KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG - Quyển Mở Đầu
TÂY TẠNG TỰ - BÌNH DƯƠNG
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG
Người dịch : THUBTEN OSALL LAMA - NHẪN TẾ THIỀN SƯ
THÀNH HỘI PHẬT GIÁO TP. HỒ CHÍ MINH - Phật lịch : 2541 - 1997 - Nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội 2002
ĐẠI PHẬT ĐẢNH NHƯ LAI MẬT NHÂN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA CHƯ BỒ TÁT
VẠN HẠNH THỦ LĂNG NGHIÊM KINH TÔNG THÔNG
Đời Đường:Ngài Bát Lạt Mật Đế, Sa Môn xứ Thiên Trúc dịch.
Ngài Di Già Thích Ca, Sa Môn xứ Ô Trường dịch ngữ.
Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới Đệ Tử chép.
Đời Minh: Bồ Tát Giới Đệ Tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi tông thông.
Việt dịch : Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế thiền sư 1994-1950
Biên tập : Chúng đệ tử Đời Thứ Ba Tây Tạng Tự
ẤN BẢN LẦN THỨ NHẤT 1997
MỤC LỤC CHI TIẾT
Tiểu sử Ngài Thubten Osall Lama (Nhẫn Tế Thiền Sư)
Duyên khởi của Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông
Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông.
Tựa chung
Duyên khởi của Kinh
PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG
CHƯƠNG I : CHI BÀY CHÂN TÂM
Mục Một : Gạn Hỏi Cái Tâm:
Nguyên do của thường trụ và lưu chuyển.
Chấp tâm ở trong thân
Chấp tâm ở ngoài thân
Chấp tâm núp sau con mắt
Chấp nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân
Chấp tâm hợp với chỗ nào thì liền có ở chỗ ấy
Chấp tâm ở chặng giữa
Chấp tâm không dính dáng vào đâu tất cả
Mục Hai : Chỉ Rõ Tánh Thấy
Cầu đi đến chỗ chân thật
Phóng quang nêu ra tánh thấy viên mãn sáng suốt
Hai thứ căn bản
Nương cái thấy, gạn hỏi cái tâm
Chỉ rõ tính thấy không phải là con mắt
Ý nghĩa chủ và khách
Chỉ tánh thấy không sanh diệt
Chỉ chỗ điên đảo
Lựa bỏ tâm phan duyên để chỉ tánh thấy khôngthể trả về đâu
Lựa riêng trần cảnh để nêu ra tánh thấy
Mục Ba : Phật Nêu Ra Tánh Thấy Ngoài Các Nghĩa "Phải" Và "Chẳng Phải":
Nghi tánh thấy hiện ở trước mắt
Chỉ ra không có cái gì tức là cái thấy
Ngài Văn Thù kính xin Phật phát minh hai thứ
Tánh thấy không có phải hay chẳng phải
Mục Bốn : Phá Những Thuyết Nhân Duyên, Tự Nhiên:
Nghi Tâm Tính Tự Nhiên Như Thần Ngã
Chỉ ra không phải là tự nhiên
Nghi là nhân duyên
Tánh thấy không phải là nhân duyên, rời các danh, tướng
Bác nhân duyên, tự nhiên
Chỉ thẳng tánh thấy
Mục Năm : Chỉ Ra Cái Vọng Thấy
Xin chỉ dạy tánh thấy chẳng do thấy
Chỉ ra hai thứ vọng thấy
Mục Sáu: Chỉ Rõ Ý Nghĩa Tánh Thấy Không Phải Là Cái Thấy, Viên Mãn Bồ Đề.
Mục Bảy : Tóm Thu Về Như Lai Tạng
A. Thu sắc ấm
B. Thu thọ ấm
C. Thu tưởng ấm
D. Thu hành ấm
E. Thu thức ấm
Thu sáu nhập
Thu mười hai xứ
Thu mười tám giới
Thu bảy đại
Đốn ngộ Pháp thân và phát nguyện
Mục Tám : Chỉ Rõ Căn Nguyên Hư Vọng Và Tánh Giác Toàn Vẹn:
Ông Mãn Từ trình bày chỗ nghi
Vô minh đầu tiên
Nguyên nhân vọng thấy có thế giới
Chỉ rõ giác chẳng sanh mê
Chỉ các đại có thể tương dung
Chỉ tánh Diệu Minh là Như Lai Tạng, rời cả hai nghĩa "Phi" và "Tức"
Chỉ mê vọng không có nhân, hết mê là bồ đề
Lại phá xích nhân duyên, tự nhiên (A). Xưa nay không vọng (B). Đưa vào bồ đề
Mục Chín : Chỉ Nghĩa Quyết Định
Các phép tu hành sau khi đốn ngộ, phát bồ đề tâm
Tâm nhân địa
A. Xét rõ gốc rễ phiền não
B. Đánh chuông để thể hiện tính thường
1. Nghi căn tánh không có tự thể
2. Chỉ bày tánh nghe là thường trụ
CHƯƠNG II : NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU
Mục Một : Nêu Ra Cái Căn Để Chỉ Chỗ Mê
Xin khai thị cách cởi nút
Mười phương Như Lai đồng một lời chỉ thị.
Sáu căn là đầu nút sanh tử và niết bàn
Thấy rõ tánh của mối nút để tức thời giải thoát
Kệ tụng
Mục Hai : Cột Khăn Để Chỉ Mối Nút Và Cách Mở Nút
Cột nút
Cách mở nút
Mục Ba : Hỏi Đại Chúng Về Viên Thông
Viên thông về thanh trần
Viên thông về sắc trần
Viên thông về hương trần
Viên thông về vị trần
Viên thông về pháp trần
Viên thông về nhãn căn
Viên thông về tỷ căn
Viên thông về thiệt căn
Viên thông về thân căn
Viên thông về ý căn
Viên thông về nhãn thức
Viên thông về nhĩ thức
Viên thông về tỷ thức
Viên thông về thiệt thức
Viên thông về thân thức
Viên thông về ý thức
Viên thông về hỏa đại
Viên thông về địa đại
Viên thông về thủy đại
Viên thông về phong đại
Viên thông về không đại
Viên thông về thức đại
Viên thông về kiến đại
Mục Bốn : Viên thông về nhĩ căn
Diệu lực vô tác thành tựu ba mươi hai ứng thân
Bốn công đức vô uý
Mục Năm : Chỉ Pháp Viên Tu. Phóng hào quang, hiện điềm lành
Phật bảo Ngài Văn Thù chọn căn viên thông
Lựa ra những căn không viên
Nhĩ căn viên thông hơn hết
Phụ Lục
CHƯƠNG III : PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO
Khai thị đạo tràng tu chứng
Tuyên thuyết thần chú
Khai thị đây là tâm chú của mười phương Như Lai
Sức của thần chú làm tiêu nghiệp chướng
Chú là phước đức như ý cho mình và cho cả nước, bảo hộ cho người sơ học
Các thần hộ pháp phát nguyện bảo hộ rộng rãi
Lăng Nghiêm Thần Chú
CHƯƠNG IV : KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG
Mục Một : Khai Thị Hai Cái Nhân Điên Đảo Và Ba Món Tiệm Thứ
I. Ông Anan xin khai thị những danh mục, Thứ bậc tu hành
II. Khai thị hai cái nhân điên đảo
Khai thị ba tiệm thứ tu tập
Mục Hai : An Lập Các Thánh Vị-Càn tuệ địa
Thập tín
Thập trụ
Thập hạnh
Thập hồi hướng
Tứ gia hạnh
Thập địa
Đẳng giác và diệu giác
Mục Ba : Chỉ Dạy Tên Kinh
Hỏi về sự sanh khởi và nhân quả của lục đạo
Khai thị về phận trong, phận ngoài của chúng sanh
Chỉ ra mười tập nhân và sáu giao báo
Không tu theo chánh giác : thành các thứ tiên
Các cõi trời
Các cõi trời
A. Sắc giới
B. Vô sắc giới
C. Bốn giống A Tu La
Khai thị sự hư vọng của bảy loài để khuyên tu chân chánh
Phân biệt các ấm ma
Phạm vi của sắc ấm
Phạm vi của thọ ấm
Phạm vi của tưởng ấm
Phạm vi của hành ấm
Phạm vi của thức ấm
Sanh tử là vọng tưởng năm ấm mà có,lý tuy đốn ngộ, sự phải tiệm trừ
QUYỂN XI
PHẦN THỨ BA : PHẦN LƯU THÔNG
Được phước, tiêu tội hơn cả
Trừ ma hơn cả
Lưu thông chung
Bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông này được Ngài Thubten Osall Lama, tức Nhẫn Tế thiền sư, Đức Sơ Tổ Tây Tạng Tự, dịch và chú thích thêm từ bản Hán văn sang Việt văn vào năm 1944, đến năm 1950 thì hoàn tất.
Nay, với mong muốn để nhiều người có cơ hội được đọc bộ kinh này, vì muốn được sự liễu ngộ Phật Đạo mà không đọc đến bộ kinh Lăng Nghiêm Tông Thông thì khó bề được mỹ mãn. Nên chúng tôi, chúng đệ tử Tây Tạng Tự đời thứ ba, sau khi được sự chấp thuận của Thầy Bổn Sư, Hòa Thượng Thượng Tịch Hạ Chiếu, Nhị Tổ Tây Tạng Tự, đã biên tập lại bản dịch của Đức Sơ Tổ Thubten Osall Lama theo ngữ văn đương thời.
Trong công tác biên tập này, chúng tôi xin biết ơn chư tôn đức đã dịch kinh Lăng Nghiêm và các kinh khác sang Việt văn. Nhờ công trình của quí vị mà chúng tôi có được những danh từ chính xác, những chỉ dẫn bổ ích hỗ trợ cho công việc vốn khó khăn và quá sức chúng tôi.
Chúng tôi xin sám hối với chư Tổ và quí độc giả về những lỗi lầm ắt có trong việc giản lược một số chú thích và biên tập lại bản dịch nguyên được Ngài Thubten Osall Lama trong Định, Huệ viết ra. Ngưỡng mong nhận được những chỉ giáo quí báu của các bậc thiện tri thức.
Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sanh đều tròn thành Phật Đạo.
Chúng đệ tử đời thứ ba Tây Tạng Tự.
TIỂU SỬ NGÀI THUBTEN OSALL LAMA
(NHẪN TẾ THIỀN SƯ)
Ngài sanh ngày Rằm tháng Bảy năm Kỷ Sửu (1888), tại làng An Thạnh thuộc Búng - Lái Thiêu Tỉnh Bình Dương, trong một gia đình khá giả.
Từ thơ ấu Ngài đã thọ quy y với Hòa Thượng trụ trì Chùa Sắc Tứ Thiên Tôn Tự (ở Búng), được đặt pháp danh Nhẫn Tế. Sau đó, Ngài thọ giới cụ túc với Hòa Thượng Thiên Thai (ở Bà Rịa) làm chủ Giới Đàn, được đặt pháp hiệu Minh Tịnh.
Trải qua thời gian, phần lớn là tự tu, thấy không thỏa mãn chí nguyện, Ngài lên đường đi Ấn Độ tầm sư học đạo.
Tháng Tư năm Ất Hợi (1935), Ngài đến Ấn Độ. Trong thời gian trên đất Ấn, Ngài tùy thuận phong tục, đắp y theo xứ Sri Lan-ka. Ở Ấn Độ, Ngài cũng không thấy thỏa mãn, lại muốn sang Tây Tạng học hỏi. (Hình trên: Nhẫn Tế Thiền Sư chụp ngày 21-12-1935 tại Bồ Đề Đạo Tràng Ấn Độ)
Ngài được một vị Lama pháp danh Gava Samden, từ Tây Tạng sang cùng ba đệ tử là Lama Chamba Choundouss, Lama Ise và Lama Isess qua Ấn Độ rước Ngài về Tây Tạng. Do được thông báo, nên qua các trạm dẫn vào Tây Tạng Ngài đều được nghinh tiếp rất niềm nở và trọng đãi.
Ngài đến Lhasa vào tháng Sáu năm 1936.
Tại Tây Tạng, Ngài cầu pháp với Lama Quốc Vương và dự cuộc thi tuyển toàn quốc, chỉ có hai người được tuyển chọn ứng thí: một người Tây Tạng và người còn lại là Ngài, người Việt Nam. Khi đoạn dây chỉ bện màu đỏ thắt quanh cổ Ngài xiết lại, Ngài vẫn bình thản nhìn. Chỉ có Ngài qua được cuộc khảo thí.
Sau một trăm ngày ở Tây Tạng, Ngài được Đại Thượng Toạ Lama Quốc Vương ngự ý ban cho pháp danh THUBTEN OSALL LAMA và ấn chứng sở đắc Pháp Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự, Trực Chỉ Chơn Tâm Kiến Tánh Lập Địa Thành Phật tại triều đình nước Tây Tạng.
Dòng Tổ Sư Thiền đã dứt vào thời Đức Lục Tổ Huệ Năng nay lại được khơi nối lại ở Việt Nam từ ngày đó.
Ngài trở về Việt Nam ngày 20 tháng 6 năm 1937.
Cuộc hành trình cùng các hình ảnh được Ngài ghi chép cẩn thận trong nhật ký còn lưu lại tại Chùa Tây Tạng - Bình Dương.
Về Việt Nam, Ngài lập Chùa Thiên Chơn (ở Búng - Lái Thiêu). Sau đó, lại xây dựng Chùa Tây Tạng hiện nay tại Bình Dương.
Ngài thị tịch ngày 17 tháng Năm năm Tân Mão (1951) tại Chùa Tây Tạng, thọ 63 tuổi.
Vị kế thế Ngài là Hoà Thượng Thượng Tịch Hạ Chiếu hiện trụ trì Chùa Tây Tạng - Bình Dương.
Đề tựa : Núi Nam Nhạc, Quan Trương Kim Giản tên là Tăng Phụng Nghi, Thuấn Trưng Phụ.
Xưa, Ngài Thiên Thai Trí Giả theo học Đạo thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi Ngài giải thích ý nghĩa sáu Căn trong sạch trong kinh Pháp Hoa thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với Ngài : “Chỉ có kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của sáu Căn, đủ để y chứng”. Từ đó, Ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt mười sáu năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Ở phía trái chùa Thiên Thai ở núi Nam Nhạc vẫn còn Đài Kinh. Sau Ngài hơn một trăm năm, kinh Lăng Nghiêm mới vào Trung Quốc. Kinh do Tể Tướng Phòng Dung ghi chép, văn tự tao nhã, bởi thế các bậc học sĩ đại phu đều tụng kinh này. Tôi từng ba lần đến Bái Kinh Đài, lần nào cũng bồi hồi chẳng muốn về, thầm than : “Người xưa ngưỡng mộ kinh này hơn mười mấy năm mà chẳng được thấy. Nay Lăng Nghiêm bày đầy thì người ta lại chẳng hề xem ! Tại sao thế ?”. Nhơn đó, tôi bèn phát tâm viết bộ Lăng Nghiêm lên đá, thuê thợ chạm rồi xếp thành một tòa thạch thất, khiến người đến viếng Bái Kinh Đài sẽ đọc được mà đều nói : Kinh đã đến đây rồi ! Như là vì Ngài Trí Giả mà bổ sung cho một sự thiếu sót. Vừa cầm bút định viết, chợt nghĩ : chỗ ta viết đây là chữ, chẳng phải là nghĩa vậy ! Ngài Trí Giả mong bộ Kinh này đến đây là mong người người hiểu nghĩa của Kinh. Như Ngài Huyền Sa Sư Bị, nhân đọc Lăng Nghiêm mà phát minh tâm yếu, đó là thâm nhập vào nghĩa vậy. Cho đến thiền sư Linh Nham An, Trường Thủy Tuyền, Trúc Am Khuê, Hoàng Long Nam, Thiệu Long An Dân... đều do Lăng Nghiêm mà ngộ. Như vậy là các Ngài đã không cô phụ sự truyền sang của bộ kinh này. Nếu theo văn mà giải nghĩa, chú thích câu chữ, đến mấy mươi nhà mà nghĩa kinh càng ngày càng xa, đó là lỗi lầm do chẳng cầu ở tâm mình. Nếu tỏ ngộ tự tâm, thì tuy là kinh này chưa đến, mà chỗ y giáo lập nghĩa của Ngài Trí Giả, mỗi mỗi đều hợp với Lăng Nghiêm. Không ngộ được tự tâm, tuy là có kinh Lăng Nghiêm trước mặt, thì cũng như kinh ở tại Ấn vậy. Tức là kinh điển đầy nhà mà nào có ích ! Việc nhà của các thiền sư là quét sạch văn tự kiến giải cho là chẳng đủ để sùng thượng, thật có lý lắm thay ! Nhưng khi tiếp dẫn hàng sơ cơ, xuất lời thổ khí, lời lẽ ý tứ thật tợ Lăng Nghiêm. Cho đến sự phát minh hướng thượng, chứng nhập Bồ Đề, thì cùng với hai mươi lăm chỗ chứng viên thông, cơ duyên không khác. Tức là chẳng tụng Lăng Nghiêm, mà Lăng Nghiêm đã sẵn đủ hiện giờ. Tức là Lăng Nghiêm chưa đến cõi này, mà cõi này chẳng phải là chưa có Lăng Nghiêm.
Tôi chẳng biết tự lượng sức, góp khắp lời của Tông Môn, phối hợp vào kinh văn. Hoặc để thầm hợp, hoặc để cùng thấy, hoặc suy rộng ý kinh, hoặc bày tỏ chỗ chưa bày tỏ. Tôi cũng không ngờ mình làm nổi. Trong khoảng trời đất làm sao có được thứ nghị luận này. Âu cũng do túc nguyện nhiều đời vậy.
Đây là tôi nhờ các vị Lão Túc để làm rõ nghĩa kinh chứ chẳng phải tự do tôi, và lấy Thiền Tông để soi sáng kinh chớ chẳng phải lấy văn tự kiến giải mà giảng. Bèn đặt tên là Tông Thông[01]. Tông Thông cùng với Thuyết Thông. Phải tự đắc Bản Tâm thì mới cùng với các bậc Lão Túc mặc áo gặp nhau. Chẳng những một hội Lăng Nghiêm nghiễm nhiên chưa tan, mà Ngài Trí Giả đến nay cũng vẫn còn đó.
Bài văn tán ngợi rằng :
Sáu vạn ba ngàn lời mười trang
Giáo, Hạnh, Lý; Không, Giả, Trung quán
Viên thông Hoa tạng Tín Hạnh giải
Chứng rồi Định Huệ xứ Niết Bàn
Phá Vọng hiển Chân, Chân Nhất thật
Phản văn nung Ấm, Ấm tiêu tan
Tội lỗi vô minh mười phương ngục
Tội ấy băng tiêu, tọa Phật tràng.
Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Thánh Hiền Tăng.
(01) Tông Thuyết cu thông, nghiã là đạo lý nói ra đều là tự tại suốt thông. Có câu : Tông Thông là Thuyết Thông vậy. Phép thiền (thiền môn) từ khi được tỏ ngộ thấu đáo, nói rằng Tông Thông; nói pháp tự tại (không còn trở ngại), nói rằng Thuyết Thông.
Có câu : Tông Thuyết cu thông làm bậc Đại Tông Sư.
Tổ Đình Sự Vân Thất nói : Tổ Thanh Lương nói rằng Tông Thông là tự mình tu hành. Thuyết Thông chỉ bậc chưa tỏ ngộ.
Kinh lăng Già : Phật dạy Ông Đại Huệ : Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát có hai giống thông tướng. Gọi là Tông Thông, Thuyết Thông.
Đông Chú nói : Tông ấy là gốc của Đạo. Thuyết ấy là dấu tích của pháp giáo.
Chứng Đạo Ca nói : Tông cũng thông, Thuyết cũng thông. Định Huệ tròn sáng, chẳng trệ nơi không.
[ Hết Quyển Mở Đầu ]
( Còn tiếp )
Mục Lục | Quyển I | Quyển II | Quyển III | Quyển IV | Quyển V | Quyển VI | Quyển VII | Quyển VIII | Quyển IX | Quyển X | Quyển XI
KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG, KINH THU LANG NGHIEM TONG THONG, kinh thủ lăng nghiêm tông thông, kinh thu lang nghiem tong thong, Quyển Mở Đầu, quyển mở đầu, Quyen Mo Dau, quyen mo dau, KINH THỦ LĂNG NGHIÊM TÔNG THÔNG - Quyển Mở Đầu, KINH THU LANG NGHIEM TONG THONG - Quyen Mo Dau, Lăng Nghiêm Tông Thông, tông thông, lang nghiem tong thong, tong thong, lăng nghiêm, lang nghiem
Mã an toàn:
LỜI NGỎ Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Kính bạch chư Tôn đức Tăng Ni ! Kính thưa quý Phật tử và quý Thiện hữu tri thức ! Trong cuộc sống hiện đại, con người luôn bị thôi thúc, cuốn hút bởi rất nhiều thông tin từ mọi hướng nhưng không ai trong chúng ta lại không nhìn nhận rằng, công nghệ...
Ý kiến bạn đọc