi tích Nguyệt Đường.
Tùng lão cao đê trương thúy cái,
Hà tiên thứ đệ tiến kỳ hương.
Thiền trai túc ấn trì băng ngọc,
Khách xá tân tiêu dẫn phụng hoàng.
Yêu phước bất tu sùng huyễn huyễn,
Giác lai nhất niệm thị Y vương.
Dịch:
Đất sâu ai biết chứa kho tàng,
Nguyệt Đường nay khác Nguyệt Đường xưa.
Tùng lão thấp cao giương lọng biếc,
Sen tiên thứ lớp hương lạ dâng.
Luật thiền ấn nghiêm gìn băng ngọc,
Nhà khách sáo hay dẫn phụng hoàng.
Cầu phước cần gì sùng mọi huyễn,
Giác thì một niệm đó Y vương.

Một hôm, Sư hỏi môn nhân:
 - Thế nào là mặt thật xưa nay?
Đại chúng đáp:
Đầy mắt núi xanh không tấc cỏ,
Tột nhìn nước biếc bặt sóng mòi.

(Mãn mục thanh sơn vô thốn thảo,
Cực mục lục thủy tuyệt ba lang.)
Sư lại hỏi:
- Thế nào là Pháp thân chính mình?
Đại chúng đáp:
- Năm uẩn không pháp, thể trùm sa giới.
VII. SƯ TÁM MƯƠI TÁM TUỔI DẶN DÒ NiẾt-bàn
Sư dạy chúng:
- Đầu xuân Ất Mùi năm nay báo cho Thượng tọa rằng, nay tôi khí lực đã yếu kém, thường tắm gội khó khăn, bệnh hoạn suy yếu, thời đã đến rồi, chẳng còn ở lâu!
Vị Thượng tọa bạch Sư:
- Phật pháp vi diệu có gì thiết yếu mong Thầy truyền trao cho lý tột.
Sư bảo:
- Đạo giáo từ xưa đến nay đã trao phó là bặt ngôn từ, không lời để nói, chính ta ngay lúc đó phó thác.
Thượng tọa lại hỏi:
- Đại chúng ứng dụng thế nào?
Sư đáp:
- Lấy tâm mà dùng.
Đến giờ Dậu ngày mùng mười tháng năm môn nhân trong chùa chợt thấy sao sáng xuất hiện, tỏa sáng soi suốt cả chùa, mới biết việc đó.
Qua buổi sáng ngày mười hai, Sư bảo Thị giả:
- Hãy đem nước đến nhà tắm, ta sẽ tắm rửa.
Tắm xong, Sư trở về phòng bảo vị Thượng tọa:
- Ta đến lúc mạng chung, hãy báo khắp cho đại chúng!
Thượng tọa đem pháp phục ca-sa cho Sư đắp vào, đội mũ Chuẩn-đề, đeo xâu chuỗi ngồi kiết-già an định hai giờ, rồi phó chúc bài kệ:
Thời đương bát thập bát,
Hốt nhiên đăng tọa thoát.
Hữu lai diệc hữu khứ,
Vô tử diệc vô hoạt.
Pháp tánh đẳng hư không,
Sắc thân như bào mạt.
Đông độ ly Ta-bà,
Tây phương liên hoa phát.
Dịch:
Giờ đúng tám mươi tám,
Bỗng nhiên lên ngồi thoát.
Có đến cũng có đi,
Không chết cũng không sống.
Pháp tánh đồng hư không,
Sắc thân như bọt nước.
Đông độ rời Ta-bà,
Tây phương hoa sen nở.

Sư ngâm kệ xong, đến giờ Mùi thì ngồi yên lặng mà tịch, nhục thân được nhập tháp không có trà-tỳ.


([1]) Bản Hán là Huyền Sa vô thử ngữ. Nay xin chỉnh lại cho đúng.
([2]) La Loan: Chỗ biển của quỉ La-sát ở.
([3]) Ngài: Con thiêu thân.
([4]) Bản Hán là chữ Nhất xin sửa lại chữ Ngã cho đúng với nguyên văn bài của Tú tài Chương Chuyết.
([5]) Bản Hán là chữ Thị, đây xin sửa lại chữ Đẳng cho đúng với nguyên văn bài của Tú tài Chương Chuyết.
([6]) Câu này xin sửa lại theo kinh Niết-bàn.

Từ khóa:

n/a

Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Giới thiệu

Giới thiệu về Thiền Lâm

LỜI NGỎ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni ! Kính thưa quý Phật tử và quý Thiện hữu tri thức ! Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn bị thôi thúc, cuốn hút bởi rất nhiều thông tin từ mọi hướng nhưng không ai trong chúng ta lại không nhìn nhận rằng, công nghệ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 139
  • Khách viếng thăm: 136
  • Máy chủ tìm kiếm: 3
  • Hôm nay: 17116
  • Tháng hiện tại: 387302
  • Tổng lượt truy cập: 59827319

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile