Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Phật Học Phổ Thông - Khóa VI - Bài 7

Đăng lúc: Thứ hai - 23/01/2012 15:55
Phật Học Phổ Thông - Khóa VI - Bài 7

Phật Học Phổ Thông - Khóa VI - Bài 7

A-Nan, hư không vô hình, nhơn các hình sắc mà hiện bày ra. Như ở trong thành Thất la này, khi dân chúng mới cất nhà, thì họ đào giếng để múc nước.
Khóa Thứ Sáu

TRIẾT LÝ ĐẠO PHẬT 
hay là 
ĐẠI CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
--- o0o ---
 
BÀI THỨ BẢY

I.- Hư không từ chân tâm biến thiện
II.- Các giác quan từ chân tâm biến thiện
III.- Thức (phân biệt) từ chân tâm biến thiện
VI.- A Nan ngộ được chân tâm, đứng dậy phát nguyện rộng lớn.
 
--- o0o ---

I.- HƯ KHÔNG TỪ CHÂN TÂM BIẾN THIỆN
      - A Nan, hư không vô hình, nhân các hình sắc mà hiện bày ra. Như ở trong thành Thất La này, khi dân chúng mới cất nhà, thì họ đào giếng để múc nước. Đào một thước đất, thì thấy có một thước hư không hiện ra, đào xuống mười thước thì thấy có mười thước hư không hiện ra; hư không cạn hay sâu là tùy người đào nhiều hay ít. Vậy hư không này là do đất sanh, do đào mà có, hay không do đâu mà tự sanh?

      A Nan, hư không này, nếu không do đâu mà tự sanh, thì khi chưa đào sao không thấy có hư không, mà chỉ thấy đất đào? Còn nói "hư không do đào mà có?"; thì khi quăng đất ra, đáng lẽ phải thấy hư không vào. Nếu quăng đất ra trước mà không thấy hư không vào, thời sao lại nói "hư không do đào đất mà có". Nếu hư không không ra vào, thời đáng lẽ nó cùng với đất không khác; nếu không khác thời đồng với đất. Vậy khi quăng đất ra, sao chẳng thấy hư không ra?

      Nếu nói "hư không do đào đất mới có", thời khi đào, đáng lẽ phải ra hư không chớ sao lại ra đất? Còn nói "hư không chẳng do đào mà ra" thì khi đào ra đất, tại sao thấy có hư không?
Trang 461
 
      Các ông nên chín chắn quan sát: đào là từ nơi tay người tùy theo chỗ mà đào. Còn đất cục là nhơn chỗ đất cái dời đi. Đào là việc thật, còn hư không thì trống không, hai cái không dính líu gì với nhau, không hòa không hiệp. Vậy hư không từ nơi đâu mà ra không lẽ không nhơn đâu mà hư không tự có.

      Các ông biết trong chơn tâm tánh (bản thể) của hư không (tâm) là chơn giác (tâm); tánh (bản thể) của giác (tâm) là chơn không, vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm chúng sanh thế nào, thì nó hiện ra thế ấy. Một chỗ đào giếng, thì một chỗ có hư không, khắp cả trong thế gian đều đào giếng, thì khắp cả thế gian đều có hư không; tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì. Người trong thế gian không biết, khởi tâm phân biệt so đo, chấp là nhân duyên sanh hoặc tự nhiên có v.v... đều không đúng cả.

      A Nan, ông nên biết: Hiện tiền tấn của năm đại: đất, nước, gió, lửa và hư không vốn viên dung khắp giáp, không lay động, đều là chân tâm cả, không có sanh và diệt. Chỉ tại các ông mê muội không biết mà thôi.

LƯỢC GIẢI
      Đất, nước, gió, lửa và hư không, năm đại này thuộc về phần vật chất, đại diện cho các cảnh vật. Hai đại sau (kiến và thức) là thuộc về phần tinh thần, đại diện cho các thức.
Trang 462

II.- CÁC GIÁC QUAN TỪ CHÂN TÂM BIẾN HIỆN
      - A Nan, cái "thấy" không tự thể, nhân đối với cảnh vật và hư không mà có, như ông ngày nay ngồi trong rừng Kỳ đà, sớm mai thấy sáng, chiều lại thấy tối, đêm không trăng thời thấy tối, có trăng lại thấy sáng. Nhân có tối và sáng, nên ông mới thấy có phân biệt.

      Vậy cái "thấy" này cùng với tối, sáng và hư không là một thể hay không phải một thể? Đồng hay khác?

      Này A Nan, khi tối thì không có sáng, khi sáng không có tối. Nếu cái thấy này cùng với tối đồng một thể thì khi sáng đến, cái thấy phải mất. Còn cái thấy này cùng với cái sáng đồng một thể, thì khi tối lại, cái thấy phải diệt. Nếu cái thấy diệt, thời làm sao thấy tối và thấy sáng. Lại nữa, tối và sáng khác nhau, còn cái thấy lại không sinh diệt, như thế thời làm sao nói đồng một thể được.

      Nếu nói cái thấy cùng với tối, sáng và hư không chẳng phải một thể, thì rời tối, sáng và hư không, ông hãy chia riêng cái thấy của ông ra xem thử hình tướng của nó thế nào. Nếu trời tối, sáng và hư không thì cái thấy của ông như lông rùa, sừng thỏ; nghĩa là không có. Khi phân tách ra tối, sáng và hư không, ba cái đều khác, thì cái thấy của ông ở chổ nào?
 
Trang 463
 
      Lại nữa, tối sáng trái nhau, thế nào nói đồng được? Rời tối, sáng và hư không ra, không có cái "thấy", thì làm sao nói khác được? Không thể chia ranh đây là hư không, kia là cái "thấy" được, thời làm sao lại nói "không đồng" ? Tối, sáng chẳng đồng, còn cái "thấy" không biến đổi thì sao lại nói "không khác" ?

      Ông nên chín chắn suy xét: Cái sáng là từ nơi mặt nhật, cái tối thuộc ban đêm, chỗ trống thuộc hư không, nơi bít là thuộc về đất; cái "thấy" có biết còn hư không không biết, không phải hòa, không phải hiệp. Vậy cái "thấy" từ nơi đâu mà sanh, không lẽ tự nhiên có?

      Các ông không biết: Trong chân tâm, cái tánh của "thấy" là tâm (giác minh) tâm là tánh của thấy; vốn sẵn thanh tịnh khắp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sanh phân biệt như nào, thì hiện ra theo sự hiểu biết của chúng sanh như thế ấy. Như một con mắt là có một cái thấy, nếu nhiều con mắt thì có nhiều cái thấy. Cho đến tai nghe, mũi ngữi, miệng nếm, thân xúc, ý biết, sáu giác quan cũng vậy, đều khắp cả pháp giới, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở gì.

LƯỢC GIẢI
      Như điện, vào đèn thì đèn cháy, vào quạt quạt lại xoay v.v... điện không có phương hướng xứ sở gì, chỉ tùy duyên phát hiện.
 
Trang 464
 
      Còn tâm cũng thế, tâm vẫn là một, nếu đến mắt thì thấy, còn đến tai thì nghe v.v... tùy duyên phát hiện.
*

      Thấy, nghe, hay, biết sáu giác quan kể là một, cùng với hư không và bốn đại, thành ra sáu đại, tánh có viên dung vốn không lay động, đồng một thể chân tâm, không sanh không diệt, thế gian vì mê lầm không biết, sanh tâm phân biệt, chấp cho nhân duyên sanh, hoặc tự nhiên có đều không đúng cả.

III.- THỨC (PHÂN BIỆT) TỪ CHÂN TÂM ĐẾN THIỆN
      - Này A Nan, cái "thức" (phân biệt) không có căn nguyên, nhân sáu căn và sáu trần mà vọng hiện. Ông nay dùng mắt xem khắp trong hội này, thì con mắt của ông chẳng khác nào như cái kính chiếu cảnh, không có phân biệt gì riêng khác. Rồi cái "thức" của ông mới khởi lên, tuần tự phân biệt: đây là ông Văn thù, kia là ông Phú-Lâu-Na, đó là ông Mục-kiền-liên, nọ là ông Tu-Bồ-Đề v.v... vậy cái thức hiểu biết phân biệt này, từ cái thấy sanh, hay từ nơi cảnh vật sanh? Từ hư ra, hay không do đâu mà tự xuất hiện?

      A Nan, nếu nói "cái thức của ông từ nơi cái thấy sanh", mà không có tối, sáng, cảnh vật và hư không bốn món, thì cái "thấy" của ông không có. Cái thấy còn không có, thời cái thức phân biệt kia làm sao từ nơi cái thấy mà sanh được.
Còn nói "thức phân biệt này từ cảnh vật sanh, chớ không phải từ nơi cái thấy". Nếu không có cái thấy để thấy tối, sáng, cảnh vật và hư không các tướng, thời cái "thức" của ông từ nơi đâu mà sanh được.
Trang 465
 
      Còn nói "thức từ hư không sanh, không phải từ nơi cảnh vật và cái thấy". Nếu không có cái "thấy" thời không thấy được sáng, tối, cảnh vật và hư không. Còn nếu không có các cảnh vật thì thấy, nghe, hay, biết không từ nơi đâu mà có.

      Nếu nói "thức không phải từ cảnh vật và cái thấy sanh", như thế thì nó đồng với cái không. Còn nói "nó có mà không phải đồng cảnh vật", thì dầu cho cái thức của ông có phát sanh ra nữa, cũng không thể phân biệt cái gì được.

      Nếu nói "thức không nhân đâu, thoạt nhiên xuất hiện", thì sao khi ban ngày, ông không thể phân biệt được mặt trăng?

      Ông nên chín chắn suy xét: Cái thấy thì nó gá nơi con mắt của ông, còn các hình tướng là ở nơi cảnh vật. Những gì có hình tướng thời có, còn không hình tướng là không. Cái "thức" thì động (có phân biệt), còn cái "thấy" lại yên lặng (không phân biệt), không phải hòa, không phải hiệp. Vậy thì, cái thức phân biệt của ông từ đâu sanh ra? Không lẽ không do đâu mà tự có?

Trang 466
 
      Các ông không biết trong chân tâm, tánh của thức là tâm, tâm mới thật là thức (chân thức), nó nhiệm mầu yên lặng, sáng suốt, khắp giáp cả pháp giới, hàm chứa và sanh ra mười phương hư không thế giới, chỉ tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra, không có phương hướng xứ sở. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt chấp trước, cho là nhân duyên sanh hoặc tự nhiên có v.v... đều không đúng cả.
     
      Các ông nên biết: Đất, nước, gió, lửa, hư không, cái "thấy" và thức tâm gọi chung là bảy đại, tánh của nó đều là chân tâm viên mãn khắp giáp tất cả, vốn không sanh diệt. Các ông vì mê muội nên không biết.
 
 
LƯỢC GIẢI
      Chúng ta nên phân biệt rõ ràng: "thức" và cái "thấy".

      Cái "thấy" là thuộc các giác quan, về phần trực giác. Nó cũng như cái kính chiếu cảnh, không có phân biệt tính toán. Còn "thức" thì có phân biệt tốt, xấu, hay, dở v.v... So theo Duy thức tôn, để nói cho dể hiểu: trong đây nói "thức" là chỉ cho thức thứ Sáu; còn nói cái "thấy" là chỉ về năm thức trước.

      Tóm lại, nói đất, nước, gió, lửa, hư không, cái Thấy và Thức, cộng là bảy đại, gồm cả vật chất lẫn tinh thần.
     
      Đất, nước, gió, lửa, hư không là thuộc về vật chất, còn Thấy và Thức là thuộc về phần tinh thần. Trong vũ trụ tuy có thiên hình vạn trạng, nhưng tóm lại thì không ngoài vật chất và tinh thần.
     
      Đoạn này là nói cả nói về vật chất lẫn tinh thần đều từ nơi chân tâm, tùy theo nghiệp của chúng sanh mà hiện ra như thế này, hoặc như thế kia, ngàn sai muôn khác. Như người chiêm bao thấy hiện ra các cảnh vật (đât, nước v.v...)

Trang 467
 
      Về bản thể (tâm) của bảy đại thì chân, không có sanh diệt. Còn về hiện tượng (các hình tướng) thì vọng. Vì chúng sanh mê muội không biết, chấp thế này hoặc thế kia, (như người đương chiêm bao chấp các cảnh chiêm bao là thật). Một phen ngộ được chân tâm, thì bảy đại này đều trở về thể tánh chân tâm (như người thức giấc, thì cảnh chiêm bao liền hết; lúc bấy giờ mới biết các cảnh vật trong chiêm bao đó, đều do tâm chiêm bao hiện ra). 
*
 
IV.- A NAN VÌ NGỘ ĐƯỢC CHÂN TÂM NÊN ĐỨNG DẬY PHÁT LỜI THỀ NGUYỆN RỘNG LỚN
      Khi ấy A Nan và đại chúng nhờ Phật chỉ dạy rất cặn kẽ, nên mỗi người đều ngộ được chân tâm của mình rộng lớn khắp cả mười phương hư không. Lúc bấy giờ ông lại thấy cả mười phương thế giới rất nhỏ hẹp và rõ ràng cũng như một lá cây cầm trong tay. Tất cả các cảnh vật sum la vạn tượng trong thế gian này, đều ở trong chân tâm; chân tâm bao trùm khắp giáp cả mười phương thế giới. Khi ấy ông xem trở lại cái thân do cha mẹ sanh đây, thật nhỏ nhen làm sao! Như một hạt bụi nhỏ ở trong mười phương hư không, dù còn, dù mất cũng không thấm vào đâu và cũng như một hòn bọt nhỏ, nổi ở trong bể cả rộng khơi, dầu sanh dầu diệt cũng không nhằm gì.

      Vì ông A Nan hiểu ngộ được chân tâm của mình thường còn không diệt và rộng lớn như vậy, nên ông đứng trước Phật chắp tay kính lạy, và xứng theo chân tâm rộng lớn, mà nói bài kệ phát nguyện như vầy:
Trang 468

NGUYÊN VĂN CHỮ HÁN
Diệu trạm, Tổng trì, Bất động tôn
Thủ Lăng Nghiêm vương, thế hi hữu,
Tiêu ngã ức kiếp điên đảo tưởng, 
Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân.
Nguyện kim đắc quả thành bảo vương, 
Hườn độ như thị hằng sa chúng,
Tuơng thử thâm tâm phụng trần sát,
Thị tắc danh vi báo Phật ân.
Phục chỉnh Thế Tôn vị chứng minh:
Ngũ trược ác thế hệ tiên nhập,
Như nhất chúng sanh vị thành Phật,
Chung bất ư thử thủ Nê-hoàn.
Đại hùng, đại lực, đại từ bi,
Hi cánh thẩm trừ vi tế hoặc,
Lĩnh ngã tảo đăng vô thượng giác,
Ư thập phương giới tọa đạo tràng
Thuấn-nhã-đa tánh khả tiêu vong,
Thước-ca-ra tâm vô động chuyển.

DỊCH NGHĨA
      Kính lạy Pháp thân, Báo thân, Hóa thân Phật, và kinh Thủ Lăng Nghiêm vương là ngôi Pháp bảo rất hy hữu trên đời. Tiêu trừ cho con các vọng tưởng điên đảo từ ức kiếp, khiến con chẳng cần trải qua vô số kiếp tu hành mà vẫn đặng pháp thân Phật.

      Hôm nay con nguyện mau đặng thành quả Phật, để trở lại độ chúng sanh nhiều như hằng sa. Con nguyện đem thân tâm này, phụng sự các Đức Phật nhiều như vi trần. Thế mới gọi là đền ơn chư Phật.
Trang 468
 
      Cúi xin Đức Thế Tôn chứng minh cho lời nguyện của con: "trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh". Nếu còn một chúng sanh nào chưa được thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả vui Niết bàn.
Phật là đấng Đại hùng, Đại lực và Đại từ bi. Cúi xin Ngài tiêu trừ các điều mê lầm vì tế cho con, khiến cho con sớm đặng thành quả Phật, để hóa độ chúng sanh khắp cả mười phương thế giới. Giả sử hư không kia có thể tiêu diệt hết, chớ chí nguyện của con đây chẳng hề lay động.


LƯỢC GIẢI
      Ngài A Nan vì ngộ được chân tâm của mình rộng lớn bao hàm cả vũ trụ: vô biên thế giới, vô tận chúng sanh đều ở trong chân tâm cả. Lúc bấy giờ, Ngài thấy mười phương thế giới rất rõ ràng và nhỏ hẹp cũng như cái lá cây cằm ở trong tay, còn thân này nhỏ nhen như hạt bụi bay trong hư không, dầu còn dầu mất cũng chẳng thấm vào đâu.

      Bởi Ngài ngộ được chân tâm rộng lớn, cùng với chúng sanh đồng một thể không hai, cho nên Ngài mới xứng theo chân tâm rộng lớn, khởi ra đồng thể đại bi, phát lời thề nguyện rộng sâu như thế.

      Xem như câu:

      Trong đời ngũ trược tội ác này, con thề vào trước để cứu khổ chúng sanh. Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì con thề chẳng lãnh quả Niết bàn ...

      Và câu:

      Giả sử hư không kia có thể tiêu hết, mà chí nguyện của con đây chẳng hề lay động.

      Trong kinh nói: "thế giới vô biên, chúng sanh vô tận", biết bao giờ độ cho hết tất cả chúng sanh, mà Ngài lại thề nguyện xung phong vào đời ngũ trược tội ác trước hết, để cứu độ chúng sanh.
Trang 470

      Nếu còn một chúng sanh nào chưa thành Phật, thì Ngài chẳng chịu an vui ở cảnh Niết bàn.

      Thật là lòng từ bi rộng lớn vô cùng, chí nguyện cao thượng hy sinh độ đời của Ngài như thế, đáng cho chúng ta trọn đời bái phục...
     
      Trông lên Ngài rồi ngó lại ta... thấy rõ tâm chí và hành vi của mình, thật cũng quá ư hẹp hòi và thấp thỏi! 

 *
Trang 471
HOẰNG PHÁP
 
--- o0o ---
 
 

Tác giả bài viết: HT. Thích Thiện Hoa
Nguồn tin: Trang nhà Quảng Đức
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 47
  • Hôm nay: 16991
  • Tháng hiện tại: 217322
  • Tổng lượt truy cập: 59657339

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile