Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Uyển Lăng Lục - Đoạn 7

Đăng lúc: Thứ năm - 16/02/2012 18:40 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
ĐOẠN 7
CHÁNH VĂN:  

Chỉ trừ bỏ chỗ thấy biết trong tâm, lại nói “dẹp trừ phẩn hý luận”.
GIẢNG: 
Tất cả những trò đùa cợt phải dẹp bỏ hết.

CHÁNH VĂN:  
Vì thế, Như Lai Tàng vốn tự không lặng trọn không dung chứa một pháp, nên kinh nói “cõi nước chư Phật cũng đều không”.
GIẢNG: 
Trong kinh dạy dẹp hết tất cả dính mắc từ xưa đến giờ. Nên nói trong Như Lai tàng vốn tự không lặng, trọn không dung chứa một pháp, nên kinh nói “cõi nước chư Phật cũng đều không”, tức là trong kho Như Lai rỗng không vắng lặng, không dính mắc một vật gì.

CHÁNH VĂN:  
Nếu nói Phật đạo tu học mà được, thấy biết như thế hoàn toàn không liên hệ. Hoặc tạo một cơ một cảnh, nhướng mày chớp mắt, chỉ vì đối người đương cơ nói để khế hội. Được chứng ngộ thiền lý, chợt gặp một người không hiểu bèn nói, trọn không biết đối cơ người kia, nếu họ được đạo lý trong tâm liền hoan hỷ, nếu bị người khác chiết phục không bằng họ, trong tâm ôm ấp buồn bã. Người học thiền tâm ý như thế có gì được liên hệ.
GIẢNG: 
Nếu nói Phật đạo tu học mà được, thấy biết như thế hoàn toàn không liên hệ, nói tu học mà được Phật đạo thì Phật đạo sanh diệt vô thường. Hoặc tạo một cơ một cảnh, nhướng mày chớp mắt, là hét là đánh v.v… chỉ vì đối người đương cơ nói để khế hội, chớ không phải pháp cố định.
Được chứng ngộ thiền lý, chợt gặp một người không hiểu bèn nói, trọn không biết đối cơ người kia, nếu họ được đạo lý trong tâm liền hoan hỷ, nếu bị người khác chiết phục không bằng họ, trong tâm ôm ấp buồn bã. Người học thiền tâm ý như thế có gì được liên hệ. Đây là nói người đã hiểu được một chút ít thiền lý rồi, thuyết giảng lại cho người, họ hiểu được, lòng sanh vui thích cho mình đã thành công. Nếu gặp ai bẻ lại, lý mình không trôi thì sanh lòng buồn bực. Như vậy là chưa thâm nhập được lý thiền.

CHÁNH VĂN:  
Dù ông hội được ít phần đạo lý, chỉ là được cái tâm sở pháp, thiền đạo không liên hệ. Sở dĩ Tổ Đạt Ma mặt xây vô vách, đều khiến cho người không có chỗ thấy, nên nói: “quên cơ là Phật đạo, phân biệt là cảnh ma”.
GIẢNG: 
Đây nói rõ cho dù mình hội được một chút ít đạo lý, cũng thuộc về tâm sở pháp, chớ chưa phải thiền đạo. Tổ Đạt Ma khi sang Trung Hoa tới chùa Thiếu Lâm, ngồi xây mặt vào vách chín năm để làm gì? Để quên cơ, quên cảnh, không còn có chỗ thấy, chớ không phải ngồi tránh khách. Quên cơ là gần với Phật đạo. Người nào phân biệt lanh lẹ đó là cảnh ma. Người buông hết muôn duyên, cơ hội đến với mình, không dính mắc, đó là Phật đạo.

CHÁNH VĂN:  
Tánh này dù khi ông mê cũng không mất, khi ngộ cũng không được, tự tánh thiên chân vốn không mê ngộ, hư không giới khắp giáp mười phương nguyên lai là một tâm thể của ta. Dù ông động dụng tạo tác đâu rời hư không. Hư không xưa nay không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi, không mê không ngộ, thấy rõ ràng không một vật, cũng không người không Phật, nếu có lượng bằng mảy tơ, cũng không nương tựa, không ràng rịt. Một đạo trong sạch trôi chảy là tự tánh, pháp nhẫn vô sanh đâu có nghĩ bàn. Chân Phật không miệng chẳng biết nói pháp, thật nghe không tai thì cái gì được nghe? Trân trọng!
GIẢNG: 
Tánh này là tánh giác của chúng ta, nó không mê không ngộ, không được không mất. Tự tánh thiên chân là tự tánh sẵn có chân thật. Chữ thiên này không phải thiên lệch một bên, mà thiên là sẵn. Tự tánh chân thật, vốn không mê ngộ. Hư không giới khắp giáp mười phương nguyên lai là một tâm thể của ta, trùm khắp, không riêng biệt bên nào.
Dù ông động dụng tạo tác đâu rời hư không, dụ như mọi hoạt động tạo tác của chúng ta, không có hoạt động nào rời ngoài hư không. Cũng vậy tất cả hoạt dụng của tâm không rời tự tánh chân thật. Tự tánh không lớn không nhỏ, vô lậu vô vi. Vì vô lậu vô vi nên không có tướng sanh diệt. Không mê không ngộ, thấy rõ ràng không một vật. Tại sao không một vật mà thấy rõ ràng? Như hiện giờ chúng ta thấy tất cả mọi vật trước mắt, là nhờ có hư không. Nếu không có khoảng trống làm sao chúng ta thấy được mọi vật chung quanh. Như vậy tất cả vật ta thấy, có cái nào ngoài hư không đâu.
Cũng thế, tâm thể trùm khắp, nhưng không có tướng cũng như hư không vậy. Các tướng chúng ta thấy đều là tướng sanh diệt, còn tâm thể không sanh diệt, dụ như hư không. Nó như hư không chớ không phải hư không, vì hư không vô tri, còn tâm thể là tri giác. Tâm thể khác với hư không là thế, song vì thể của nó rỗng không, không có tướng mạo nên nó thường được dụ giống như hư không, không một vật.
Cũng không người không Phật, nếu có lượng bằng mảy tơ, cũng không nương tựa, không ràng rịt. Một đạo trong sạch trôi chảy là tự tánh, pháp nhẫn vô sanh đâu có nghĩ bàn. Chỗ ấy không còn một mảy may dính mắc, không thể nghĩ bàn.
Chân Phật không miệng chẳng biết nói pháp, thật nghe không tai thì cái gì được nghe? Chân Phật không biết nói pháp, còn cái thật nghe không phải ở lỗ tai, như vậy lấy cái gì để nghe? Chân Phật là tri giác bất sanh bất diệt, còn nói pháp thì có sanh diệt nên nói chân Phật không biết nói pháp. Còn tánh nghe chân thật của chúng ta không có tai. Tại sao? Vì tánh nghe đâu có hình tướng. Lỗ tai có hình tướng, tánh nghe không hình tướng nên nói không có tai.

CHÁNH VĂN:  
Một hôm, Sư thượng đường chỉ dạy đại chúng: Về trước, nếu đập không thấu triệt, đêm ba mươi tháng chạp đến rồi, bắt buộc ông bứt rứt rối loạn. Có một bọn ngoại đạo vừa thấy người nói tập công phu bèn cười lạt, bảo: “vẫn còn cái đó”. Tôi hỏi ông, bỗng nhiên giờ mạng chung sắp đến, ông lấy cái gì để chống cự sanh tử? Ông hãy suy nghĩ xem, có đạo lý nào được gọi là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên ư? Có một bọn thần lười, quỷ rỗi vừa thấy người có chút bệnh, bèn bảo: “Ông hãy buông xuôi đi!” Đến khi bọn ấy mắc bệnh, đem chỗ lý hội áp dụng chẳng được, tay chân co rút rối loạn, mặc sức da thịt ông đau nhức như dao cắt, làm chủ không được. Muôn việc lúc rảnh rỗi cần phải giải quyết cho xong, đến khi mê loạn mới đắc dụng, phải có ít nhiều sức tỉnh giác, chớ đợi sắp khát mới đào giếng. Trói tay khóa chân lại gặp chỗ cọp sói đuổi cắn làm sao chạy tránh, đường trước tối tăm? Tín thí cúng cơm trắng rau tươi, bây giờ bị dùi bị đánh. Khổ thay! Khổ thay!
GIẢNG:  
Đoạn này ngài dạy nếu trước đập phá không thấu triệt thì đến ba mươi tháng chạp là giờ sắp lâm chung, bắt buộc ông phải bứt rứt phải rối loạn, thân này bị hành hạ khổ sở. Bấy giờ mới nói, có một bọn ngoại đạo vừa thấy người nói tập công phu bèn cười lạt, bảo: “vẫn còn cái đó”. Tôi hỏi ông, bỗng nhiên giờ mạng chung sắp đến, ông lấy cái gì để chống cự sanh tử? Ngoại đạo đây cũng là ngoại đạo trong nhà Phật, họ nói người tu cần gì công phu. Nếu không công phu thì khi cái chết đến làm sao chống cự nổi?
Chính vì điểm này mà tôi bắt Tăng Ni phải ngồi thiền tới hai tiếng đồng hồ, đau chân gần chết mà cũng phải ráng ngồi. Bởi vì cái đau chân trong lúc ngồi thiền còn nhẹ hơn cái đau lúc sắp ra đi. Sắp ra đi không phải đau chân thôi mà đau cả thân thể. Trong kinh diễn tả như con cua bị lột vỏ vậy, da thịt chỗ nào cũng đau, lúc đó làm sao chịu nổi? Bấy giờ tập đau cái chân, sau nó đau nhiều hơn một chút mình cũng chịu được. Ngày nay cứ sợ đau, chừng đó đau quá, nhào lộn, khổ sở rên rỉ, có nguy hiểm không? Như vậy tập công phu là một phương pháp để chúng ta có sức mạnh chống cự với sanh tử. Còn không chịu tập thì sanh tử đến biết làm sao? Ngài đặt câu hỏi:
Ông hãy suy nghĩ xem, có đạo lý nào được gọi là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên ư? Có đức Di Lặc nào trời sanh ra hay đức Thích Ca nào tự nhiên thành Phật không? Phật Thích Ca phải khổ hạnh sáu năm, ngồi cội Bồ-đề bốn mươi chín ngày đêm, sau mới thành Phật, tất cả đều do công phu tu tập mà ra. Đức Di Lặc cũng vậy, sở dĩ ngài thành Phật trễ hơn đức Thích Ca vì đời quá khứ ngài lười hơn Phật Thích Ca một chút, cho nên tu đồng thời mà ngài thành Phật trễ hơn. Điều này cho chúng ta thấy người tu không thể không có công phu, nhưng nếu có công phu mà chấp vào công phu là họa. Phải phá hết cái chấp thật của mình, phá được các thứ chấp công phu rồi mới thành công.
Chúng ta ngồi thiền ngày đêm sáu giờ để làm gì? Để phá mê. Vì lâu nay chúng ta lầm cho vọng tưởng là tâm mình, bây giờ nó hiện lên phải phá đập. Phá đập riết mấy chú vọng tưởng sẽ lặng, có thế việc tu mới tiến, mới thành công. Nhưng muốn phá mê cũng cần có thời gian, không phải biết vọng tưởng là nó hết liền, vì vậy phải có công phu.
Do đó những người cho công phu không có ý nghĩa gì, được xem là: Có một bọn thần lười, quỷ rỗi, vừa thấy người có chút bệnh, bèn bảo: “Ông hãy buông xuôi đi!”, thần lười quỷ rỗi thấy người tu liền chê cười, cho đó là chướng ngại, bảo buông hết đi. Đến khi bọn ấy mắc bệnh, đem chỗ lý hội áp dụng chẳng được, tay chân co rút rối loạn, mặc sức da thịt ông đau nhức như dao cắt, làm chủ không được. Muôn việc lúc rảnh rỗi cần phải giải quyết cho xong, đến khi mê loạn mới đắc dụng, phải có ít nhiều sức tỉnh giác, chớ đợi sắp khát mới đào giếng. Trói tay khoá chân lại gặp chỗ cọp sói đuổi cắn làm sao chạy tránh, đường trước tối tăm? Tín thí cúng cơm trắng rau tươi, bây giờ bị dùi bị đánh. Khổ thay! Khổ thay! Ngài nói hậu quả khổ của những người không chịu tu.

CHÁNH VĂN:   
Ngày thường chỉ học Tam muội ở ngoài miệng, nói Thiền nói Đạo, nạt Phật trách Tổ, đến chỗ này rồi hoàn toàn dùng không được. Ngày thường chỉ nhằm lừa người, đâu biết đến nay là tự dối mình. Trong địa ngục A Tỳ quyết định không thể thả ông.
GIẢNG: 
Những kẻ cứ nói bằng miệng mà không chịu tu tới nơi, sau này mới thấy khổ.

CHÁNH VĂN:  
Nay sắp chìm trong thời mạt pháp, cốt phải nhờ sức mạnh của mình. Chư huynh đệ! Cố gắng gánh vác huệ mạng Phật tiếp nối chớ để đoạn dứt. Thời nay vừa có một người, nửa người đi hành khước, cốt đi để xem sơn ngoạn cảnh, không biết tháng ngày đâu có chờ ta, một hơi thở ra không trở lại đã qua đời khác, chưa biết cái gì là đầu mặt. Than ôi! Khuyên các huynh đệ khi thân thể còn cường tráng phải nhận được cái chỗ thấu hiểu của mình, không bị người ta lừa là một phần việc lớn. Cái then chốt này rất là dễ dàng, tại tự ông không chịu nhận thôi.
GIẢNG: 
Việc tự tham cứu tu hành thật ra rất dễ, tự mình không chịu nhận thôi, chớ không phải khó. Đây là lời khuyên nhắc của ngài khi mạng căn sắp kết thúc.

CHÁNH VĂN:  
Người có chí liều chết thực tập công phu, chỉ ngoại đạo khó hiểu rõ, khó đạt được. Đâu thể dạy ông biết được trên cây tự sanh bắp trầm. Ông phải tự khéo chuyển biến mới được.
GIẢNG: 
Người đi tìm trầm, đâu có ai chỉ cây A, cây B có bắp trầm. Phải tới nơi khéo tìm, khéo nhận ra mới được.

CHÁNH VĂN:  
Nếu là bậc trượng phu khán công án, như có vị Tăng hỏi Triệu Châu: “Con chó có Phật tánh hay không?”, Châu đáp: “Không:”. Kia đi rồi, trong mười hai giờ khán một chữ “Không”. Ngày tham, đêm tham, đi đứng ngồi nằm, chỗ mặc y ăn cơm, chỗ đi tiểu đi đại, tâm tâm xem nhau, chăm bẳm tỉnh sáng, chỉ giữ một chữ “Không”, lâu ngày chày tháng đập thành một khối, bỗng nhiên tâm hoa tự sanh, ngộ được máy mầu của Phật Tổ, bèn không bị đầu lưỡi lão Hoà thượng trong thiên hạ lừa, hội rồi mới mở đại khẩu.
GIẢNG: 
Người khán công án phải chăm chăm như vậy đó, khả dĩ có chút kết quả tương ưng, không bị kẹt trên ngữ cú của các bậc tông sư.

CHÁNH VĂN:  
Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang không gió nổi sóng. Thế Tôn giơ cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Đến được chỗ ấy nói gì lão Diêm La, đến ngàn thánh còn không bì được ông. Không tin nói, hẳn có nhóm kỳ đặc rất tột như thế, việc chỉ sợ người có tâm.
GIẢNG: 
Ngài nhắc lại Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang không gió nổi sóng. Nghĩa là thiền tông Trung Hoa bấy giờ chưa phát triển, ngài qua làm cho ngọn sóng thiền dấy khởi, nên nói dậy sóng ầm ầm. Thế Tôn giơ cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Đến được chỗ ấy nói gì lão Diêm La, đến ngàn thánh còn không bì được ông, đến đó rồi Diêm La cũng không làm gì được, ngàn thánh cũng không bì nổi. Tại sao? Như Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát từ sơ địa tới thập địa v.v… cũng chưa sống trọn vẹn với bản tâm thanh tịnh. Nếu người nào tới được chỗ đó thì đâu còn gì ngăn ngại nữa nên nói ngàn thánh không bì nổi.
Không tin nói, hẳn có nhóm kỳ đặc rất tột như thế, việc chỉ sợ người có tâm, không tin có một nhóm kỳ đặc như vậy là tại vì có tâm, nếu vô tâm thì ai cũng làm được việc kỳ đặc ấy hết. Cho nên ngài làm bài tụng:

CHÁNH VĂN:  
Tụng:
Trần lao quýnh thoát sự phi thường,
Hệ bã thằng đầu tố nhất trường,
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Dịch:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường,
Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
GIẢNG: 
Không ai bỗng dưng được thành tựu cả mà phải có công phu. Công phu đó không phải để thành Phật mà để dẹp trần lao phiền não. Trần lao phiền não hết, Phật đạo tự hiện, không phải do tu mà thành Phật. Đó là lẽ thực



Tác giả bài viết: HT Thích Thanh Từ
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 573
  • Hôm nay: 34957
  • Tháng hiện tại: 34957
  • Tổng lượt truy cập: 81585936

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile