Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

PHÁ MÊ KHAI NGỘ - PHẦN 3

Đăng lúc: Thứ sáu - 30/12/2011 18:30
PHÁ MÊ KHAI NGỘ - PHẦN 3

PHÁ MÊ KHAI NGỘ - PHẦN 3

Căn cơ của chúng sinh thì không ai giống ai cả. Có người thì chậm chạp còn có kẻ thì nhanh nhẹn. Có người thì thông minh nhưng có kẻ lại lù khù.............
PHÁ MÊ KHAI NGỘ

PHẦN 3
 
 Lê Sỹ Minh Tùng

35. Niết bàn
36. Đạo đế  (Nirodha Gramadukkha ) (The Noble Path)
37. Tứ niệm xứ
38. Tứ chánh cần
39. Ngũ căn – Ngũ lực
40. Thất Bồ-đề  (Thất Giác Chi) (Seven factors of Enlightenments)
41. Bát chánh đạo  (The Nobble Eightfold Path)
43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma  (Bodhidharma)
44. Thiền
45. Đức Phật A Di Đà
46. Đại Thế Chí Bồ Tát   (Bodhisattva Mahasthanapràta)
47. Quán Thế Âm Bồ Tát   (Bodhisattva Avalokitesvara)
48. Pháp tu Tịnh độ   (Pure Land)
49. Ăn chay
50. Quan Thánh
51. Nho Giáo
52. Đạo giáo


35. Niết bàn
Một thí dụ khác là khi chúng ta uống một tách trà vừa nóng vừa thơm ngon. Cái thích thú khi thưởng thức hương vị thơm tho của tách trà chỉ có một mình ta cảm ứng được mà thôi cho dù chúng ta dùng ngôn ngữ để giải thích cho người bạn ngồi đối diện cũng không bao giờ thành công được. Niết bàn thì cũng thế chỉ có người nào nghiệm chứng được sự thanh tịnh, an lạc của Niết bàn thì chỉ một mình kẻ đó biết được sự huyền diệu của nó mà thôi.  

36. Đạo đế
(Nirodha Gramadukkha ) (The Noble Path)

Đạo đế đóng một vai trò tối quan trọng trong toàn bộ Tứ diệu đế nói riêng và giáo lý Đạo Phật nói chung. Chúng ta đã biết rõ những nổi khổ đau và nguyên nhân dẫn đến những sự khổ đau nầy. Nếu Đức Phật không dạy cho chúng ta những phương pháp thực tiển để diệt trừ tất cả mọi sự khổ đau đó để tìm thấy một chân hạnh phúc thì sự biết ở trên chẳng giúp ích gì cả mà còn làm cho chúng ta khổ đau thêm. Chân hạnh phúc mà Đức Phật muốn chỉ cho chúng ta thấy ở đây chính là hạnh phúc viên mãn tự tại của cuộc sống này và hạnh phúc mãi mãi cho tương lai để không còn vướng bận bởi luân hồi sinh tử nữa. Chúng ta phải tu luyện để đánh tan mọi vọng tưởng, chấp trước trong tâm. Dùng trí tuệ sáng suốt để tiêu diệt tham, sân, si, ái dục để biến cuộc sống của chúng ta từ nô lệ cho vật chất trở thành thanh cao và ý nghĩa. Cải đổi con người từ ích kỷ, mê muội trở thành vị tha và rộng lượng. Phải coi hạnh phúc của người là hạnh phúc của chính mình. Tất cả những phương pháp nói trên đều nằm trong phần Đạo đế này cả. Vậy chúng ta phải hiểu rằng Đạo đế là con đường dẫn chúng sinh đến nơi hạnh phúc để sống trong cảnh giới an vui tự tại cho ngày nay và cảnh giới hoàn toàn thanh tịnh và toàn mỹ cho ngày sau. 

Đức Phật đã chia Đạo đế ra làm bảy phần khác nhau.  Căn cơ của chúng sinh thì không ai giống ai cả. Có người thì chậm chạp còn có kẻ thì nhanh nhẹn. Có người thì thông minh nhưng có kẻ lại lù khù. Trong cuộc đời hành đạo suốt 49 năm chính Đức Phật đã thâu nhận không biết bao nhiêu là đệ tử thì Ngài thừa hiểu căn cơ thâu nhập giáo lý của mỗi người mỗi khác nên khi chế ra Đạo đế thì Ngài đã cẩn thận chia nó ra thành bảy phần để tùy khả năng của mỗi người mà tu học. 
Mặc dù Đức Phật chia Đạo đế làm 7 phần nhưng tựu chung thì phần này có những điểm nằm trong phần kia và ngược lại. Vậy bảy phần đó là:
1) Tứ niệm xứ
2) Tứ chánh cần
3) Tứ như ý
4) Ngũ căn
5) Ngũ lực
6) Thất Bồ-đề
7) Bát chánh đạo.
Nếu cộng bảy phần nầy lại thì có tất cả 37 phẩm hay là 37 phẩm trợ đạo của Thanh văn thừa. 


37. Tứ niệm xứ

Tứ là bốn. Niệm là nhớ, nghĩ đến. Vậy Tứ Niệm Xứ có nghĩa là bốn điều mà kẻ tu hành phải dụng tâm nghĩ đến. Đó là: 
¨     Quán Thân bất tịnh
¨     Quán Tâm vô thường
¨     Quán Pháp vô ngã
¨     Quán Thọ thì khổ  

1) Quán Thân bất tịnh: Quán là tập trung tư tưởng để quan sát cho kỷ càng, còn bất tịnh là dơ bẩn. Vậy quán thân bất tịnh có nghĩa là tập trung tư tưởng để quan sát một cách kỷ càng về sự dơ bẩn của thân ta. 
Ai dám bảo cái thân của chúng ta thì dơ bẩn? 
           
Thử nghĩ trong đời nầy không có cái gì mà chúng ta quý hơn là cái thân của chúng ta. Hằng ngày chúng ta nâng niu cưng chìu nó. Nó muốn cái gì thì chúng ta thỏa mãn cho nó ngay. Chúng ta mua nhà đẹp cho nó ở, sắm xe sang cho nó lái và nấu thức ăn ngon cho nó thưởng thức. Chúng ta còn đi mall để mua sắm áo quần áo đẹp cho nó mặc. Đôi khi tệ hại hơn nữa là chúng ta còn giám làm những điều tội lỗi để cho nó được sung   sướng. Nếu mà đã coi trọng nó như vậy mà nói nó là dơ bẩn, tanh hôi thì làm sao có thể tin cho được. 
           
Nhưng chúng ta hãy nhìn kỹ lại là thân của chúng ta dơ bẩn ngay từ lúc chúng ta còn nằm trong bụng mẹ. Cái thai nhi thì đỏ lưởng và nằm lẫn lộn trong máu me nhơ nhớp. Đến khi chào đời rồi lớn lên thì cái thân này lại còn tệ hại hơn nữa. Thật vậy, nếu vài ngày mà không tắm thì ai dám lại gần. Còn lúc ăn uống vào và khi tống ra thì chẳng ma nào chịu nổi. Bên ngoài thì đã thế còn bên trong như ruột, gan, phèo phổi thì còn tệ hại hơn nhiều. Đến khi bệnh hoạn thì ho hen với nước mũi nước giải chảy ra phát ớn. Khi người đến lúc già  thì má hóp, da nhăn, răng long, tóc rụng, nay đau, mai yếu. Thật là thê thảm. 
          
Vậy Thân là bất tịnh chớ còn gì nữa. Nhưng thói thường thì con người lúc nào cũng quý yêu cái thân cả. Nếu thân thích cái gì thì mình thích cái đó còn thân ghét cái gì thì mình cũng ghét theo. Cũng bởi tại cái vô minh nên chúng ta làm nô lệ cho thân của chính mình và từ đó gây ra nghiệp báo để phải chịu quả đời đời không dứt. Do đó chúng ta phải sáng suốt quyết tâm không làm nô lệ cho cái thân này nữa để đừng cho tham, sân, si phát khởi và từ đó thân, khẩu, ý không có cơ hội tạo ra ác nghiệp.
         
2) Quán Tâm vô thường: có nghĩa là tri thức của  tâm chúng ta thì thay đổi bất thường. Tâm thức của con người thay đổi vô cùng vô tận. Ý niệm nầy vừa phát sinh thì ý niệm khác đã thay thế. Từ khi thức giấc đến khi đi ngũ thì trong tâm thức chất chứa biết bao là ý niệm. Chánh có, tà có, thiện có, ác có làm cho tâm con người bất an và lo âu phiền não. Do đó, chúng ta phải hiểu rằng cái tâm thì biến đổi không ngừng và đó chính là nguyên nhân để sinh ra vô số vọng tưởng phiền não. Cái tham, sân, si, mạn, nghi… đều do nó tác sinh mà ra. 
Vậy chúng ta phải đổi cái tâm si mê, ngu muội thành ra cái tâm giác ngộ để trừ ngã chấp và thoát ra vòng sinh tử luân hồi.  
           
3) Quán Pháp vô ngã: Phàm cái gì tự nó có thể giữ được hình dáng để làm cho chúng ta khi nhìn thấy nó có thể biết đó là vật gì thì cái đó gọi là pháp. Trong thế gian vũ trụ nầy không có một vật gì mà tự nó có thể phát sinh và tồn tại mà không cần sự trợ giúp của những nhân duyên khác. Cái thân tứ đại của chúng ta là do đất, nước, gió, lửa, không gian và thức tạo thành nên tự nó không thể sống được mà con người cần phải ăn uống, hít thở…Vì thế tất cả vạn pháp trong thế gian không có tự tánh, chủ thể hay vô ngã. Đã là vô ngã thì nó không bền, không chắc, tạm bợ và sau cùng cũng bị hủy hoại bởi luật vô thường của tạo hóa mà thôi.  

Cũng như trong giấc chiêm bao, một khi chúng ta nằm mộng thì cảnh nầy hay cảnh khác thay phiên nhau hiện ra làm cho chúng ta lầm tưởng những cảnh tượng đó là cảnh thật. Nhưng khi thức dậy thì chúng ta mới nhận ra đó chỉ là giấc chiêm bao mà thôi. Còn con người chúng ta vì bị mê lầm nên không thể nhận ra sự giả dối của sự vật. Trong khi tâm thì duyên với cảnh và cảnh thì duyên với tâm mà chúng ta cứ tưởng là có thật. Thật ra tất cả các pháp đều không tự tướng nên chúng được gọi là vô ngã. 
  
Đã biết pháp là vô ngã thì bên ngoài chúng ta không bị hoàn cảnh kích thích, còn bên trong không bị phiền não lay động, quay cuồng theo sự múa rối của giả cảnh. Vì thế, chúng ta muốn tự tại cũng không đạt được cũng như muốn an vui, thường trú mà phải trôi lẫn vào vòng sinh tử. 

Nếu chúng ta chứng được pháp vô ngã rồi  thì cảnh cũng vô ngã và tâm thức cũng vô ngã do đó không còn cái chi để mà ghét, mà thương, mà phải chịu luân hồi sanh tử nữa. 
Pháp vô ngã sẽ đem lại cho chúng ta tính vị tha và dĩ nhiên là không bao giờ làm tổn thương cho ai cả. 

4) Quán Thọ thì khổ: thọ là nhận lãnh. Tại sao lại phải nhận lãnh cái khổ? 
Trước hết ta thọ nhận cuộc đời. Nhưng cuộc đời không phải là một chuổi dài đau khổ thì là gì? Bởi vì sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ và đến lúc chết cũng còn khổ. Nói chung, hễ càng thọ nhiều trên cõi đời này thì chúng ta càng khổ bấy nhiêu. Khi đã biết “thọ thì khổ” thì chúng ta phải tìm phương pháp để đối trị với nó bởi vì thọ là do tham mà có và chính cái tham là nguồn gốc đưa đến sự phiền não đã ăn sâu trong lòng chúng ta từ lâu đời lâu kiếp.  

Vậy phải làm thế nào để tránh nó? 
Như trên chúng ta đã biết, hễ thọ nhiều thì khổ nhiều còn thọ ít thì khổ ít. Càng gánh công danh phú quý thì vai càng nặng và khổ càng nhiều. Trái lại, nếu chúng ta không lãnh thọ thì tâm không bị giao động. Nói một cách tổng quát là đối với mọi cảnh vật, chúng ta thấy không có gì đáng ưa, không có gì đáng ghét, không có gì đáng vui mừng thì sẽ không có gì đau khổ. Vì thế cuộc đời của chúng ta mới được an nhiên tự tại và không còn khổ đau nữa. 
Sau cùng, chúng ta cố gắng chứng cho được bốn sự thật nầy thì sự chấp ngã, chấp pháp, tham, sân, si sẽ dần dần tan biến.  


38. Tứ chánh cần

 Vì cảnh giới mà chúng ta thấy đều là vô ngã cho nên tâm thức cũng vô ngã theo. Một khi tâm thức biến chuyển không ngừng như thế thì vọng tưởng sẽ phát sinh liên tục cho nên tham dục hành hạ và đọa đày chúng ta từng giây từng phút. 
            
Chúng ta cũng biết là thân, khẩu, ý  là nguồn gốc tác sinh ra căn nghiệp. Cứ một tư tưởng xấu vừa mới thoáng qua trong đầu óc của chúng ta, hay một lời nói làm người khác đau buồn, hoặc là một hành động gây ra sự đau khổ cho kẻ khác đều được xem là ác nghiệp. Mà đã là ác nghiệp thì khó lòng mà thoát ra khỏi lục đạo luân hồi.  
            
Biết để mà đề phòng là người khôn ngoan và dùng trí tuệ để trấn áp những si mê là người tu Phật. Vì thế ý nghĩa của Tứ chánh Cần cũng không ngoài mục đích khuyến khích chúng sinh dùng trí tuệ để ngăn ngừa tội ác cũng như sự phát sinh của nó và sau cùng tích cực cố gắng làm việc thiện. Tứ chánh cần được chia làm bốn phần là: 

§       Tinh tấn ngăn ngừa những tội ác chưa phát sinh. 
§       Tinh tấn diệt trừ những tội ác đã phát sinh. 
§       Tinh tấn phát triển những điều lành chưa phát sinh. 
§       Tinh tấn tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh. 
Vậy làm thế nào để ngăn ngừa những tội ác chưa phát sinh? 
  
Khi trong tâm mình có một mầm mống tội ác vừa chớm nở thỉ chúng ta phải dùng trì giới để kìm hãm những tư tưởng đen tối kia trước khi nó có cơ hội sinh sôi nẩy nở. Người tu hành thì lúc nào cũng nhớ nằm lòng tất cả mọi trì giới cũng như người lái xe phải thuộc lòng luật lệ giao thông thì mới mong tránh được tai nạn. 

Còn những điều ác đã phát sinh thì sao? 
  
Khi chúng ta chưa hiểu biết Phật pháp thì chúng ta đã tạo ra nhiều tội lỗi. Những tội lỗi nầy đã làm cho tâm của chúng ta càng ngày càng tăm tối lu mờ chẳng khác nào một tấm gương lâu ngày không chùi rửa. Nay chúng ta đã biết Phật pháp và thấy cái nguy hại của điều ác thì chúng ta phải quyết tâm dứt trừ. Vì đạo Phật đã chỉ cho chúng ta thấy rõ ràng là tạo ác nghiệp  thì sẽ sa vào ác đạo luân hồi. Chỉ có thiện nghiệp thì mới đưa chúng ta ra khỏi vòng luân hồi sanh tử. Cái đà của tội lỗi cũng giống như là cái đà của một chiếc xe đang chạy xuống dốc. Càng xuống dốc thì xe càng chạy nhanh. Con người thì cũng vậy, càng tạo tội lỗi thì tội lỗi càng lớn và khiếp đảm hơn. Chúng ta phải sáng suốt dùng trì giới để tự nhắc nhở cho chính mình luôn luôn phải làm lành tránh dữ. 

Bây giờ làm thế nào để phát triển những điều lành chưa phát sinh? 
  
Sống trong thế gian chúng ta thấy có rất nhiều người gặp nhiều may mắn. Những sự may mắn nầy mang đến cho họ sự giàu sang phú quý. Nhưng tại sao họ lại có nhiều may mắn như thế? Chẳng có gì khó hiểu cả, dựa theo luật Nhân quả của nhà Phật thì con người có rộng tâm bố thí, tạo nhiều phước đức thì khi qua đến kiếp sau những phước đức nầy sẽ mang lại cho họ những sáng suốt làm cho họ phát tài mà trở thành giàu có. Còn nếu chúng ta bủn xỉn thì không có phước đức thì dĩ nhiên qua đến kiếp nầy tâm trí lu mờ, tính gì trật nấy làm cho chúng ta nghèo. Vì thế muốn tương lai tươi sáng thì hiện tại phải tạo nhiều phước đức tức là thiện nhiệp. 
   
Muốn tạo nhiều thiện nghiệp thì chúng ta  phải đối đãi tử tế với tất cả mọi người. Phải giúp đở người nghèo khổ, hoạn nạn cũng như khi thấy việc cần làm thì phải làm ngay chớ không nên suy qua tính lại. Đó là chúng ta đã lấy lòng từ bi mà đối đãi với chúng sinh vậy. 
   
Sau cùng, chúng ta phải hăng hái để phát triển những điều lành bởi vì đây là cơ hội để chúng ta gieo thêm nhiều cái nhân thiện cho cuộc đời của chúng ta.   

Vậy còn những điều lành đã phát sinh thì làm sao? 
   
Một khi điều lành đã được phát sinh ra hành động thì đây chính là thiện nghiệp. Đó là việc làm tốt. Nhưng nếu dừng lại ở đây thì thân, khẩu, ý của chúng ta  có cơ hội xoay chúng ta từ thiện sang bất thiện thì chúng ta lại dễ dàng sa vào bẩy của tội ác triền miên. Để tránh tình trạng nầy thì lúc nào tâm của chúng ta cũng nghĩ về thiện, cố gắng gạt bỏ mọi ám chướng và phát huy từ việc thiện này đến việc thiện khác. 
 
Sau hết, nếu suốt đời chúng ta theo đúng bốn điều nói trên là ngăn ngừa không cho những điều ác phát sinh, diệt trừ những điều ác đã phát sinh, cố gắng thực hiện những điều lành vừa phát sinh trong tâm của chúng ta và sau cùng là tiếp tục thực hiện nhiều hơn những điều lành thì thiện quả sẽ giúp chúng ta thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử và đạt được địa vị Thánh hiền. 
      
Tứ Như Ý Túc 
Sau khi đã nhận rõ được chân tướng của cuộc đời trong phần Tứ niệm xứ và quyết tâm bỏ ác theo thiện trong phần Tứ chánh cần, con người nếu muốn tiến xa trên đường đạo với một chí nguyện, một năng lực tinh thần vững chắc cho đến khi được toại nguyện thì tứ như ý túc sẽ giúp chúng ta đạt được điều mong ước nầy.  
  
 Tứ là bốn, như ý là được toại nguyện và túc là chân. Vậy tứ như ý túc là bốn phép làm nơi nương tựa cho các công đức thiền định được thành tựu mỹ mãn như ý muốn của mình. Đó là: 

Dục như ý túc
¨     Tinh tấn như ý túc
¨     Nhất tâm như ý túc
¨     Quán như ý túc 
  
 
1)Dục như ý túc: Dục là mong muốn và mong muốn một cách tha thiết cho đến khi mãn nguyện mới thôi. Nhưng mong muốn cái gì? Tại sao đã tu Phật mà lại còn “dục” như thế? 
             
Trong cuộc sống có những thư mong muốn thỏa mãn những thú tính, những tham vọng thì đây là những mong muốn tội lỗi, nên tranh xa. Có những thứ mong muốn trong lành như mong muốn sống một cuộc đời đẹp đẽ, thah cao. Mong muốn được giai thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi thi đây là nhữn mong muốn chánh đáng, hợp lý và đáng khuyến khích. Ở đây người tu Phật mong muốn được thành đạt các pháp thiền định để tiến về hướng giải thoát giác ngộ. Nhiều qua niệm sai lầm về diệt dục của Phật giáo. 
           
Họ lý luận diệt dục là phải diệt tất cả những tham vọng và dĩ nhiên cũng diệt luôn cả những đòi hỏi của cuộc sống. Thật ra Phật giáo chỉ chủ trương diệt dục theo con đường trung đạo tức là diệt những dục vọng, diệt những phần ham muốn xấu xa đê hèn làm cho con người bị đọa vào tam ác đạo. Chớ đạo Phật đâu có chủ trương diệt luôn cả những chí nguyện, những mong ước, những đức tính tốt đẹp của con người. Vì thế người thế gian ham thích những vật dục mạnh mẽ như thế nào thì người tu Phật cũng mong muốn thành tựu những pháp thiền định Xa-Ma-Tha để tâm được thanh tịnh mà hướng về giải thoát giác ngộ. 
            
2)Tinh tấn như ý túc: Tinh tấn là dũng mãnh, chuyên nhất vào thiền định, đừng để tâm tán loạn. Đây là thể hiện những nghị lực liên tục không bao giờ gián đoạn. Vì thế trong kinh Di Giáo Đức Phật có dạy rằng: 
             
“Như người kéo cây lấy lửa, cây chưa nóng đã thôi, tuy muốn được lửa nhưng khó thể được…”
Vậy nếu chúng sinh muốn tiến xa trên con đường tu đạo thì tinh tấn là đều kiện không thể thiếu được. 
  
3)Nhất tâm như ý túc: Nhất tâm là tâm chuyên nhất vào định cảnh, không cho tán loạn. Thí dụ một con sông Mê Kông cho dù có lớn, nhưng khi ra biển chia thành chín cửa thì chắc chắn sức chảy của nước sẽ bị yếu dần. Ngược lại, một dòng suối nhỏ nếu chỉ chảy một đường thì cũng đủ sức xoi thủng đá. Người tu Phật giữ nước trí tuệ thì cũng thế, phải khéo tu thiền định chớ để cho tâm tán loạn.  
             
4)Quán như ý túc: Quán là quan sát những pháp mình đang tu. Khi tâm đã định thì sẽ có thể quan sát để thấy thật rõ ràng chân lý của tất cả các pháp trong vũ trụ nầy.  
  
 Bốn phép Dục, Tinh tấn, Nhất tâm, Quán là bốn nấc thang liên tục để giúp chúng sinh từ cái nhân hữu lậu mê mờ đến cái nhân vô lậu giải thoát. Thật vậy, có tu tâm và ước nguyện (Dục) cho nên sự tu tập càng dũng mãnh (Tinh Tấn). Nhờ sự tu hành tinh tấn nầy mà bao nhiêu phiền não khổ đau cũng vì thế mà tiêu tan hết. Khi tâm đã chuyên nhất (Nhất tâm) nên có thể quán trí để được thanh tịnh (Quán) và có năng lực phá tan tất cả cội gốc của Vô minh. Vô minh hết thì nghiệp chướng phải tiêu trừ và trí tuệ được phát sinh. 


39. Ngũ căn – Ngũ lực

Ngũ căn và Ngũ lực là hai pháp môn rất quý báu trong 37 môn trợ đạo của Đạo đế. Chính nó đã đóng một vai trò thật quan trọng để giúp người tu hành từ địa vị phàm phu đến các thánh quả vị trong tam thừa. Chúng là những phương tiện thực tiển có thể giúp chúng ta thăng tiến trên bước đường tu đạo và chứng quả. Do đó chúng ta phải chuyên tâm học hỏi và tinh tấn thực hành những pháp môn nầy. 

Trước hết chúng ta tìm hiểu thế nào là Ngũ căn? 

Ngũ căn là năm căn và là cội nguồn để tất cả các thiện pháp phát xuất. Năm căn đó là: Tín căn, Tấn căn, Niệm căn, Định căn và Huệ căn. 
           
1)Tín căn: là lòng tin tưởng thật vững chắc. Chúng ta tin tưởng ở đây có nghĩa là dùng trí tuệ để xét đoán việc mình làm và không tin tưởng một cách mù quáng. Chúng ta nên tin tưởng vào Giác, Chánh, Tịnh. Giác là giác ngộ bởi vì chỉ có giác thì chúng ta mới đạt đến sự giác ngộ và phá bỏ tất cả si mê vọng tưởng. Chánh là chánh tri, chánh kiến. Có nghĩa là chúng ta phải nhìn sự việc cũng như nghĩ về bất cứ việc gì một cách chính xác để phân biệt đâu là chánh và đâu là tà. Còn Tịnh có nghĩa là tâm thanh tịnh. Thanh tịnh ở đây là làm cho lục căn thanh tịnh để không còn bị ô nhiễm. Một khi tinh thần không còn ô nhiễm, tâm lý không còn ô nhiễm, tư tưởng không còn ô nhiễm và kiến giải không còn ô nhiễm thì tâm của chúng ta sẽ trở về với thanh tịnh.  
           
2)Tấn căn: là dũng mảnh tinh tấn trên con đường tu tập. Một khi mà chúng ta đã thực sự tin tưởng vào con đường đạo pháp thì chúng ta phải cố gắng bằng mọi giá để thực hiện những điều chúng ta tin tưởng, bằng không thì chúng ta chẳng đạt được gì cả mà chỉ phí thì giờ thôi. Con đường tu đạo không phải là dễ dàng. Nó đòi hỏi ở chúng ta một ý chí kiên trì và một năng lực dũng mảnh để tiến lên con đường đạo pháp. Càng học hỏi thì chúng ta hăng say, càng thêm sức lực và càng phấn chí không bao giờ mệt mỏi. Khi chúng ta càng thấu hiểu sự huyền diệu của giáo lý này thì chúng ta càng cố gắng tu học và đừng an phận ở những quả vị thấp. Vì với sự kiên trì chúng ta có nhiều hy vọng đạt đến những thành quả khá hơn.  
          
3)Niệm căn: là phải ghi nhớ trong ta.  Vậy chúng ta phải ghi nhớ những gì?  Chúng sinh nên phát tâm từ bi của mình bằng cách áp dụng Bố thí Ba-la-mật trong bất cứ cơ hội nào. Đem tài sản, tiền bạc bố thí cho kẻ bần cùng, khốn khổ.  Đem chánh pháp giúp cho người si mê khiến cho họ được thức tỉnh sáng suốt và cuối cùng là đem giáo lý giúp kẻ lo âu hết sợ hãi. 
   
Đối với người tu hành thì trì giới là khuôn vàng thước ngọc để giúp cho họ giữ vững lòng tin mà tu hành để đạt được thánh quả. Trì giới là một điều tối quan trọng cho việc thành công hay thất bại trên con đường tu đạo. Do đó chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ những quy luật nầy. 
   
4)Định căn: định là yên tịnh do đó định căn là lắng tâm yên tịnh để chuyên chú vào chánh pháp mà dụng tâm tu tập. Có ba loại định: 
¨     An trụ định: là để tâm an trụ vào định cảnh, đừng cho tán loạn thì phiền não sẽ được tiêu trừ.
¨     Dẫn phát định: Nếu có thể đoạn sạch phiền não thì phát sinh các công đức thù thắng.
¨     Thành sở tác sự định: Khi đã phát khởi các công đức thì nên làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, giúp họ hướng về giải thoát giác ngộ.  
   
5)Huệ căn: là trí tuệ sáng suốt. Trí tuệ nầy không có sự phân biệt bởi vì phân biệt là tác dụng của vọng thức đưa đến sự mê lầm.  Phân biệt là do vọng thức tác dụng làm tâm con người bất định mà chạy theo tham-sân-si. Chẳng hạn khi thấy chiếc xe thì tâm liền phân biệt là chiếc xe đẹp, hay xấu…Nếu chỉ biết chiếc xe là chiếc xe như trăm ngàn chiếc xe khác thì tâm an định tức là chúng ta đang sống với chân tâm. Nhưng một khi tâm có sự phân biệt tức là chân tâm biến mất và được thay thế bằng vọng thức  làm tâm bất định.  

Trí tuệ có ba thứ: 
-   Vô phân biệt gia hạnh huệ: Mặc dù quán trí nầy không còn thấy có sự phân biệt, nhưng còn có gia hạnh. Vì thế chúng sinh còn phải tu hành để thành tựu hoàn toàn vô phân biệt trí. 
  
-   Vô phân biệt huệ: Vì không còn sự phân biệt nên không còn mê vọng. Với thứ trí tuệ nầy sẽ giúp chúng sinh được an vui tự tại và chứng được chân như. 
  
-   Vô phân biệt hậ đắc trí: Sau  khi chứng được chân như thì trí tuệ nầy hoàn toàn sáng suốt, tỏ ngộ được thật nghĩa của các pháp.  
  
Tóm lại huệ căn là thứ trí tuệ do thiền định đã làm lắng sạch các vọng tưởng, các phân biệt để nhận chân được chân lý của nhân sinh vũ trụ.  
  
Ngũ căn thì như thế còn ngũ lực thì thế nào? 
Ngũ lực là năm năng lực vĩ đại và là năm thần lực của ngũ căn. Nói một cách khác chúng ta có thể coi Ngũ căn là năm ngón tay còn Ngũ lực là sức mạnh của năm ngón tay đó. Nếu không có sức mạnh thì năm ngón tay kia không còn hiệu nghiệm nữa. Vậy Ngũ lực thì gồm có: 

1)Tín lực: là thần lực của đức tin hay là sức mạnh do lòng tin tưởng phát sinh. 

2)Tấn lực: là sức mạnh kiên cố để có thể san bằng mọi trở lực và sức mạnh nầy là do tấn căn phát sinh. 

3)Niệm lực: là thần lực của sự ghi nhớ và là sức mạnh vĩ đại bền chắc của niệm căn. 

4)Định lực: là thần lực của sự tập trung tư tưởng và là sức mạnh vô song của định căn. 

5)Huệ căn: là thần lực của trí tuệ và là sức mạnh vô biên của huệ căn. 
   
Vậy Ngũ lực là sức mạnh tiếp nhận bởi sự kiên trì tu luyện của Ngũ căn. Và nó chính là ngọn lửa bùng lên sau khi chúng ta đã chú tâm hoàn tất năm điều căn bản của thiện pháp. 
   
Cuối cùng chúng ta phải lấy trí tuệ làm nền tảng và tinh tấn để thực hành những chánh pháp nầy. Chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ phát tâm bố thí để giúp đời và giúp mình, cố gắng tập trung tư tưởng để diệt trừ vô minh vọng tưởng cũng như loại phá mọi phiền não và đạt cho được trí tuệ không phân biệt để sau cùng chứng được chân như. 
  
Với những thần lực vĩ đại do ngũ căn tạo ra thì chúng ta đã có đủ phương tiện cần thiết để đạt đến mục tiêu cuối cùng là chứng được Niết Bàn và thoát ra khỏi vòng sinh tử trầm luân. Hơn thế nữa, một khi đã đến được nơi nầy thì chúng ta sẽ là ánh sáng của chúng sinh và cũng là ruộng phước để chúng sinh gieo mầm an lạc. Cuối cùng, với lòng từ bi vô lượng, chúng ta có đủ cơ năng để giúp chúng sinh trở thành những kẻ hoàn toàn giải thoát và hoàn toàn giác ngộ. 


40. Thất Bồ-đề
(Thất Giác Chi) (Seven factors of Enlightenments)

Là bảy nhánh hay là bảy phương tiện nhiệm mầu giúp chúng sinh đi đến chỗ giải thoát giác ngộ. 
Ngày xưa lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài đang tịnh tọa tại vườn Trúc Lâm, thành Vương Xá nhờ dùng thiên nhãn thông mà biết tôn giả Đại Ca Diếp lúc ấy đang lâm bệnh tại động Pipphali. Ngài liền đi đến chỗ tôn giả đang tĩnh dưỡng. Sau khi an tọa, Ngài dạy rằng:

-  Này Đại Ca Diếp! sức khỏe ông như thế nào? Cơn đau có trầm trọng lắm không? Bệnh tình của ông đang phát tác hay đã thuyên giảm? Biến chứng thuận lợi hay bất lợi?
-  Bạch Đức Thế Tôn! Cơn đau rất trầm trọng, biến chứng càng ngày càng nguy hiểm, không thuận lợi.
-   Này Đại Ca Diếp! điều mà Như Lai đã giác ngộ, đã tu chứng và đã phát triển tròn đủ là Thất Giác Chi. Đó là con đường dẫn đến thượng trí, viên minh và Niết Bàn. Thật vậy, nầy Đại Ca Diếp! đó là bảy nhân sinh trí tuệ mà Như Lai đã giác ngộ, tu chứng, phát triển tròn đủ, con đường dẫn đến thượng trí viên minh Niết Bàn.

Vậy thất giác chi là gì mà có sức mạnh như thế?

1)Niệm giác chi (Satti sambojjhanga) (Mindfulness): có công năng tiêu diệt tà niệm và vọng tâm. Tà niệm là một trở ngại lớn lao đối với sáng kiến cải tạo của con người làm cho tiến trình giải thoát bị thoái hóa. Loại bỏ tà niệm thì chánh niệm phát khởi để giúp chúng ta thấu rõ chân tướng vô thường, khổ não và vô ngã của vạn hữu trong vũ trụ. 

2)Trạch Pháp giác chi (Dhammavicaya Sambo-jjahanga) (Investigation): là phân tích, suy luận các pháp để biết đâu là chân và đâu là giả. Ngay cả những lời dạy của Đức Phật, Ngài cũng không bắt buộc hàng tứ chúng tin theo một cách mù quáng mà phải tìm hiểu xem giáo lý đó có thật sự đem lại hạnh phúc và giải thoát cho con người đúng theo tiêu chuẩn và cứu cánh của đạo Phật hay không? Chỉ có Phật giáo mới có thái độ phân tích khách quan và sáng suốt như thế. Nếu con người tin tưởng tôn giáo một cách mù quáng thì chỉ làm cho đời sống tinh thần của họ càng thêm mê muội và thoái hóa. Vì thế nếu muốn đạt đến Chánh tư duy thì phải rèn luyện tu tập pháp môn nầy. Nên suy tư quán chiếu về ngũ uẩn giai không để không còn chấp ngã tức là nghĩ rằng thân nầy là thật Có thì thân tâm mới an lạc. nên gần gủi với bậc thiện tri thức và dĩ nhiên tránh xa kẻ ác tri thức.

3)Tinh tấn giác chi (Viriya Sambojjhanga) (Effort/Energy): Mặc dù giáo lý của Đức Phật là giải thoát giác ngộ, nhưng muốn đạt đến trình độ tối thượng nầy đòi hỏi con người phải nổ lực, kiên trì để vượt qua mọi thử thách. Vì thế tinh tấn là điều kiện tối cần để thực hiện lý tưởng giải thoát giác ngộ nầy. Giáo lý của đạo Phật đòi hỏi rất nhiều cố gắng, hy sinh và kiên nhẫn để chống lại phiền não khổ đau. Nếu thiếu tinh tấn thì không thể nào dẹp tan được giặc phiền não và dĩ nhiên khổ đau sẽ gắn liền với chúng ta đời đời kiếp kiếp. Ngày xưa khi Đức Phật tịnh tọa dưới cội Bồ-đề thì Ngài thề rằng:

“Nếu ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan, ta quyết không bao giờ đứng dậy”. 
Vì tinh tấn như thế mà Ngài thành đạo.
Ngày nay chúng ta nên noi gương Đức Phật mà quyết tâm rằng:”Không có gì có thể cản trở bước tiến của ta, không khổ đau nào cò thể làm ta ngã lòng, thối chí và ta sẽ kiên trì tiến tới cho đến khi nào hoàn thành sứ mạng”.

4)Hỷ giác chi (Piti sambojjhanga) (Joy): Trong thế gian nầy không có một cố gắng hay hành động nào lâu bền mà không tìm thấy hứng thú trong việc làm của mình. Việc tu học Phật thì cũng thế, càng tinh tấn nổ lực thì kết quả càng mỹ mãn vì vậy hoan hỷ là một yếu tố giúp cho con người phấn khởi trên đường tu đạo khó khăn để dẫn đến cứu cánh sau cùng là giải thoát. Khi đi sâu vào thiền định thì Tam thiền, có nghĩa là Ly hỷ diệu lạc có công năng đối trị với sân hận, bất mãn khiến cho tâm được mát mẻ và vui thích trong đối tượng thiền định.

5)Khinh an giác chi (Passaddhi sambojjhanga) (tranquility): là nhẹ nhàng và an tịnh. Khinh an có nhiệm vụ hóa giải lửa phiền não để tâm không còn giao động. Người có tâm khinh an sẽ cảm thấy thân tâm nhẹ nhàng thư thái như khách viễn hành trút bỏ được gánh nặng, nhờ thế họ có thể thong thả đi tới đích mà không gặp chướng ngại nào.

6)Định giác chi (Samadhi sambojjhanga) (Concentration): Nếu cái kính hiển vi rung động, không đứng yên một chỗ thì ánh sáng mặt trời không thể tụ lại một điểm trên tờ giấy thì tờ giấy không thể nào bốc cháy được. Con người thì cũng thế, nếu tâm chúng ta bị giao động thì vọng tưởng tha hồ sanh khởi tức là tâm không thể tập trung  và an trú  trên một đối tượng nào. Do đó khi tâm đã định sẽ giúp chúng ta thấy rõ được bản chất chân thật của đối tượng trong thế gian nầy. Có người dùng định để phát triển thần thông, nhà thôi miên dùng định để chữa bệnh hay sai khiến kẻ khác làm theo ý họ. Còn Phật giáo chỉ dùng định để phát triển trí tuệ vì trí tuệ là điều kiện tối hậu để đạt đến lý tưởng giải thoát giác ngộ. 

7)Xả giác chi (Upekkha sambojjhanga) (Equanimity): là tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh. Nghịch cảnh không bất bình và thuận cảnh không tham ái. Họ thản nhiên trước lời tán dương hay phỉ báng. Dù lợi lộc hay mất mát, dù được địa vị hay không có danh vọng và dù vui hay khổ thì họ vẫn thản nhiên, tự tại. Tư tưởng Khổng Mạnh cũng khuyên con người dè dặt về sự khen chê trong nhân thế cho nên ngài Tuân Tử có nói rằng:
“Người khen ta mà khen đúng là bạn ta,
Kẻ chê ta mà chê đúng là thầy ta.
Còn kẻ nịnh ta là cừu địch của ta vậy”.

Kinh Phật có câu chuyện đại vương Maghadeva, người dám từ bỏ ngai vàng giữa lúc còn xuân trẻ để đổi lấy cuộc sống ẩn dật và tu tập. Rất nhiều dân chúng trong thành vì mến hành động cao cả của nhà vua nên quyết định bỏ nhà mà vào rừng tu tập với nhà vua. Sau thời gian tu tập thiền định dưới sự hướng dẫn của nhà vua, dân chúng chứng đắc quả vị Phạm Trú và tái sinh vào cõi trời  Sắc giới. Vị vua ấy tức là tiền thân của Đức Phật Thích Ca vậy. Thật vậy con người càng có khả năng từ bỏ thì càng có khả năng tu tập. Khả năng tử bỏ càng nhiều thì sự tu tập và hiểu biết của con người càng sâu sắc hơn và do đó, sự chứng ngộ sẽ càng triệt để và nhanh chóng hơn. Một khi giữ được tam xả thì phán đoán sẽ vô cùng sáng suốt và không còn chủ quan thiên lệch nữa.

Khi nghe xong, tôn giả Đại Ca Diếp hết sức hoan hỷ và nhờ vậy cơn bệnh trầm trọng bổng nhiên tan biến. Làm sao tôn giả Đại Ca Diếp có thể bình phục chỉ vì nghe được đoạn kinh trên? Nên nhớ Đức Phật chính là y vương vì với tâm đại hùng, đại lực và đại từ bi đã dùng một chân lý siêu việt để an định tâm thần cho tôn giả. Thêm vào đó chính tôn giả đã lắng nghe với tâm tôn kính, trong sạch và sáng suốt thì dĩ nhiên kết quả rất mầu nhiệm vô lường.

Tóm lại, nếu con người tu chứng và phát triển đầy đủ thất giác chi thì đây là con đường dẫn họ đến thượng trí, viên minh và chứng ngộ Niết bàn.
Phật dạy rằng: 
  
“Bình đẳng của Bồ-tát là: không thương, không ghét, không khinh, không trọng, không sợ sanh tử, chẳng cầu Niết Bàn”. 


41. Bát chánh đạo
(The Nobble Eightfold Path)

1. Chánh kiến.  2. Chánh định. 3. Chánh tư duy. 4. Chánh niệm. 
5. Chánh ngữ. 6. Chánh Tinh Tấn. 7. Chánh nghiệp. 8. Chánh mạng 
 
Bát chánh đạo được xem như là một pháp môn chính của Đạo đế. Vì tầm vóc quan trọng của nó mà rất nhiều người lầm tưởng rằng Bát chánh đạo chính là Đạo đế. Sự lầm tưởng đó không phải là không có lý do chính đáng bởi vì chính  Bát chánh đạo có thể bao gồm tất cả những pháp môn khác trong phần Đạo đế. Nếu quý vị tham khảo những kinh sách về Phật giáo của Tây phương thì họ đề cao giá trị của Bát chánh đạo như là phương cách tu hành tối thượng để đoạn trừ phiền não, khổ đau ngõ hầu có thể bước lên con đường giải thoát, an vui và tự tại. 
  
Nhắc lại trong ph??n ti???u sử Đức Phật, một trong ba ngưyện vọng mà Đức Phật phải đến Kusinagara trước khi Ngài nhập diệt là chỉ có Ngài mới có thể cảm hóa nổi người đệ tử sau cùng có tên là Tu-Bạt-Đà-La (Subhadda). Trước giờ phút lâm chung của Đức Phật, Subhadda hỏi Ngài rằng trên đời này có còn tôn giáo nào có thể đưa con người đến chỗ giác ngộ không?  Đây là một câu hỏi thiếu sáng suốt thốt ra trong những giây phút cực kỳ quan trọng nhất của cuộc đời Đức Phật. Mặc dầu mạng sống của Ngài như chỉ mành treo chuông nhưng vì từ tâm, Đức Phật vẫn ôn tồn giải thích rằng:   
 
 “Vấn đề họ có được giác ngộ hay không thì không có gì quan trọng, mà vấn đề là chính ông ta có muốn được giải thoát hay không? Nếu ông ta thật tâm muốn thế thì Bát chánh đạo là con đường sẽ đưa ông ta đến chỗ yên vui, thoát khỏi phiền não và chứng được chánh quả”.  
  
Trong 49 năm hành đạo, Đức Phật đã đem Bát chánh đạo truyền dạy cho không biết bao nhiêu đệ t và đem lại kết quả rất khả quan. Lý do Bát chánh đạo có giá trị cao như thế bởi vì chúng ta có thể dùng nó một cách hữu dụng trong đời sống hàng ngày. 
  
Đối với Phật tử tại gia như chúng ta, nếu dựa theo pháp môn nầy mà tu thì chắc chắn cuộc sống sẽ không còn lầm lạc mà tạo nghiệp để phải chịu trầm luân trong sanh tử luân hồi. Đây cũng chính là con đường thiện xảo để giúp chúng sinh có cuộc sống an lành, tự tại và tiến về giải thoát giác ngộ. 
  
 Vậy thế nào là Bát chánh đạo? 
  
Bát chánh đạo là tám con đường ngay thẳng để đưa chúng sinh đến đời sống chí diệu và cũng là tám con đường mầu nhiệm để đưa chúng sinh đến địa vị Thánh. 

Bát chánh đạo gồm có: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. 
  
1)  Chánh kiến (Right view): là thấy, nghe, hay biết một cách ngay thẳng, công minh và đúng với sự khách quan. Người có chánh kiến hễ thấy như thế nào thì nhận xét như thế ấy. Họ không thay trắng đổi đen, không thêm mắm thêm muối, biến tròn thành méo để bóp méo sự thật. Sự nhận xét của họ không bị dục vọng chi phối và không bị thành kiến làm lu mờ. Người có chánh kiến thì biết phân biệt đâu là giả, đâu là thật, đâu là chánh và đâu là tà. Người có chánh kiến thì cũng biết đâu là cảnh giả, vật dối. Do đó họ chỉ chuyên tâm vào cảnh thật, lời lẽ chân chính và đây chính là ngọn đèn trí tuệ sáng ngời đưa họ đi đến chỗ giác ngộ. 
  
Sự hạnh phúc của chính chúng ta và những người chung quanh ta tùy thuộc vào sự nhận định chính xác hay sai lầm mà chúng ta đã phát huy qua tư tưởng. Nên nhớ rằng những nhận xét sai lầm là cội nguồn tạo ra cái khổ cho chúng ta. 
  
Bởi thế, Phật dạy rằng:”Khi thấy, nghe, hay biết mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết Bàn”. 
  
1) Chánh tư duy (Right thiking): là suy nghĩ, xét nghiệm tư tưởng một cách chân chính và đúng với lẽ phải. 
 Xin nhắc lại, vô minh là nguyên nhân của đau khổ và là nguồn gốc của tội ác mà đại lộ đưa tới vô minh chính là sự nhận định sai lầm. Chúng ta phải dùng trí tuệ để xét đoán vật thể một cách chính xác và dùng đạo lý cao siêu để suy tìm thể tánh nhiệm mầu của nó. Khi đã hiểu rõ chánh tư duy thì chúng ta biết thế nào là hành vi lỗi lầm hoặc những ý nghĩ xấu xa để tự kiểm và tự hối. 
 Ngày xưa Ngài Huệ Khả, cũng còn gọi là Thần Quang và là vị tổ thiền tông thứ hai ở Trung hoa, nghe danh Tổ Đạt Ma nên đến cầu đạo nhưng Tổ không tiếp. Ngài Huệ Khả quỳ gối liên tiếp mấy năm ở ngoài hiên chùa nhưng Tổ không để ý đến. Sau cùng, để tỏ lòng thành tột mực của mình dám xả thân cầu đạo, Ngài Huệ Khả đã chặt đứt cánh tay của mình. Lúc bấy giờ Tố Đạt Ma mới xoay lại hỏi: 
    - Ông đến đây cầu gì? 
 
Ngài Huệ Khả đáp:   
 
- Con cầu pháp để được an tâm.   
  Tổ Đạt Ma bảo:   
- Ông đem tâm đến đây để ta an cho.   
  Ngài Huệ Khả thưa:   
- Con tìm tâm không được.   
  Tổ Đạt Ma nói:   
-Ta đã an tâm cho ông rồi đó.   

Làm thế nào mà Tổ Đạt Ma đã an định cho tâm của Ngài Huệ Khả nhanh như thế?   

Đối với Ngài Huệ Khả thì tâm quá khứ đã diệt, đâu còn gì để nói. Còn tâm tương lai thì chưa đến chỉ còn cái tâm hiện tại mà thôi. Nhưng hiện tại thì cái tâm của Ngài Huệ Khả đang quay cuồng như chong chóng. Cái tâm của giây phút trước thì hoàn toàn khác hẳn với cái tâm của giây phút sau. Thế thì Ngài Huệ Khả biết cái tâm nào mà đem cho Tổ Đạt Ma an định. Đó là lý do Ngài nói: con tìm tâm không được. Như thế thì Ngài Huệ Khả đã hiểu được chân lý cao siêu của luật vô ngã. Theo luật nầy thì trong ta, ngũ uẩn biến đổi không ngừng thành thử cái tâm cũng vì thế mà biến chuyển theo. Vì thế tâm là vô ngã. Mà tâm của chúng ta có hai phần, đó là chơn thể và vọng tưởng. Chơn thể vì không có hình tướng nên cho dù chúng ta có cố gắng tìm khắp mọi nơi cũng không thể nào thấy nó được. Vì vô minh vọng động nên tâm biến ra những cảnh hữu hình như thân và cảnh nhưng bản thể của chơn tâm vẫn thanh tịnh và không động. Nói một cách khác là vọng niệm sanh ra các pháp sanh diệt. Nếu chúng ta diệt trừ được vọng niệm thì các pháp sanh diệt kia sẽ trở về với chơn tâm. Cũng như vì có gió nên tạo ra những làn sóng trên mặt nước. Nếu gió ngừng thì sóng sẽ lặng và mặt nước sẽ trở lại yên lặng như xưa. Chỉ khi nào chúng ta loại bỏ những phiền não, diệt trừ tham, sân, si, ái dục và đánh tan mọi vọng tưởng thì lúc đó cái tâm c??a chúng ta sẽ không còn quay cuồng nữa và cuộc đời sẽ trở lại  an vui, thanh tịnh. Đây chính là con đường giải thoát giác ngộ và đạt đến chân hạnh phúc. Hiểu như vậy tức là tâm đã được an định rồi. Nên nhớ đây chỉ là biết cách để an tâm mà thôi chớ chưa phải là ngộ đạo. 
  
Qua câu chuyện trên chúng ta thường nghĩ lầm vọng tưởng là tâm. C??c vọng tưởng ấy làm cho chúng ta xao xuyến, âu lo mãi nên chúng ta gọi đó là tâm bất an. Tâm bất an là vì chúng ta cho vọng tưởng là tâm của mình. Muốn loại bỏ sự mê lầm nầy thì chúng ta phải nhớ rằng các tưởng tượng lăng xăng đó là vọng tưởng, là phiền não chớ không phải là tâm. 
   
2) Chánh ngữ (Right speech): là lời nói chân thật, ngay thẳng và hợp lý. Người tu theo chánh ngữ thì không bao giờ nói sai và thiên vị. Họ không thấy hay nói dở. Họ không xuyên tạc và không nghe một đường đi nói một nẽo. 

Ngày xưa trước khi Đức Phật nhập diệt thì có đệ tử hỏi Ngài: 
  
 - Bạch Đức Thế Tôn, khi Thế Tôn nhập diệt, người đời sau gặp nhiều sách vở ngoại đạo không sao phân biệt được với kinh Phật. Như thế thì biết tin theo lời nào ể tu? 
   
Phật dạy:”Chẳng luận là lời nói của ai, miễn lời nói ấy đúng với sự thật, hợp chân lý thì cứ tin theo mà tu”. 

Chánh ngữ là một trong thập thiện nghiệp thì vai trò của nó thật là quan trọng. Bởi vì khẩu thường là cơ nguyên khiến cho con người tạo ra ác nghiệp. Nếu chúng ta dùng lời vu khống kẻ khác là ác nghiệp còn đem lời chân thật để hòa hợp và thông cảm cho mọi người là thiện nghiệp. Dùng lời thô lỗ để nhục mạ kẻ khác là ác nghiệp, trái lại dùng lời lẽ êm dịu để an ủi, khuyến khích mọi người là thiện nghiệp. 

Có một câu chuyện sau đây nói về sự tai hại của việc nói sai. Ngày xưa có vị Hòa thượng tên là Tổ Bá Trượng thường đi đó đây để thuyết pháp cho chúng sinh. Một ngày kia sau khi thuyết pháp xong thì bá tánh ai về nhà nấy chỉ còn một ông già ngồi lại không chịu đi. 
Hòa thượng hỏi: 
 
- Sao ông chưa về? 
  
Ông già thưa: 
   
- Con có một điều xin Ngài giải quyết dùm. 
   
Tổ hỏi: 
   
- Ông cần ta giúp việc gì? 
   
Ông già đáp: 
   
- Con không phải là người thường mà chính con là Hồ tinh ở núi nầy. Ngày xưa khi con còn là Tỳ kheo theo thời Phật Tỳ Bà Thi thì có người hỏi con rằng: Người tu hành có rơi vào nhân quả không? Con trả lời: không. Do câu trả lời đó mà con bị đọa làm Hồ tinh đã năm trăm kiếp để làm chồn hoang ở trên núi nầy. Chỉ vì nói trật một chữ mà con bị đọa nay nhờ Hòa thượng thương xót nói một câu để cho con giải được kiếp Hồ tinh. 
   
Tổ bảo: 
  
 - Vậy ông hỏi lại ta đi. 
  
  Ông già hỏi: 
  
  - Người tu hành có rơi vào nhân quả không? 
  
 
Tổ đáp: 
  
 
- Mọi người ai cũng phải theo nhân quả cả. 
  
Ông già liền chuyển thân mãn kiếp Hồ tinh và ông thưa: Con sẽ chết và thây con ở ngoài sau núi. Xin Ngài tống táng cho con như một vị tăng. 
Thật đáng sợ cho một lời nói sai. 
  
Đã là lời nói thì chúng ta không thể nào bỏ qua những lời nói theo Chân, Thiện, Mỹ. 
  
a)  Lời nói chân, thiện, mỹ: là lời nói chân thật chẳng những đẹp lòng người nghe mà còn làm cho họ thêm hoan hỷ. 
  
b)  Lời nói chân, thiện, nhưng không mỹ: là lời nói chân thật, có lợi cho người nghe nhưng không làm cho họ vừa ý. Cổ nhân có câu: “Trung ngôn nghịch nhĩ” là loại nầy vậy. 
   
c)  Lời nói chân, mỹ, nhưng không thiện: là lời nói chân thật và đẹp lòng người nhưng vô ích.  Khi chúng ta kể một câu chuyện thật làm người nghe thích thú nhưng câu chuyện không đem lại sự lợi ích gì cả mà chỉ mất thời giờ hoặc đôi khi còn có hại về sau. 
  
d)  Lời nói chân, nhưng không thiện, không mỹ: là lời nói thật nhưng vô ích và làm bực mình người nghe. Đôi khi chúng ta đem đời tư của chúng ta ra khoe khoang với bạn bè. Tuy là chuyện thật nhưng không ích gì cho họ mà chỉ chuốc lấy buồn phiền. 
  
e)  Lời nói không chân nhưng thiện và mỹ: là lời nói tuy giả dối nhưng có lợi ích và làm đẹp lòng người. Ngày xưa có chuyện Lưu Bình, Dương Lễ là bạn kết nghĩa. Lưu Bình thì ăn chơi trác táng và bỏ bê học hành còn Dương Lễ thì siêng năng học tập và thi đậu làm quan trong khi Lưu Bình thì thi đâu rớt đó. Sau khi thi rớt, Lưu Bình thất chí, rượu chè be bét và gặp được một cô gái tài sắc vẹn toàn. Hai người hứa hẹn để Lưu Bình tu chỉnh học hành trở lại. Một là hận Dương Lễ đối xử bạc bẽo, hai là cố gắng để làm đẹp dạ người yêu, nên Lưu Bình ngày đêm dồi mài kinh sử. Ngày vinh hoa bái tổ, tưởng rằng sẽ gặp lại nàng, nào ngờ người đẹp kia chính là vợ của bạn mình đã nghe lời chồng lập kế để khích lệ tinh thần cho mình cố tâm dồi mài kinh sách. Thật là một hành động tuyệt đẹp phi thường độc nhất vô nhị trên thế gian nầy. Vài lời nhắn nhủ: trong thời mạc pháp nầy chúng tôi khuyên các bạn trẻ đừng nên bắt chước câu chuyện nầy bởi vì các bạn chẳng những mất bạn mà còn mất cả vợ nữa. Vì thế cổ nhân có nói:”Tri nhân, tri diện, bất tri tâm” tạm dịch là thấy người thấy mặt nhưng không thấy lòng.  
   
f) Lời nói không chân, không thiện, nhưng mỹ: là li nói giả di, vô ích mà người nghe lại thích. Nhiều người nói ba hoa, khoác lác vô tích sự nhưng vì tài ăn nói thành thử làm người muốn nghe. 
  
g)  Lời nói không chân, không mỹ, nhưng thiện: là lời nói giả dối làm bực mình người nghe nhưng lại có ích lợi. 
  
h)  Lời nói không chân, không thiện, không mỹ: là lời nói giả dối, vô ích và làm người nghe bực mình. Như trường hợp nói vu khống để nhục mạ người khác. 
   
3)  Chánh nghiệp (Right action): là hành động, việc làm chân chính, đúng với lẽ phải, phù hợp với chân lý và có lợi ích cho người và cho vật.
Hành động tức là gây nghiệp xuất phát từ thân. Đây là một trong ba cơ năng của con người: thân, khẩu , ý đã thường khích động để chúng ta có những hành động sai lầm mà tạo nên ác nghiệp. Mà ác nghiệp có nghĩa là luân hồi sanh tử. 
  
Chúng ta thường nghe là rượu hễ uống một ly thì ngon còn uống nhiều ly thì có hại. Nhưng khổ nổi là khi đã vô ly đầu rồi thì khó lòng mà tránh được ly thứ hai, thứ ba. Biết là có hại mà chúng ta vẫn cụng ly như thường. Cái dở, cái xấu, cái hay, cái đẹp cũng là do ly rượu đầu tiên mà ra. Chánh nghiệp giúp chúng ta sáng suốt nhận định rõ ràng giữa lợi và hại để tránh những việc làm tai hại cho ta về sau. 
  
Chánh nghiệp cũng còn là một điều chính trong thập thiện nghiệp bởi vì chúng ta đã thấy sự quan trọng của nghiệp căn và nghiệp quả để đưa đến sinh tử luân hồi. Nếu thân hành động sai lầm thì nghiệp báo sẽ dẫn chúng ta đi lên đi xuống trong sáu đường vì thế biết chừng nào chúng ta mới thoát ra được. Người theo chánh nghiệp thì luôn luôn thận trọng và giữ gìn mọi hành động của mình để khỏi tổn hại đến quyền lợi, thanh danh, cũng như tánh mạng của kẻ khác. Chỉ có làm việc tốt, việc làm thiện thì chúng ta tự tay chặt đứt được vòng luân hồi sanh tử và chứng được Niết Bàn. 
  
4)   Chánh tinh tấn (Right diligence): là chuyên cần, siêng năng và cố gắng đạt đến mục đích đã vạch sẵn chớ không bao giờ dừng bước. Việc làm chính nghĩa có lợi cho mình và cho người thì không bao giờ từ chối.  
  
Chúng ta phải sáng suốt để ngăn ngừa những tội ác chưa phát sinh. Chẳng hạn như chúng ta đi mall để mua đồ dùng. Khi mới đậu xe xong thì chúng ta thấy chiếc xe đậu kế bên thật là tuyệt đẹp và mắc tiền. Vì lòng đố kỵ có thể thúc đẩy chúng ta lấy cái chìa khóa để gạch một lằn trên chiếc xe kia cho bỏ ghét. Đây là một hành vi tội lỗi bởi vì người chủ chiếc xe đó khi khám phá ra thì họ sẽ đau khổ biết bao đó là chưa kể nếu có người bắt chúng ta tại trận thì chúng ta có thể đi nghĩ mát trong tù. Khi tham, sân, si, nổi lên thì chúng ta phải dùng trí tuệ để trấn áp nó xuống. Chúng ta nên dùng lòng từ bi để xóa dịu đố kỵ, căm hờn và nhớ rằng làm cho người đau khổ tức là làm cho chính mình đau khổ về sau vậy. 
  
Chúng ta phải sáng suốt để diệt trừ những tội ác đã phát sinh. Thói đời nếu có ai làm cho chúng ta đau khổ thì phản ứng tự nhiên là chúng ta phải tìm mọi cách để trả thù báo hận. Nghĩ cách để trả thù là đã tự tạo cho mình tội lỗi rồi bởi vì làm thỏa mãn dục vọng của mình mà làm hại kẻ khác. Quý vị thử nghĩ lại, tuy họ có làm hại cho mình đi chăng nữa thì chính họ đã tạo ra cho họ một ác nghiệp mà chính cái ác nghiệp nầy đã ràng buộc họ trong vòng sinh tử luân hồi mà tương lai khó lường được. Khi nghĩ như thế thì chính họ đã bị quả báo rồi đâu cần chúng ta phải trả thù làm chi nữa để tự mình tạo ra ác nghiệp. Thông minh, trí tuệ và từ bi sẽ ngăn cản chúng ta lại thay vì ghét họ thì chúng ta sẽ thấy tội nghiệp thay cho họ. 
  
Chúng ta phải phát triển những điều lành chưa phát sinh. Chúng ta may mắn được sống trên đất nước thịnh vượng nầy nhưng thân nhân của chúng ta thì còn sống cực khổ, nghèo nàn, bệnh tật thiếu thốn thuốc men ở quê nhà. Một trong những điều thiện là cố gắng để giúp đở cho họ. Càng giúp đở thì quý vị càng tạo nhiều thiện nghiệp. Tạo việc lành, tạo thiện nghiệp tức là tạo thêm sức mạnh để chặt đứt giây luân hồi. 
  
Chúng ta phải tiếp tục phát triển những điều lành đã phát sinh. Chúng ta làm việc thiện là việc làm vô lượng. Thấy người hoạn nạn thì cứu. Thấy người nghèo khổ thì giúp đở. Nói chung chúng ta nên áp dụng Bố thí Ba-la-mật trong tất cả mọi trường hợp để gieo thêm giống tốt cho ta. Càng nhiều hạt giống từ bi thì thủa ruộng công đức và phước đức sẽ được phì nhiêu. Thật vậy: 
  
“Dù xây chìn bậc phù đồ 
  
Không bằng làm phước cứu cho một người”. 
  
6)  Chánh mạng (Right livehood): là làm ăn sinh sống một cách lương thiện và không làm giàu trên mồ hôi nước mắt của kẻ khác cũng như không làm cho người và vật bị đau khổ vì nghề nghiệp của mình. Chẳng hạn như xe có trục trặc việc gì thì chúng ta đem nó đến thợ để sửa. Thay vì chỉ sửa những chỗ hư thì người thợ máy lại cố tình vẽ ra cho thêm trầm trọng để lấy tiền cho nhiều. Đây là tội lỗi, là ác nghiệp. Nhớ lại ngày xưa ở quê nhà c mỗi lần kinh tế khó khăn là bọn đầu cơ tích trữ gạo, đường để bán giá cắt cổ sau đó. Cuộc sống của người dân đã nghèo đói đau khổ thì lại c??ng đau khổ hơn. Cũng như chiến tranh Việt Nam, con dân Việt bị chết chóc cả hai miền và bao nhiêu lính Mỹ đã hy sinh thì bọn tư bản đã lợi dụng chiến tranh để làm giàu. Chiến tranh càng dài thì túi họ càng to cho dù ai chết mặc ai. 
  
Trong xã hội thì có biết bao nghề lương thiện. Chẳng hạn như nghề giáo là một nghề cao quý và đáng kính trọng. Chúng ta cần cái nghề để nuôi cái thân tứ đại của mình nhưng vì sự vô thường của thân nên chúng ta phải tinh tấn làm việc đúng theo lương tâm nghề nghiệp. Chúng ta phải tự hào về nghề lương thiện của mình. Không bao giờ hại người để lợi cho mình tức là chúng ta không tạo nên ác nghiệp. 

7)Chánh niệm (Right mindfulness): là ghi nhớ những điều hay lẽ phải và những đạo lý chân chính.   
Ngài Đại Mai sau khi ngộ đạo với ngài Mả Tổ liền lên núi cao ở ẩn. Mả Tổ nghe tin ngài ở trên núi bèn sai một vị tăng đến để thăm dò. Vị tăng tìm đến và trò chuyện với ngài Đại Mai: 
  
Vị tăng hỏi ngài Đại Mai:   
  - Ngài đã học được gì ở ngi Mả tổ mà về đây vậy? 
   Ngài Đại Mai trả lời:  
- Ta nghe ngài Mả Tổ dạy” tức tâm tức Phật” nên ta về ở núi nầy để tu vậy. 
    Vị tăng nói: 
   - Gần đây ngài Mả Tổ đã dạy “phi tâm phi Phật” rồi. 
  
Ngài Đại Mai trả lời: 
- Có lẽ ngài Mả Tổ bị mê hoặc chăng? Nhưng mặc cho ông phi tâm phi Phật, còn đối với ta chỉ có tức tâm tức Phật mà thôi.   
 
Khi vị tăng về thuật lại cho ngài Mả Tổ nghe thì ngài rất hài lòng mà nói:” trái Mai đã chín”. 
   
Một khi Ngài Đại Mai đã thấu hiểu về chân lý thật thì chính Ngài đã tự tạo cho mình một niềm tin vửng chắc và dùng nó làm căn bản cho bước đường tu tập. Mặc dầu là vị thầy của mình có dạy khác đi thì vẫn không thay đổi, lung lay niềm tin đó được. Còn chúng ta ngày nay, nếu không thấu hiểu được lẽ nhiệm mầu của giáo lý Đức Phật thì làm sao chúng ta có được một niềm tin chắc chắn như ngài Đại Mai? Tin tưởng sai lầm còn tệ hại hơn là không tin tưởng gì hết. Phật giáo là giáo lý nhiệm mầu mà nhiều người biến nó thành mê tín dị đoan. Đức Phật thì lúc nào cũng chỉ dạy chúng sinh là phải dùng trí tuệ để xét đoán bởi vì dùng cảm tình để định việc là mê muội. Chẳng hạn như mỗi khi chúng ta nhìn hình tượng của Đức Quán Thế Âm thì không phải chúng ta cầu nguyện để Ngài độ trì hay ban phước gì cho ta. Nhưng mỗi khi nhìn thấy hình Ngài thì chúng ta phải cố gắng noi theo tâm đại từ đại bi của ngài Quán Thế Âm. Vì thế chúng ta phải mở rộng lòng từ bi để cứu giúp và thương yêu mọi người. Bởi vì chúng ta làm cho người được hạnh phúc tức là tự tạo hạnh phúc cho chính mình vậy. Đạo Phật là đạo vị tha chớ không phải vị kỷ. Nếu cầu nguyện để làm lợi cho mình thì ai mà chứng? 
  
8)Chánh định (Right concentration): là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng và đúng với chân lý. 
  
 
Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta phải đương đầu với bao nhiêu phiền não mà nguồn gốc phát sinh từ tham, sân, si. Chính cái tam độc nầy làm cho đầu óc chúng ta không được trong sáng. Giống như cái máy chụp hình mà không điều chỉnh đúng tiêu độ thì thấy lờ mờ khi chúng ta nhìn qua thấu kính đó. Muốn có một tấm hình đẹp thì chúng ta phải chỉnh lại cái tiêu độ. Con người thì cũng thế. Nếu muốn đạt đến kết quả mỹ mãn thì chúng ta phải sống cuộc đời đạo hạnh và  lúc nào cũng mở rộng lòng từ bi để giúp đở kẻ khốn cùng hoạn nạn.   
 
Chúng ta có thể áp dụng chánh định vào trong luật vô thường cho đời sống hàng ngày. Mỗi khi nhìn tính vô thường trong những người thân yêu thì chúng ta có thể hình dung cuộc đời sẽ đem lại sự già yếu, bệnh hoạn cho họ. Do đó chúng ta càng cảm thương cho họ hơn bởi vì số phận của họ thì như vậy còn số phận vô thường của chúng ta  cũng chẳng sáng sủa gì hơn. 
  
 
Nếu áp dụng chánh định vào vô ngã thì chúng ta sẽ được an vui và thoải mái. Tại vì một khi đã hiểu trong ta không có cái ta thì chúng ta không còn vướng bận để làm nô lệ cho những đòi hỏi phát sinh từ dục vọng nữa. Chúng ta dồn tất cả những nổ lực để làm việc hữu ích, giúp người. Như thế thì việc ta làm có lợi ích cho ta thay vì cho cái ta. 
  
Và điều quan trọng cuối cùng là chúng ta áp dụng chánh định vào việc chứng Niết Bàn. Bởi vì đây là cảm ứng tột đỉnh mà chúng ta cố gắng đạt đến để thoát ra khỏi luân hồi sanh tử. 
  
Ngày nay có rất nhiều Phật tử đi sang Ấn độ để thăm những danh lam thắng cảnh. Họ đến nơi Đức Phật thành đạo (Bồ-đề dạ tràng), nơi Đức Phật sinh ra (Lumbini garden) và nơi Đức Phật nhập diệt Câu Thi Na. Họ chụp hình tại cội Bồ-đề nơi Đức Phật thành đạo và tất cả những thánh địa khác. Họ khoe là đã đứng cạnh tượng Đức Phật to lớn và thấy được Xá lợi của Phật. Nhưng trên thực tế thì không nhứt thiết là phải đến tận Ấn độ mới thấy được Phật. Nếu chúng ta lìa xa tất cả những vô minh, vọng tưởng và chấp trước thì Phật sẽ hiện ra trong tâm của chúng ta. Đây mới chính là Phật Tánh, Phật tâm bất sinh bất diệt vĩnh hằng trong tâm của chúng ta. Còn những hình ảnh mà chúng ta thấy thực ra chỉ là Phật Tướng sinh diệt mà thôi. Mà hình ảnh thì không thể nào là chân như cho được. Vì vậy cho dầu có đến Ấn độ mà không tu đạo thì cũng không bao giờ thấy Phật được.  
  
 
Cuối cùng trong Bát chánh đạo có hai pháp môn rất là quan trọng đó là Chánh kiến và Chánh định. Bởi vì Chánh kiến là trông thấy ngay thẳng tức là Tri Kiến Phật nhưng nếu mà muốn đạt được Tri Kiến Phật thì chứng ta phải thực hành Chánh định cho đến khi viên mãn thì tâm sẽ định. Tâm định thì trí tuệ mới phát sinh để giúp chúng ta thấy được chân lý và được giải thoát giác ngộ.  
  
Khi nhìn sự vật gì thì chúng ta phải nhìn thẳng vào thật tướng của nó để tìm cái chơn tướng bằng không thì cái nhìn đó chẳng qua là thấy c????i ảo tưởng mà thôi. Mà thấy được chơn tướng là Giác còn trái lại là Mê. Nhưng Giác là Phật còn Mê là chúng sanh. Chúng sanh vì mê lầm ngộ nhận những ảo tưởng ấy là chơn tướng rồi theo đó mà hành động. Nhưng càng hành động thì họ càng chìm vào trong luân hồi sanh tử, không biết đâu là bờ đâu là bến. 
  
Bát chánh đạo là con đường giúp chúng sinh giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi cho nên chính Đức Phật vì muốn cho con người thấy rõ tầm quan trọng của nó nên dạy rằng: 
   
“Con đường cao thượng nhất là Bát chánh đạo. Chân lý cao thượng nhất là Tứ Diệu Đế…Đó là con đường duy nhất, không còn con đường nào khác dẫn đến kiến tịnh. Hãy đi theo con đường ấy để sớm thoát khỏi mọi điên đảo của phiền não khổ đau”. 
Và l??i sau cùng Đức Phật đã nói cho Tu-Bạt-Đà-La trước khi Ngài nhập diệt:   
 
“Không thể có được bậc Thánh trong bất cứ một tôn giáo nào nếu không có Bát chánh đạo. Nầy Tu-Bạt-Đà-La, trong giáo lý nào có Bát chánh đạo thì tất có hàng Thánh nhân. Ở đây, trong giáo lý của Như Lai lại có con đường Bát chánh, tất nhiên phải có các bậc Thánh mà trong giáo lý khác không thể có được. Nếu các đệ tử sống chân chánh thì thế gian không thiếu Thánh nhân”.  
  
 
Vậy Bát Chánh Đạo sẽ là con đường đưa chúng sinh vượt xa bến bờ mê muội của phàm phu tìm đến cảnh giới an vui tự tại ngỏ hầu có cơ hội chứng được Niết Bn và giải thoát ra khỏi sinh tử luân hồi.  
  
“Chúng sanh tuy sẵn có Phật tánh nhưng phải nhờ có tu mới hiện. Cũng như chất vàng tuy sẵn có trong khoáng nhưng phải nhờ lọc hết quặng mới thành vàng y được. Khi đã thành vàng y rồi thì không trở lại làm quặng nửa. Cũng như khi đã thành Phật rồi thì không trở lại làm chúng sinh. 

42. Bồ-tát Di Lặc

Trong vô số kiếp trước, có Đức Phật ra đời hiệu là Đại Thống Trí Như Lai thì lúc bấy giờ Đức Di Lặc (tiền thân) và Đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ-đề. Đến khi Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh ra đời thì Đức Di Lặc (tiền thân) mới phát tâm xuất gia. Mặc dầu đã xuất gia nhưng tánh Ngài lại hay cẩu thả và quen theo lối phong lưu đài các. Cộng thêm tính phóng túng cũng như chẳng chịu chú tâm tu hành nên Ngài thành Phật trễ sau Đức Thích Ca gần mười tiểu kiếp. Về sau, nhờ Đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy Thức nên Ngài mới chứng được “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.
         
Vì nhận thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước đều như chiếc bóng trong gương, như trăng dưới nước nên Ngài tận diệt hết vọng tưởng say mê và hư vọng giả cảnh.  Bởi thế Ngài được Phật thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phật ở thế giới Ta bà nầy.
         
Thân hiện tại của Đức Di Lặc: Khi Đức Phật Thích Ca giáng sinh ở ấn Độ cách đây trên 2500 năm thì Ngài hiện thân vào gia đình của người Bà-la-môn tên là Ba Ba Lơi ở về phía Nam Ấn Độ nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của Ngài là A Dật Đa (không ai hơn) và tên là Di Lặc (từ thị). Tên họ nầy tiêu biểu cho lòng từ bi hỷ xả vô biên của Ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến ngày thành Phật, Ngài vẫn lấy hiệu là Di Lặc. 
           
Kinh Di Lặc thượng sanh có nói: Ngày rằm tháng hai sau khi giảng kinh nầy 12 năm thì Ngài nhập diệt nơi Ngài sinh trưởng. Sau đó, Ngài sẽ sanh lên cõi trời Đầu suất để chờ khi tuổi thọ của con người trên thế gian nầy giảm rồi tăng trở lại. Trong khoảng kiếp tuổi thọ tăng thì loài người sẽ sống đến tám vạn tuổi. Và đến bấy giờ thì Ngài mới giáng sinh xuống cõi nầy. Sau đó Ngài đến cây Long Hoa tu thành ngôi Chánh Giác. Khi Ngài thành Phật thì Ngài sẽ hóa độ chúng sinh vô lượng đến sáu vạn năm mới nhập diệt. 
  
Hóa thân của đức Di Lặc: Ngài đã hiện ra thành nhiều thân để lẫn lộn với loài người ngõ hầu có cơ hội hóa độ chúng sinh. Trong các hóa thân của Ngài thì Phật tử ở Trung Hoa cũng như ở Việt Nam biết và thờ nhiều hơn hết là thân Ngài Bố Đại Hòa thượng. Chính Ngài đã hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh châu huyện Phụng Hóa bên Trung Hoa. Ngài thường quẩy cái đáy bằng vải và đi khắp chợ búa xóm làng. Ngài thường tụ hợp các trẻ con lại rồi phân phát cho chúng bánh kẹo. Ngài giảng dạy Phật pháp và nói chuyện rất vui thú nên Ngài đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó. Ngài thường giảng kinh cho người nghèo và làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc bấy giờ không ai biết Ngài là người như thế nào cả, do đó họ chỉ cùng nhau kêu là Bố Đại Hòa thượng (ông Hòa thượng mang đáy bằng vải). Mãi cho đến đời Lương Niên Hiếu Trịnh Minh năm thứ ba thì Ngài tụ họp chúng sinh tại chùa Nhạc Lâm. Ngài ngồi ngay thẳng và nói bài kệ như sau: 
   
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhơn
Thời nhơn giai bất thức.
Dịch là:          Di Lặc thật là Di Lặc
Biến hòa trăm ngàn ức thân
Thường hiện trong đời
Mà người đời chẳng ai biết. 
  
Nói xong bài kệ rồi thì Ngài an nhiên nhập diệt. Sau đó kẻ tăng người tụcđều cùng nhau đến lể bái cúng dường. Họ dựng tượng Ngài để thờ tại điện ở phía Đông chùa Nhạc Lâm. 
  
Vì căn cứ theo ứng thân nầy nên trong các chùa ở Trung Hoa thường thờ tượng Ngài Bố Đại Hòa thượng với vẻ mặt hiền hòa hân hoan. Miệng thì cười vui vẻ và đó là tượng trưng cho đức hoan hỷ. Ngài thì người béo, bụng to và tay cầm cái đảy. Chung quanh có sáu em bé đang leo trèo trên mình Ngài. Đó là tượng trưng cho lục tặc khi đã bị Ngài hàng phục. Sự hóa thân nầy là một trong trăm ngàn hóa thân của Đức Di Lặc. 
  
Tương lai của Đức Di Lặc: Hiện nay Đức Di Lặc là một vị Bồ-tát đang ở trên cung trời Đầu suất. Ngài đợi đến khi thế giới nầy hết kiếp giảm thứ 9 rồi đến kiếp tăng thứ 10, khi đó con người sẽ hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, thì Ngài mới giáng sinh xuống cõi nầy. Ngài sẽ đầu thai vào nhà của một vị Bà la môn có tên là Tu Phạm Ma và thân mẫu của Ngài tên là Phạm Ma Bạt Đề. Khi sanh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn và thông minh quán chúng. Lớn lên Ngài xuất gia tu hành và đến núi Kê Túc để nhận lảnh Y bát của Đức Phật Thích Ca do ngài Đại Ca Diếp trao lại. Sau đó Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim cang trí để trừ sạch vi tế Vô minh và chứng đạo Vô thường Bồ-đề. Ngài thuyết pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới gốc cây Long Hoa. Lần thứ nhất thì Ngài độ cho được chín mươi sáu ức người trở thành A-la-hán. Lần thứ hai độ cho chín mươi bốn ức người thành A-la-hán. Và lần thứ ba Ngài độ cho chín mươi hai ức người thành A-la-hán. Thế nên gọi là”Long hoa tam hội”. Ngài thuỵết pháp đến sáu vạn năm và hóa độ vô số chúng sanh.

43. Tổ Bồ Đề Đạt Ma
(Bodhidharma)

Khi nói về Thiền tông mà không viết về Tổ Bồ Đề Đạt Ma là một sự thiếu sót lớn. Ngài là người đã khai sáng ra Thiền tông ở Trung quốc vào khoảng đầu thế kỷ thứ 5 sau Tây lịch.  Chính Ngài đã đem một luồng sinh khí mới cho hệ thống tư tưởng của Trung Hoa mà ngay chính cả Phật giáo lúc bấy giờ cũng có cái nhìn mới từ phương cách tu hành cho đến ý nghĩa cao siêu của đạo Phật. 
         
Ngày nay chúng ta đang sống trong một thế giới tương đối khá phức tạp. Cuộc sống vật chất ràng buộc cộng thêm sự căng thẳng về tâm linh giữa xã hội và gia đình làm cho tâm tư của chúng ta bồn chồn lo lắng, khó được yên vui. Từ lúc thức dậy đến khi đi ngũ thì ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của chúng ta. Đức Phật gọi đó là vọng tưởng, phiền não. Muốn cho tâm được yên tịnh và trí tuệ được sáng suốt thì chúng ta cũng nên quan tâm đến thiền định. Thiền ở đây không phải là ngồi kiết già và quay mặt vô tường chín năm như tổ Bồ Đề Đạt Ma đã làm khi xưa, mà điều căn bản là chúng ta phải loại bỏ bớt vọng tưởng và phiền não. Cũng như khi đi, khi đứng, khi ngồi chúng ta phải thư thả, tìm thú an nhàn thanh tịnh nơi cảnh vật chung quanh. Chúng ta thường nghe nhiều người thực tập hành thiền, tọa thiền…
       
Nếu chúng ta đi bộ với dáng dấp tự nhiên thanh thản, tâm tư lắng đọng, trút bỏ hết phiền não và tâm chỉ nghĩ về việc tốt hay Phật thì chúng ta đang hành thiền vậy. Thiền không nhất thiết chỉ dành cho hạng thượng căn lợi trí mà rất nhiều giới trẻ ngày nay đang thực tập môn hành thiền cũng như tọa thiền. Thiền không đòi hỏi chúng ta là những người mới bắt đầu phải ngồi kiết già nhiều giờ như những vị đại sư. Chúng ta có thể ngồi bán kiết già hay ngồi bất cứ tư thế nào miễn thoải mái là được. Nhắm mắt để tâm tư yên tịnh và toàn thân  thanh thản làm cho khí huyết lưu thông điều độ còn tâm chỉ nghĩ về Phật hay những điều thiện thì chúng ta có thể thực tập môn tọa thiền được rồi. 

Tổ Bồ Đề Đạt Ma sanh tại miền Nam Ấn Độ và là con của vua Hương Chí. Sư phụ của Ngài là tổ Bát Nhã Đà La đã khuyên Ngài sau nầy nên sang Trung Hoa để truyền pháp. Khi đã đạt được đạo, Ngài dùng đường thủy để rời Ấn Độ và mất đến gần ba năm mới đến được Quảng Châu. Lúc bấy giờ Hoàng đế Trung quốc là Lương Võ Đế, khoãng năm 520 sau T.L, vì nghe danh nên mời Ngài đến diện kiến. 
Vua Võ Đế hỏi: 
- Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng Ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng?” 
Tổ đáp:
- Đều không có công đức! 
Tại sao? Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người, cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng có thật! Thế nào là công đức chân thật? Trí thanh tịnh trọn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng thể do thế gian mà cầu”. Lý do mà Tổ nói như vậy là vì lúc bấy giờ Pháp tu của số đông theo đạo Phật chú trọng về hình thức và chấp tướng (có giống như thời nay không?) nên Tổ chỉ thẳng chỗ thiếu sót đó cũng như muốn nhắn nhủ là cần phải thấy tâm thì mới là công đức chân thật.

Sau câu chuyện trao đổi trên, tuy thấy nhà vua là người có lòng với đạo Phật, nhưng căn cơ còn thấp kém nên Ngài giã biệt để đến chùa Thiếu Lâm ở Trung Sơn. Ở tại chùa Thiếu Lâm nầy, Ngài đã ngồi suốt 9 năm xây mặt vào tường nên được gọi là “Bích quán Bà La Môn”. Sau đó Ngài thâu nhận được người đệ tử tên là Thần Quang (487- 593) để truyền pháp. Ngài Thần Quang sau đổi tên là Huệ Khả là vị tổ Thiền tông thứ hai tại Trung Hoa. Sau 9 năm, tổ Bồ Đề Đạt Ma trao áo cà sa và bát báu cùng bốn quyển của bộ kinh Lăng Già cho tổ Huệ Khả. Sau đó không lâu, tổ viên tịch vào năm 529 và nhục thân của Ngài được nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Mặc dầu thiền tông đã được chính Đức Phật Thích Ca truyền cho ngài Ma Ha Ca Diếp tại hội Linh Sơn mà mãi cho  đến tổ Bồ Đề Đạt Ma là tổ thứ 28 thì Thiền tông mới chính thức được truyền sang Trung quốc. 

Trước đó vài trăm năm thì có ngài Cưu Ma La Thập (khoảng 400 sau T. L), vị tăng Ấn Độ, đã dịch rất nhiều kinh điển ra tiếng Trung Hoa để giúp cho việc hoằng dương Phật pháp. Nhưng việc tu hành thời bấy giờ là thường tụng các kinh điển Đại thừa cũng như áp dụng đời sống tăng đoàn theo khuôn khổ của Ấn Độ. Mãi cho đến khi tổ Bồ Đề đem Thiền tông đến Trung Quốc thì chính ngài đã gieo hạt giống mới nầy vào trong xã hội mà có tầm ảnh hưởng sâu rộng bởi thuyết Khổng Mạnh. Hạt giống nầy thực sự đã nảy mầm  và trở thành cây tươi tốt trong mấy ngàn năm qua. Thiền tông đã mang lại những ảnh hưởng  lớn lao, sâu rộng cho xã hội Trung Hoa, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam thì công lao của tổ Bồ Đề Đạt Ma thật là vĩ đại.
Đường lối tu hành của Thiền tông thì có phần khác hẳn so với các pháp tu khác trong đạo Phật. Tổ Bồ Đề Đạt

Ma đã thâu gọn về pháp tu của Thiền tông trong câu:
 “Bất lập văn tự, Giáo ngoại biệt truyền, Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật” 
Nghĩa là:”Chẳng lập văn tự, Truyền ngoài giáo lý, Chỉ thẳng tâm người, Thấy tánh thành Phật”.
Tại sao? 

Bởi vì giáo lý căn bản của Phật pháp là không có pháp nào hết cho nên cái pháp “không có pháp nào hết” mới chính là Phật pháp. Do đó khi tu tới chỗ thành tựu là chỉ có pháp “không có pháp nào hết”, vậy thì không có văn tự nào có thể diễn tả được pháp đó. Thế thì pháp đó cũng phải nằm ngoài giáo lý vì giáo lý cũng là văn tự. Trong kinh Duy Ma Cật, khi Bồ Tát Văn Thù được hỏi thế nào là nhập pháp môn Bất nhị (vào pháp môn không hai). Bồ tát Văn Thù trả lời:”Theo ý tôi, nơi tất cả vô ngôn vô thuyết, vô thị vô thức, lìa nơi vấn đáp. Ấy là nhập pháp môn bất nhị”. Có nghĩa là không có văn tự , lời nói , ngôn ngữ đó mới thật là vào pháp không hai. Còn ý nghĩa của lời nói của Tổ là không còn văn tự, ngôn ngữ nào, tức là kể cả kinh điển có thể dùng để diễn tả được.

Còn hai câu:”Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật” có nghĩa là chỉ thẳng ngay cái tâm của người tu hành. Nếu hiểu được cái tâm đó thì hiểu được bản tánh của tâm mình cùng vạn vật. Vì thế, nếu người nào thấy được “tánh” thì sẽ thành Phật mà chúng ta gọi là giác ngộ. Tổ nói rất đơn giản là: “Nếu thấy tánh tức là Phật, không thấy tánh tức là chúng sanh”. Như thế thì giữa Phật và chúng sanh, hay nói một cách khác là giữa người giác ngộ và kẻ si mê chỉ khác nhau ở chỗ có thấy “tánh” được hay không. Vậy muốn đạt được “tánh” đòi hỏi người tu phải tự lực, biết lìa bỏ mọi hình tướng mà trong đó có cả ngôn ngữ, văn tự và kinh điển.

Tổ xác định:

”Dầu có giỏi nói được ngàn kinh, muôn luận mà không thấy “tánh” thì vẫn là phàm phu, chẳng phải là pháp Phật”. 

Ý của Tổ là nhắn nhủ những kẻ tu hành tới mức khá cao mà vẫn còn bám lấy kinh luật thì không thực hành đúng mức để giải thoát cho mình. Cũng như người dùng bè qua sông, nếu  đã tới bến rồi mà vẫn ôm bè không chịu buông thì làm sao bước được lên bờ giác ngộ. Còn chúng ta là những người mới rời bờ được một chút mà đã muốn buông bè thì dĩ nhiên là chìm lẹ. Thật vậy, chúng ta tu hành chưa tới đâu mà đã buông bỏ kinh luật thì chắc chắn sẽ đi lầm đường lạc lối.

Phương pháp tu Thiền tông mà tổ đã để lại là :”Thiếu thất Lục Môn” hay:”Sáu cửa vào động Thiếu Thất”. Sáu cửa đó là: Tâm kinh tụng, Phá tướng luận, Nhị chủng nhập, An tâm pháp, Ngộ tánh luận và Huyết mạch luận.

v  Tâm kinh tụng: Tổ nhắc lại từng câu trong Bát Nhã Tâm Kinh và sau mỗi câu đều có những câu giảng. Tổ chỉ rõ tướng “không” của muôn pháp để chúng ta hiểu được cái thể “Như Lai không tướng” vốn thanh tịnh. Ý Tổ muốn chúng ta phá cái chấp của “có” hoặc “không” thì tâm sẽ tự tại hết lo âu. 
  
 
v  Phá tướng luận: Phần nầy thì gồm những câu hỏi và trả lời. Mỗi câu hỏi đều được Tổ giải đáp rõ ràng để giúp cho người tu thiền thấu hiểu.  Tổ nói: ”Nếu muốn thấy được tâm thì cần phải bỏ những chấp về tướng”. Bởi vì nếu còn chấp tướng thì chúng ta còn hướng ngoại, quên tâm nên không thể thấy được tâm. 
   
v  Nhị chủng nhập: Phần nầy chỉ cách tu hành một cách cụ thể và gồm có hai phần: lý nhập và hạnh nhập.  
   
1)Lý nhập: là mượn “giáo” để ngộ “tông” có nghĩa là tất cả sinh linh đều chung đồng một thể tánh, chỉ vì khách trần bên ngoài và vọng tưởng bên trong che lấp nên chân tánh không hiện lộ được.   
 
2)Hạnh nhập thì có bốn hạnh: Báo oán hạnh là khi gặp cảnh khổ nên hiểu là vì lúc trước có gây ra nghiệp dữ nên nay phải nhẫn nhục chịu. Tùy duyên hạnh là nay chúng ta được quả báo tốt cũng là do nhân lành tạo ra thủa xưa, mọi khổ vui đều do nhân duyên sanh, nhưng tâm người không vì vậy mà tăng thêm hay giảm bớt. Vô sở cầu hạnh được hiểu là muôn vật đều là không, nên không cầu mong gì mới thực là đạo hạnh. Sau cùng là xứng pháp hạnh nói về cái lý thanh tịnh của tự tánh, tức cái thể tánh tánh thanh tịnh của mình, nên vẫn tùy xứng theo pháp mà hành động nhưng không có chấp.   
 
v   An tâm pháp: Nếu hỏi: Các pháp đã là không thì lấy gì tu đạo?  Trả lời: Nếu có dựa vào gì thì cần tu đạo. Nếu không có gì để dựa, tức chẳn cầntu đạo. Chẳng thấy gì hết, gọi là thấy đạo. Chẳng làm gì hết , gọi là hành đạo. Cũng như khi mê thì người đuổi theo pháp. Còn lúc tỉnh, thì pháp đuổi theo người.   
 
v   Ngộ tánh luận: Phần nầy chỉ những điểm quan trong khi tu hành là phân biệt được giữa mê và ngộ cũng như cách tu hành để đạt được ngộ. Khi mê thì lục thức, ngũ uẩn đều là pháp phiền não, sanh tử. Khi ngộ thì sáu thức, năm uẩn đều là pháp Niết bàn, không sanh tử. Khi mê thì có Phật, có pháp. Khi ngộ rồi thì không Phật, không pháp. Tại vì sao? Vì ngộ tức là Phật pháp. 
  
 
v   Huyết mạch luận: Phần nầy chỉ rõ nếu không thấy tánh thì việc tu hành sẽ không thể đưa đến chỗ đạt được đạo. Nếu muốn tìm Phật hảy cần thấy tánh. Tánh tức là Phật. Nếu chẳng thấy tánh thì chạy lầm đường. Giữ giới chỉ là vô ích mà thôi. Tổ nói thêm:”Nếu không thấy tánh thì dầu giỏi nói mười hai bộ kinh, vẫn là ma nói. Chúng sinh điên đảo bởi vì không biết tự tâm là Phật nên cứ hướng ngoại mà cầu cạnh do đó suốt ngày cứ lăng xăng niệm Phật, lạy Phật”.

Sau cùng nhờ công lao của tổ mà Thiền tông sau gần mấy ngàn năm vẫn còn tồn tại mạnh mẽ tại nhiều nước Á châu và ngày nay Thiền tông bắt đầu phổ biến rộng rãi trong những cộng đồng của Tây phương mà ảnh hưởng cũng như phương pháp ứng dụng rất là thực tiển và phổ cập.

Khi nói về chữ “Hảo tâm”, Phật dạy rằng: ”Hai chữ hảo tâm ít người làm được, nếu có lòng hảo tâm, làm việc lợi ích cho người chẳng cần trả ơn, làm việc giúp người chẳng cần quả báo, cúng dường cho người chẳng cần phước báo. Khó bỏ xã mà bỏ xã được, khó nhịn mà nhẫn nhịn được, khó làm mà làm được, khó cứu mà cứu được chẳng luận bà con thân thích hay kẻ lạ người dưng, lấy tâm bình đẳng cứu giúp làm đúng sự thật. Chẳng phải miệng nói hay mà lòng không làm, con người cái miệng nói hảo tâm mà lòng không làm từ thiện, còn người hiền tâm thường làm những việc tốt mà miệng chẳng khoe khoang. Giúp người mà chẳng cầu danh vọng cho mình thì mới thật là hảo tâm”. 


44. Thiền

Ngày xưa khi Đức Phật mới xuất gia tìm đạo thì Ngài đã tìm đến học thiền với hai vị chuyên về thiền định. Sau khi đã thực hành đến mức độ tối cao như hai vị kia, nhưng Ngài vẫn chưa thấy được chân lý mà Ngài đang đi tìm. Cái mà Đức Phật tìm kiếm là làm thế nào để diệt trừ tất cả dục vọng phát xuất từ trong tâm mà ra. Mà muốn đạt đến chỗ nầy thì Ngài cần phải tìm cách để phát triển trí tuệ một cách sáng suốt. Ngài đã chọn con đường trung đạo như là nhiên liệu cho chiếc xe chở Ngài đi và thiền định là bản đồ đưa Ngài đạt đến đỉnh Giác ngộ. Ngài ngồi tham thiền nhập định dưới cội Bồ-đề suốt 49 ngày đêm. Cuối cùng đến khuya ngày mùng tám tháng chạp âm lịch thì Ngài hoàn toàn “Minh tâm kiến tánh” và chứng được đạo quả Bồ-đề. Mặc dầu thiền định đã được rất lâu trước khi Đức Phật nhập thế, nhưng Ngài là người duy nhất đã đưa thiền định đến chổ cực đỉnh. Từ đó thiền được xem là một pháp môn rất thông dụng của Phật giáo.  

Vậy thế nào là thiền tông? 
Thiền tông là một trong những pháp môn của Phật giáo mà chủ yếu là lấy tham thiền nhập định làm căn bản tu hành. 
  
Thiền có nghĩa là nghiên cứu, sưu tầm những đối tượng của tâm thức và làm cho tâm tư vắng lặng để dục vọng khỏi phát sinh. Từ đó trí tuệ và tâm sẽ được sáng tỏ. 
  
Định là tập trung tư tưởng vào một cảnh giới duy nhất và đừng để cho tâm ý tán loạn. 
  
Vậy tham thiền nhập định có nghĩa là tập trung tư tưởng vào một đối tượng duy nhất, không cho tán loạn, để cho tâm thể được vắng lặng và trí tuệ được phát sinh ngỏ hầu giúp chúng ta quan sát cũng như suy nghiệm chơn lý. 
             
Trong cuộc sống hàng ngày có ai mà không bị thất tình (mừng, giận, thương, yêu, ghét, sợ, muốn) chi phối để làm cho tâm điên trí đảo. Chẳng những thế lục dục (tình dục do lục căn sinh ra) và bát phong (lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc) làm cho tâm tánh của con người mê mờ càng thêm mê muội. Càng mê muội thì con người càng dấn thân vào tội lỗi và dĩ nhiên nghiệp căn từ đó mà tác tạo không ngừng. Do đó cuộc đời thê thảm lại càng đen tối hơn. 
  
Sống trong một xã hội càng phức tạp thì tâm của chúng ta càng bị gió lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) làm chao động. Đèn tâm càng chao động thì ánh sáng trí tuệ không thể nào tỏa ra được. Mà nếu ánh sáng trí tụê bị lu mờ thì khó lòng mà xé tan được đám mây vô minh hắc ám ở chúng quanh. Từ đó chân lý sẽ không bao giờ được soi sáng. 
  
Vậy muốn được minh tâm kiến tánh thì trước nhất phải phá cho được đám mây vô minh hắc ám đó để cho đèn trí tuệ được soi sáng. Khi chúng ta tham thiền nhập định thì tâm sẽ an định và sau đó trí tuệ sẽ được phát sinh. Một khi trí tuệ phát sinh thì vô minh sẽ bị tiêu diệt và con đường đưa đến chánh đạo sẽ không còn xa. 
   
Thiền định mới nghe thì tưởng dễ nhưng thực tế lúc thực hành thì rất khó khăn. Muốn đạt được kết quả tốt thì thiền giả phải tốn nhiều công phu và kiên nhẩn để trãi qua một thời gian lâu dài tu luyện. Hơn nữa, nếu thiền giả muốn khỏi phải lầm đường lạc hướng thì họ phải cần có một Đại Sư thấu hiểu thiền để chỉ dẫn.  
             
Vậy theo Phật giáo có những loại thiền nào?  
Thiền được chia làm hai loại: một là cho chúng sinh trong thế gian nầy thì gọi là thế gian thiền và hai là dành cho những bậc xuất thế  như A-la-hán, Bồ-tát và chư Phật thì gọi là xuất thế gian thiền. 
  
I) Thế gian thiền: là tu thiền trong những giai đoạn sơ khởi nên chưa có thể đưa người tu ra ngoài tam giới hay chứng được Thánh quả. Thế gian thiền bao gồm hai giai đoạn: bắt đầu thì có Tứ thiền và sau đó đạt đến Tứ không định. 
  
1)Tứ thiền: là bốn giai đoạn tham thiền để giúp chúng sinh đạt được từ những cái vui thô thiển đến những cái vui vi tế thanh tịnh. 
  
1.  Ly sanh hỷ lạc: nhờ tham thiền mà chúng ta có thể xa lìa được cảnh ô trược của thế gian và từ đó tạo ra sự vui mừng. 
  
2.  Định sanh hỷ lạc: vì những sự vui mừng ở trên đã làm cho tâm dao động và như thế phải cần vào Định mới có thể diệt trừ nó được. Một khi Định có kết quả thì cái giao động ở tâm đã chấm dứt nhưng cái vui mừng vi tế trong Định lúc nầy bắt đầu phát sinh. 
  
3.  Ly hỷ diệu lạc: Mặc dầu cái mừng là vi tế nhưng vẫn làm cho tâm rung động. Thành thử chúng ta phải cố gắng loại bỏ tất cả những cái vui vi tế nầy. Một khi chúng ta thành công để loại bỏ những cái vui vi tế trên thì một nổi vui nhiệm mầu khác lại hiện ra. Đây là cõi vui nhất cho người tham thiền bởi vì các cõi ở dưới thì chỉ có cái vui thô động còn các cõi ở trên thì chỉ là tịch mịch, không còn vui nữa. 
  
4.  Xả niệm thanh tịnh: Mặc dầu không còn niềm vui vi tế nào nữa nhưng chúng ta vẫn còn cái vui mầu nhiệm. Mà hảy còn niềm vui thì tâm hồn hoàn toàn chưa thanh tịnh. Đây là bậc thiền cuối cùng để trừ luôn cái vui mầu nhiệm nầy và sau đó thì tâm dĩ nhiên được hoàn toàn thanh tịnh. 
  
 2)Tứ không định: Sau khi đã đạt được giai đoạn thứ tư của Tứ thiền là Xả niệm thanh tịnh thì tâm của chúng ta lúc nầy hoàn toàn thanh tịnh. Nếu muốn tiếp tục tu thiền thì chúng ta phải qua bốn gia đoạn của Tứ không định nầy. Tứ không định có nghĩa là khi vào bốn cái yên tịnh nầy thì chúng ta không còn thấy có cảnh hay tâm thức nữa. 

a) Không vô biên xứ định: Mặc dầu tâm của chúng ta đã được thanh tịnh sau khi qua được Tứ thiền, nhưng chúng ta vẫn còn thấy có sắc giới, còn thân còn cảnh. Thật vậy, chính vì bị những hình sắc trói buộc nên chúng ta sanh tâm nhàm chán. Giai đoạn đầu nầy cốt là loại bỏ các hình sắc về thân và cảnh để hội nhập với hư không vô biên. Đó là không thấy có ngăn cách và có biến giới của cảnh. 

b)  Thức vô biên xứ định: qua được giai đoạn thứ nhất là chúng ta đã có thể rời bỏ được sắc tướng của thân và cảnh. Nhưng chúng ta vẫn còn giữ cái bản ngã hẹp hòi và vẫn còn thấy biên giới của tâm thức. Giai đoạn nầy là chúng ta phải tiếp tục để xóa bỏ cái biên giới của thức. Nếu thành công thì chúng ta nhập được vào cõi thức vô biên. 
  
c)  Vô sở hửu xứ định: Mặc dầu chúng ta không còn thấy biên giới và ngăn cách của thức nhưng chúng ta vẫn còn thấy có ngã, có tâm thức và có năng sở. Điều nầy có nghĩa là chúng ta còn thấy mình và người và còn thấy có sở hửu. Tiếp tục hành thiền thì chúng ta có thể lìa xa sự chao động, năng sở và nhập định cỏi không sở hửu. 
  
d)  Phi tưởng, phi phi tưởng  xứ định: Một khi chúng ta đến được đây thì không còn thấy nhân ngã, năng sở. Nhưng chúng ta vẩn còn tưởng. Mà còn tưởng thì còn vọng động. Giai đoạn cuối cùng mà chúng ta phải đạt cho được là định không tưởng. Không tưởng ở đây không có nghĩa là vô tri vô giác như đất đá mà vẫn sáng suốt như tấm gương. 
  
Người tu thiền cần phải hiểu rõ là sau khi đạt đến ly hỷ diệu lạc thì con đường từ đây có hai lối rẽ: một con đường đi về hướng A-na-hàm ở cõi Tứ thiên và một con đường khác đi về phía Tứ không của cõi vô sắc. Con đường nầy thuộc về ngoại đạo. 
  
II) Xuất thế gian thiền: Loại nầy thì dành cho những bậc xuất thế. Có bốn thứ thiền dành cho họ: Cửu tưởng quán, Bất hối xả quán, Bát thắng xứ quán và Thập nhất thiết xứ quán. Lối tu thiền của họ là dùng các pháp hửu vi làm đối tượng suy nghiệm để đi đến kết quả ly dục và phát sinh vô lậu trí.

Đến đây thì chúng ta thấy là các pháp tu thiền thì nhiều vô số kể. Nhưng nếu muốn đạt được kết quả viên mãn thì chúng ta cần phải chọn lựa phương pháp nào thích hợp với trình độ của mình chớ không phải gặp pháp môn nào thì tu theo pháp môn ấy được. Điều quan trọng nữa để quyết định sự thành công hay thất bại của tu thiền là phải tìm được vị minh sư để hướng dẫn.  Ngày xưa có biết bao vị chân tu đi cầu pháp từ xứ nầy đến xứ nọ. Họ không quản công khó nhọc và đôi khi còn hy sinh cả tính mạng nữa. Nếu một khi vị chân tu ấy đã gặp vị minh sư nào thâu nhận làm đệ tử thì họ phải ở lại hầu hạ vị minh sư ấy trong một thời gian rất lâu để vị minh sư nầy quan sát căn cơ trình độ trước khi truyền cho phương pháp tu. Có như thế thì sự tu hành của vị chân tu kia mới có kết quả. Vì tu thiền đòi hỏi sự kiên nhẫn cho nên nếu muốn học pháp môn nầy thì chúng ta không thể bồn chồn, nóng nảy mà thành được. Người tu pháp môn nầy thì hàng ngày phải cố gắng lo tu tập. Công phu của họ sẽ được tích trữ nhiều năm cho đến khi công tròn quả mãn thì lúc đó họ có thể đạt được “minh tâm kiến tánh”.
         
Mặc dầu tu thiền thì quá phức tạp nhưng chính nó đã nung đúc lòng từ bi cho chúng ta. Từ năng lực của thiền định chúng ta có thể đoạn trừ tham, sân, si và những phiền não phát sinh từ đó. Khi mà đã đến trình độ cao thì thiền định sẽ giúp không cho ảo tưởng phát sinh và từ đó tâm niệm sẽ lắng yên. Vì thế chúng ta có thể chứng được chân không mà không bị rơi vào chỗ chấp đoạn hư vô và sau cùng chúng ta sẽ tìm sự giải thoát trong cảnh giới của chư Phật.
         
Còn thiền định của đạo tiên như thế nào?
Theo kinh sách của đạo tiên để lại như kinh Huỳnh Định thì sở dĩ con người sống được và minh mẫn là nhờ có đủ ba món: Tinh , Khí và Thần. Tinh, Khí thì cho xác thân. Còn Thần thì cho mạng sống. Hễ thất tình lục dục quá mạnh thì tinh khí bị hao mòn. Mà một khi tinh khí bị yếu ớt thì Thần bị tối tăm và con người sẽ mất sáng suốt. Do đó, đối với những người muốn luyện tiên thì họ phải trừ dục tính để dưỡng tinh và luyện khí cho thần được cởi mở và phát hiện.
           
Họ cho rằng khắp thân thể con người đều có những cái huyệt, tức là những lỗ thông khí âm dương. Huyệt ở chót bàn chân gọi là chí âm và huyệt ở đỉnh đầu là thiên thông. Khí đi lên là dương và đi xuống là âm khí. Người tu tiên thì cốt luyện cho âm khí mất đi và chỉ còn cái khí thuần dương đi lên đỉnh đầu, tức là tạo được thần thông. Lý do họ phải trừ bỏ âm khí là vì âm khí làm cho nặng nề, tối tăm, ưa thích điều dâm dục, và làm hao tổn tinh thần. Hể tinh thần bị hao tổn thì Thần bị bế tắc. Nói thế chúng ta là kẻ phàm thì c                                             nặng khí âm, còn Tiên thì chỉ còn khí thuần dương mà thôi.
         
Để luyện khí, người tu tiên cũng áp dụng những phép tu gần giống như phép tọa thiền của Phật giáo vậy. Họ tìm đến những nơi thật thanh tịnh để ngồi thiền và tập các phép như: Tọa công, Giao thiên trụ, Thiết giải thấu yết. Nếu họ chuyên tâm trì chí tập trung tư tưởng để luyện “tinh” hóa “khí” và luyện “khí” hóa “thần”.Sau khi đã thuần thục thì họ cũng đạt được năm phép thần thông biến hóa. Khi đó họ trở thành Tiên. Họ có thể xuất thần bay đi dạo chơi các thế giới. Đôi khi họ còn hứng nước mặt trăng để luyện linh đơn uống cho được trường sinh bất tử. Nếu thực sự có thuốc trường sinh bất tử thì chúng ta ngày nay có cơ hội gặp họ ở trên trần gian nầy. Nhưng rất tiếc không còn vị nào sống sót cả. Tiên mà ngày nay chúng ta thấy toàn là tiên nằm trong hẻm (tiên nâu) mà thôi.
Còn Yoga thì như thế nào? 
Yoga là một danh từ của Ấn độ có tên là Yuj. Yuj có nghĩa là tự kiềm chế mình vào một quy luật đặc biệt với mục đích là tập trung toàn thể thân tâm làm một để hòa đồng với bản thể của trời đất.
         
Nhưng trên thực tế thì yoga cũng gọi là thuật luyện khí của Ấn độ gần giống như thuật lưyện khí của đạo Tiên.Theo thuyết Yoga thì trong thân thể của con người có rất nhiều huyệt đạo. Mà bảy cái từ hậu môn lên tới đỉnh đầu là quan trọng nhất. Bảy huyệt này nằm dài theo xương sống và có một đường lên và một đường xuống thông nhau. Vì sự mê và các thú dục vọng che lấp cho nên bảy huyệt ấy bị trắc trở. Nhất là thân thể không được luyện tập, xương sống bị cong đi, thì các huyệt đạo đó bị bế tắc. Vậy nếu muốn cho có thần lực trong người  thì phải tập luyện cho xương sống giản ra và sau đó các khớp xương được thông và thẳng.
         
Để đạt đến những mục đích nầy thì người luyện Yoga phải tập nhiều tư thế. Chẳng hạn như tư thế giản lưng, tư thế trồng chuối để cho thần lực lưu thông tới đỉnh đầu.
          
Chúng ta sống ở những nước tân tiến ngày nay thì yoga được xem như là một môn thể dục để giúp cho thân thể được khỏe mạnh và trí tuệ được sáng suốt để thành công trong việc làm của mình. Đôi khi, chúng ta còn nghe một số người luyện Yoga để được sống lâu, trẻ mãi không già. Họ mong vượt ra khỏi những dục vọng của xác thân cũng như thoát ra ngoài những lo âu, sợ sệt và tìm đến một cuộc sống an vui tự tại.
         
Thế nào là thuật thôi miên?
Người tu luyện theo thuật thôi miên thì phải tập trung tư tưởng vào một chỗ để cho tinh thần có sức mạnh sai khiến được sự vật. Lúc đầu, họ ngồi yên một chổ và nhìn chăm chú vào một chấm đen vẽ ở trên tường. Họ phải tập trung tâm trí vào đó ngoài ra họ không còn để ý đến bất cứ việc gì chung quanh nữa. Họ tập ngồi hàng giờ như thế cho đến khi tinh thần không còn tán loạn nữa thì lúc đó họ có đủ sức mạnh để sai khiến kẻ khác. Người thôi miên có thể dùng thôi miên để sai người khác làm những chuyện phi thường như xuất thần đi đến một xứ khác để thăm bà con hay kể lại chuyện quá khứ hoặc tiền thân của một người khác.
         
Nói tóm lại, nhờ luồng điện tinh thần đã được tập trung thành sức mạnh, người thôi miên có thể bắt người khác làm những việc kỳ lạ theo ý muốn của mình. Nhưng vì tham cầu những điều huyền bí, mầu nhiệm bên ngoài, tâm không chân chính, nên họ không lo dẹp trừ phiền não bên trong để được minh tâm kiến tánh, nên đây không phải là chánh đạo.
       
Thiền định là quay vào bên trong để nghe rõ tiếng nói của tâm, tiếng nói của Vô thanh mà con người chỉ có thể nghe được những âm thanh huyền diệu nầy khi thân và tâm thật thanh tịnh, sáng suốt không còn tham, sân, si. Khi nghe được tiếng nói nầy thì đã có Định. Mà có Định thì trí tuệ Bát nhã sẽ phát sinh. Một khi có trí tuệ thì con người sẽ không còn thấy mình và mọi vật có sự khác biệt nữa bởi vì mình và chúng sinh đều là một. 


45. Đức Phật A Di Đà

Tây Phương Tam Thánh:  
Đại Thế Chí Bồ Tát, Đức Phật A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát 
            
Trong cuộc đời hành đạo của Đức Phật Thích Ca, đại đức A Nan là người gần gủi Ngài nhiều nhất. Cũng chính vì cơ duyên nầy mà ông ta đã học hỏi rất nhiều ở nơi Phật.
Một hôm, ngài A Nan nhìn thấy dung mạo Đức Phật lại khác thường hơn mọi ngày vì Ngài nhìn có vẻ vui hơn.
         
Phật dạy rằng:
- Ta cảm nhớ Đức Phật A Di Đà nên muốn nhắc đến nhân địa của Ngài để chỉ dạy chúng sinh tu về môn Tịnh độ.
Phật kể rằng:
“Từ đời quá khứ thật xa , cách nay hơn 10 kiếp, có một nước tên là Diệu Hỷ. Vua của nước nầy tên là Nguyệt Thượng Luân và Hoàng hậu là Thù Thắng Diệu Nhân. Hoàng hậu sinh ra được ba người con: người con lớn tên là Nhật Nguyệt Minh, người con thứ hai là Kiều Thi Ca và người con út tên là Nhật Đế Chúng. Trong thời bấy giờ, có Đức Phật hiệu là Thế Tự Tại Vương Như Lai giáng sinh để cứu độ chúng sinh. Khi nghe tin có Phật tái thế, Hoàng tử Kiều Thi Ca quyết định rời bỏ cung vàng tìm đến Phật để xin xuất gia. Ngài được Phật chấp nhận cho thọ Tỳ kheo giới và ban cho hiệu là Pháp Tạng Tỳ kheo. Khi đứng trước Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai thì Ngài Pháp Tạng phát 48 lời nguyện rộng lớn để độ tất cả mười phương chúng sanh. Nếu có lời nguyện nào không viên mãn thì Ngài thề chẳng thành Phật. Sau cùng Pháp Tạng trở thành Phật A Di Đà.

A Di Đà có nghĩa là vô lượng thọ và vô lượng quang. Phật A Di Đà là Phật sống lâu không có số lượng và hào quang thì chói sáng khắp nơi vô tận.

Khi thành Phật, Đức A Di Đà đã khai thiên cho Ngài một cảnh giới cực lạc mà Đức Phật Thích Ca gọi đây là Tây phương Cực lạc. Đây chính là bồng lai tiên cảnh.

Bậy giờ chúng ta hãy nghe Đức Phật Thích Ca kể tiếp: Từ cõi Ta bà nầy hướng về cõi Tây, hơn muôn muôn ức cõi, có một thế giới gọi là Cực lạc hay Tịnh độ. Ở nơi đó, Đức Phật A Di Đà thường hay thuyết pháp để hóa độ chúng sinh. Phong cảnh ở đây vô cùng đẹp đẻ, sáng lạng vui tươi và khi nhìn chung quanh chẳng khác chi là một vườn hoa vĩ đại với những hàng cây ngay ngắn. Những tường hoa, những dây leo rũ xuống như màu gấm, như lụa là và kèm theo những hồ nước chứa đầy những thứ nước có tâm công đức. Đặc biệt đáy hồ lát bằng cát vàng và bao quanh bằng những hoa sen lớn bằng bánh xe với đủ màu sắc có hương thơm tỏa ngát và hào quang tỏa ra tuyệt đẹp. Hễ hoa sen màu xanh thì phát ra hào quang xanh. Hoa màu trắng thì phát ra màu trắng. Còn hoa màu hồng thì phát ra hào quang màu hồng. Thêm nữa, đền đài, điện các ở cõi Tịnh độ đều làm bằng ngọc vàng châu báu. Thật là hiếm có. Còn nói về chim chóc ở đây thì toàn là những thứ chim quý chẳng hạn như bạch hạc, không tước, anh vỏ…Những loài chim nầy lúc nầy cũng hót ra những tiếng pháp vi diệu để hòa lẫn trong những điệu nhạc thiêng liêng làm cho bất cứ ai khi nghe đến cũng đều pháp tâm hoan hỷ niệm Phật. Các loài chim nầy do chính Đức Phật A Di Đà biến hóa ra để thuyết pháp cho chúng sinh nghe. Ở cõi Tây phương nầy thì không bao giờ có màn đêm bởi vì hào quang của Đức Phật phát ra vô tận.
Đức Phật A Di Đà có tất cả 48 lời nguyện. Nhưng đối với những người tu Tịnh độ thì lời nguyện thứ 18 và 19 là quan trọng hơn cả.

Lời Nguyện thứ 18: Lúc tôi thành Phật , thập phương chúng sanh, chí tâm tín mộ, muốn về cõi nước tôi, niệm đến 10 niệm. Nếu không được vãng sanh thì tôi không ở ngôi Chánh giác ngoại trừ những kẻ tạo tội ngũ nghịch hoặc là hủy báng Chánh pháp.
Lời nguyện thứ 19: Lúc tôi thành Phật, thập phương chúng sanh phát Bồ-đề tâm, tu các công đức, nguyện sanh về cõi nước tôi. Đến lúc lâm chung, nếu tôi chẳng cùng đại chúng hiện thân trước người đó, thì tôi không ở ngôi Chánh giác.

Hoa sen.
Kinh Phật nói rằng:” Hoa sen trong nhân gian nhiều lắm là có mấy mươi cánh. Hoa sen trên cõi trời có khoảng chừng vài trăm cánh. Còn hoa sen ở cõi Tịnh độ lại có hơn ngàn cánh”.
Hoa sen là biểu thị từ chỗ phiền não đến chỗ thanh tịnh. Bởi vì loài sen thì mọc lên từ trong bùn lầy và nở hoa trên mặt nước. Nó ẩn chứa ý nghĩa là mặc dù sinh ra từ trong bùn nhơ mà lại không nhiễm mùi bùn. Không hôi tanh nhơ nhớp mà lại tinh khiết thơm tho. Hoa sen mọc trong nước vào mùa hè nóng nực. Nóng nực là biểu thị cho phiền não và nước thì tượng trưng cho thanh tịnh mát mẻ. Khi tu Tịnh độ thì chúng ta từ phiền não đạt đến giải thóat cũng như sinh về Tịnh độ là hóa sinh trong hoa sen.
Đối với Thánh nhân thì hoa sen tượng trưng cho công đức thanh tịnh và trí tuệ thanh lương. Cho nên chúng ta thấy Phật hay Thánh đều ngồi hay đứng trên hoa sen.
“Thân tuy ở cõi Ta bà,
Mà lòng đã gửi bên tòa hoa sen”


46. Đại Thế Chí Bồ Tát  
(Bodhisattva Mahasthanapràta)

Thủa xa xưa ở thế giới Vô Lượng Đức Tựu An Lạc có Đức Phật hiệu Kim Quang Sư Tử  Du Hỷ thị hiện để hóa độ chúng sanh. Lúc bấy giờ trong nước đó có ông vua hiệu là Oai Đức chuyên dùng chánh pháp để trị dân nên được gọi là Pháp Vương. Vị vua nầy rất kính thờ Phật Kim Quang Sư Tử Du Hỷ. Một hôm, nhà vua ngồi tọa thiền Tam muội đến khi xuất định thì thấy hai hoa sen mọc ở hai bên tả hữu và trong mỗi hoa sen có mỗi đồng tử. Nhà vua cùng hai đồng tử cùng đến chổ Phật để nghe pháp. Vua Oai Đức đó là tiền thân của Phật Thích Ca và hai vị đồng tử chính là Bồ tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí .
         
Lại một thủa khác, Đức Đại Thế Chí khi chưa xuất gia học đạo, thì Ngài chính là con thứ hai của vua Vô Trách Nhiệm tên là Ni Ma Thái Tử. Ngài vâng lời phụ vương phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và phát nguyện độ sanh. Những hạnh tu mà Ngài chú tâm là:
v   Ba nghiệp của thân: Không sát hại chúng sanh, không trộm cướp của người và không tà dâm.
v   Bốn nghiệp của miệng: Không nói láo xược, không nói lời thêu dệt, không nói lời hai chiều và không nói lời  độc ác.
v   Ba nghiệp của ý: Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục, không hờn giận oán cừu và không si mê ám muội, cùng các món hạnh tu thanh tịnh mà hồi hướng về Đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác và cầu đặng một thế giới trang nghiêm đẹp đẽ, như cõi Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai.
Trong khi đó, thì Ngài cũng còn tu Bồ tát Đạo, làm việc Phật sự, dạy dỗ mọi người và làm những sự lợi ích cho các loài hữu tình để mà cầu mau đặng hoàn mãn các món công hạnh đã thệ nguyện. Đến chừng Phật Biến Xuất Nhứt Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai diệt độ rồi, thì ngài sẽ thành đạo, kế ngôi Phật truyền chánh pháp mà hóa độ chúng sanh.

Phật Bảo Tạng nghe mấy lời vủa Ni Ma Thái tử nguyện ở trên, liền thọ ký rằng:” Theo như lòng của ngươi muốn thành tựu một thế giới rộng lớn trang nghiêm, thì qua đời vị lai, trải hằng hà sa kiếp, sau nầy làm Bồ tát hiệu là Đại Thế Chí, phụ tá bên cạnh đức Phật A Di Đà ở cõi Cực Lạc. Và, sau nữa ngươi sẽ thành Phật hiệu là “Thiên Trụ Công Đức Bảo Vương” ở thế giới Đại Thế”.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ thì Đại Thế Chí có nghĩa là dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp mười phương, khiến chúng sanh trong ba đường ác được giải thoát và được năng lực vô thượng.
       
Ngài đã dùng pháp môn Niệm Phật Tam muộI để tự tu và hóa đô chúng sanh. Trong hội Lăng Nghiêm, Đức Phật Thích Ca hỏi chỗ sở tu sở đắc của các vị A–la-hán và Bồ tát, thì ngài trả lời rằng:”Thời Đức Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang dạy con niệm Phật Tam muội…Nhơn địa xưa của con dùng tâm niệm Phật nhập vô sanh nhẫn. Nay ở thế gian nầy, con tiếp độ người niệm Phật về Tịnh độ”. Đức Quán Thế Âm dùng lòng từ bi lắng nghe tiếng đau khổ đến cứu độ chúng sinh, còn Đức Đại Thế Chí dùng ánh sáng trí tuệ soi đường cho chúng sanh được giải thoát.

Ngài đứng bên  phải của Đức Phật A Di Đà, đeo chuỗi anh lạc và tay cầm hoa sen xanh. Hoa sen xanh tượng trưng cho thanh tịnh, tức là đoạn đức. Dùng trí tuệ dứt sạch tất cả phiền não nhiễm ô, cứu vớt chúng sinh lên khỏi vũng bùn ác trược.

Muốn cứu vớt chúng sanh về cõi Tịnh độ, trước phải dạy họ dứt sạch phiền não uế ô. Vì thế, danh hiệu Ngài đã nói lên ý nghĩa vận dụng ánh sáng trí tuệ chiếu soi cho chúng sinh thấy rõ những ô nhiễm của mình và đồng thời cũng giúp cho họ có sức mạnh đoạn trừ những nhiễm ô nầy để có thể đưa họ về cõi Tịnh độ.
Trong mỗi vị Phật đều có đủ hai đức tánh quan trọng là từ bi và trí tuệ. Nếu thiếu một trong hai đức tánh nầy, thì sẽ không bao giờ thành Phật.

Đức Phật A Di Đà thì cũng thế, Ngài có hai vị thị giả là Quán Thế Âm bên trái và Đại Thế Chí bên phải. Quán Thế Âm thì tượng trưng cho từ bi, còn Đại Thế Chí thì tượng trưng cho trí tuệ viên mãn. Trí tuệ thì lúc nào cũng dẫn đầu bởi vì có trí tuệ viên mãn thì từ bi mới thành tựu được. Đức Phật Thích Ca cũng có hai vị Bồ tát phụ tá là Văn Thù và Phổ Hiền. Ngài Văn Thù Sư Lợi tượng trưng cho trí tuệ còn ngài Phổ Hiền là đại hạnh từ bi.

Xã hội văn minh đã lôi cuốn con người phải làm việc một cách quay cuống để kiếm sống. Sau đó con người đã đặt ra đủ thứ giải trí để giúp cuộc sống thêm thoải mái hơn. Nhưng đa số phương tiện giải trí lại còn ồn áo, náo nhiệt và quay cuồng hơn nữa. Làm sao cái thể xác mong manh đang mệt mỏi lại có thể chịu đựng thêm những sự náo nhiệt đó được? Do đó xã hội càng văn minh thì càng phát sinh ra những căn bệnh thần kinh, sự khủng hoảng tinh thần và dĩ nhiên các chứng bệnh nan y kỳ lạ. 


47. Quán Thế Âm Bồ Tát 
(Bodhisattva Avalokitesvara)

Vào thời Phật Bảo Tạng nhập thế, có vị Thái tử con của vua Vô Trách Nhiệm tên là Bất Huyến  theo vua cha đến nghe Phật thuyết pháp và thỉnh Phật cùng chư Tăng về cung cúng dường. Sau đó Thái tử phát nguyện cùng Phật rằng:”Tôi nguyện trong khi tu những điều công hạnh Bồ tát, làm những việc lợi ích cho chúng sanh, nếu tôi xem có người bị khốn khổ hiểm nghèo ở trong hoàn cảnh ám muội, không biết cậy nhờ ai, không biết nương tựa vào đâu, mà có xưng danh hiệu tôi, tức thì tôi dùng phép Thiên nhỉ mà lắng nghe và dùng phép Thiên nhãn mà quan sát coi kẻ mắc nạn ấy ở chỗ nào, cầu khẩn việc gì, đặng tôi hiện đến mà cứu độ cho khỏi khổ và được vui. Nếu chẳng đặng như lời thề đó thì tôi không thành Phật”. 

Phật Bảo Tạng sau khi nghe những lời nguyện ấy liền thọ ký cho Thái tử Bất Huyến rằng:”Ngươi xem xét chúng sanh trong cõi Thiên Thượng Nhơn gian và trong ba đường dữ đều mắc những sự tội báo, mà sanh lòng đại bi, muốn đoạn trừ mọi sự khổ cực, dứt bỏ những điều phiền não và làm cho tất cả chúng sanh được hưởng sự an vui nên ta đặt cho ngươi hiệu là Quán Thế Âm”. 

Bất Huyến Thái tử khi được Phật thọ ký thì lòng rất vui mừng. Đến lúc mạng chung, thì Ngài thọ sanh ra các đời khác. Dầu trải kiếp nọ qua kiếp kia mà Ngài vẫn luôn giữ bổn nguyện, cố gắng tu hành, cầu đạo Bồ đề, làm hạnh Bồ tát, luôn luôn thi hành những sự lợi ích cho chúng sanh và không khi nào Ngài quên cái niệm đại bi đại nguyện. Hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát là vị thị giả phía bên trái của Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc. Ngài phụ tá Phật A Di Đà để cứu độ chúng sanh và về sau nữa sẽ thành Phật  hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương.
         
Quán Thế Âm có nghĩa là quan sát tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Vì thế bất cứ chúng sinh ở đâu đau khổ thì Ngài thị hiện đến để cứu độ. Quán Thế Âm Bồ tát là hiện thân của từ bi do đó Ngài có thể hóa thân để cứu giúp chúng sinh ở bất cứ hoàn cảnh nào. Có nhiều lần Ngài hóa thân làm người nữ để độ đời nên người ta thường gọi Ngài là Phật Bà. 
         
Về hình tượng của Ngài thì chúng ta có thể thấy dựa theo lịch sử như: Quán Âm Hài Nhi là dựa theo cốt truyện Quán Âm Thị Kính, Quán Âm Nam Hải, Quán Âm Tử Trúc…Riêng về phái Mật tông thì có Quán Âm Mã Đầu, Quán Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quán Âm Cửu Diện…

Nhưng có một pho tượng mà ai ai trong chúng ta cũng đều biết đến đó là Quán Âm thanh tịnh. Tượng Quán Thế Âm nầy là hình người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương liễu và tay trái cầm bình thanh tịnh, trong bình đựng nước cam lồ. Nhưng tại sao Bồ tát lại là người nữ? Dựa theo kinh Di Đà thì người sanh về cõi Cực Lạc tuy chưa chứng quả Thánh vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Thêm nữa, kinh A Hàm còn nói người nữ có năm chướng không thể thành Phật…Thế mà, Quán Thế Âm Bồ Tát lại hiện thân người nữ. Ngài có dụng ý gì?
         
Quán Thế Âm Bồ Tát là hiện thân của đức Từ Bi mà trong thế gian nầy không có tình thương nào chân thành thâm thúy bao la hơn là tình mẹ thương con. Cho nên, đức Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm gì mà một khi nghe tiếng con kêu khóc thì mẹ buông bỏ tất cả để chạy lại vỗ về cho con. Đức Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu thương của chúng sinh, Ngài liền hiện thân đến an ủi. Vì thế, chúng ta gọi Ngài là người mẹ hiền của tất cả chúng sanh. Người mẹ lúc nào cũng lắng nghe tiếng nức nở từ cõi lòng của đàn con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa dịu, cứu thoát khiến mọi khổ não đều được tiêu tan.
         
Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Còn tay trái cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Ngài dùng cành dương liễu để rưới nước mát cam lồ cho chúng sinh. Vì sao lại dùng cành dương liễu để nói lên tính nhẫn nhục?  Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gõ thì gió không thể lung lay, một khi bị gió lớn là phải gãy. Còn yếu như cành liễu thì chỉ buông rũ theo chiều gió và cũng nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Nói một cách khác là tuy chìu theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. 
       
Vì thế, cành dương liễu được tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Nhẫn nhục ở đây không có nghĩa là ai làm sao cũng được hoặc ai bảo gì cũng nghe mà nhẫn nhục là khéo tùy thuận người để hướng dẫn họ theo đường lối hay lập trường của mình. Người nhẫn nhục mới trông qua như rất yếu hèn, nhưng kỳ thật họ có sức mạnh phi thường. Họ đã vượt ra ngoài giới hạn của con người phàm tục và họ đã chiến thắng được tình cảm cũng như chính bản năng của họ. Thông thường thì người chửi ta giận, người đánh ta đở. Đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đở ấy mới là việc khó làm. Hằng ngày  sống theo tình cảm, theo bản năng thì thấy những phản ứng tự nhiên như vậy thì chúng  ta cho là phải lẽ và hợp lý. Nếu thấy người bị chửi mà không giận thì chúng ta đâm ra bực tức, khi dể họ và cho họ là những kẻ yếu hèn nhút nhát. Đâu ngờ rằng với tâm nhẫn nhục họ đã vượt xa chúng ta, họ đã đứng trên đỉnh chúng ta mà ở dưới nầy chúng ta vẫn còn tự cao tự đại.
         
Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt còn chữ lồ là đọc ngược từ chữ lộ, tức là sương. Khi bị nóng bức khô khan, nếu được giọt nước cam lồ thấm vào cổ thì chúng ta sẽ nghe ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền não thiêu đốt và thiết tha cầu cứu nơi Bồ tát thì Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Hiện tại chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới và ngọn lửa phiền não của chúng ta đang bừng cháy liên tục. Nếu không có giọt nước từ bi của Bồ tát thì chắc chắn chúng ta đều phải chết thiêu trong lò phiền não. Nên nhớ rằng từ bi là tình thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ và chính là tình thương chân thật bình đẳng. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn, mà còn đem lại cho chúng ta nguồn an lạc vô biên.
         
Bởi tính chất quý báu vô thượng của nước cam lồ, nên Bồ tát phải đựng nó trong cái bình thanh tịnh. Bình thanh tịnh là tượng trưng cho ba nghiệp trong sạch, đó là thân, khẩu, ý. Nếu chúng ta ôm ấp lòng từ bi muốn cứu độ chúng sanh, mà thân, miệng và ý chưa được trong sạch thì khó mà thực hiện được lòng từ bi đó. Chẳng hạn như những vụ thiên tai bảo lụt trên thế giới. Nếu chúng sinh vì lòng từ bi thương người hoạn nạn đem tiền tài vật chất đến tặng họ. Nhưng nếu chúng sinh đó ý chưa trong sạch thì dễ dàng bị danh lợi làm  hoen ố lòng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện lòng từ bi, điều kiện quan trọng là thân, miệng và ý phải thanh tịnh.
         
Thêm nữa, muốn mang nước cam lồ ra tưới mát chúng sanh, Bồ tát phải dùng cành dương liễu làm phương tiện. Tại sao? Bởi vì chúng sanh trong đời nầy nghiệp chướng quá sâu dày, ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngã và sống vì dục vọng của họ nên khó ai làm cho họ hài lòng. Cho nên có người sẵn sàng giúp họ khi khốn đốn mà họ vẫn không biết ơn. Người sẵn lòng từ bi ra tế độ chúng sanh, nếu thiếu đức tánh nhẫn nhục thì sự tế độ đó khó được viên mãn. Bởi thế, người học đạo từ bi trước hết phải tập đức nhẫn nhục và khi nhẫn nhục được thuần rồi thì mới bắt đầu thực hành từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục mà đã vội thực hành từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà chúng ta dễ dàng  phát sanh sân hận. Cho nên, phải có cành dương liễu rồi sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sinh.
Lòng từ bi không nhất thiết chỉ có trong tâm của Bồ tát hay trong tâm những kẻ tu hành, mà nó còn ở trong lòng của tất cả chúng sanh. Cho nên, ai ai cũng có thể là bậc cứu khổ chúng sanh, nếu họ phát tâm từ bi. Nói một cách khác, từ bi không phải là gia bảo dành riêng cho các bậc tu hành, mà nó là của chung cho tất cả nhân loại. Dù ở hoàn cảnh nào, trường hợp nào, cũng có thể thực hiện từ bi được, nếu trong lòng chúng ta chứa sẵn từ bi.
         
Sau cùng, chúng ta thấy lòng từ bi thì cao cả khôn lường. Do đó mỗi khi lễ tượng đức Quán Thế Âm, chúng ta luôn luôn ghi nhớ hai đức tính căn bản của Ngài là từ bi và nhẫn nhục, để đem nó áp dụng vào chính bản thân của chúng ta. Được như thế thì sự lễ bái mới thật là hữu ích và cần thiết vô cùng. 
  
Tại sao Bồ tát có tới ngàn tay ngàn mắt?
Con mắt là biểu hiệu cho kiến tánh, còn cánh tay thì biểu hiệu cho diệu dụng. Nếu người được minh tâm kiến tánh thì kiến tánh nầy cũng như là một ngàn vị Phật vì thế mới được gọi là Thiên nhãn phóng ra hào quang sáng ngời. Còn tự tánh của mình phát sanh ra diệu dụng cũng đồng diệu dụng như ngàn vị Phật khác do đó mới gọi là  Thiên thủ tác dụng. Thể và dụng là hai pháp  được biểu lộ ra như vị Viên Thông Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Bồ Tát Với Ngàn Tay Ngàn Mắt 


48. Pháp tu Tịnh độ
(Pure Land)

Đức Phật đã chế ra 84,000 pháp môn để giúp chúng sinh tùy theo căn cơ của họ mà tu luyện. Căn cơ của mỗi người cao thấp khác nhau thì khả năng thu nhập của họ cũng không giống nhau được. Pháp môn Tịnh độ đã được chính Đức Phật chế ra để giúp đại đa số chúng sinh có thể vãng sinh mà phương pháp tu hành thì tương đối dễ dàng nhất so với các pháp môn khác. Dựa theo pháp môn nầy thì người tu chỉ cần chú tâm niệm Phật A Di Đà thì có thể vãng sanh về Tây phương Cực lạc được.

Vì tính chất hữu hiệu của nó nên pháp môn Tịnh độ là cứu cánh cho tất cả mọi người nếu muốn thoát khỏi sinh tử luân hồi. Chính ngài Diên Thọ, tổ thứ sáu của Tịnh độ tông khuyên chúng ta như sau:
”Có thiền, mà có tịnh thì như cọp mạnh thêm sừng”.
 Ngài còn thiết tha khuyên:
Có thiền mà không có tịnh,
Mười người tu thì lạc đến chín.
Ấm cảnh nếu đã hiện tiền,
Liền theo đó mà đi lẹ.
Thật vậy, chính ngài Văn Thù Bồ-tát trong kinh Quán Tam Muội cũng xác định là:
”Trong các pháp môn tu, không có pháp môn nào qua môn niệm Phật. Niệm Phật là vua của các pháp môn”.
Ngoài ra, những Bồ-tát như Quán Thế Âm, Thế Chí, Di Lặc, Mả Minh, Long thọ… đều cầu sanh Cực lạc cả. Trong lịch sử Phật giáo có rất nhiều bậc chánh truyền Thiền tông nhưng vì muốn chắc chắn để được vãng sanh, cuối cùng cũng đổi sang môn Tịnh độ. Những vị đó là Thiền sư Thừa Viển, Vĩnh Minh, Phát Huệ, Thức Hiển, Triệt Ngộ, Liên Trì…
         
Điển hình là trường hợp của Thiền sư Triệt Ngộ. Chính ngài đã biết trước ngày giờ ngài sẽ vãng sanh nên sai đệ tử lập đàng trai và nói với họ rằng:
”Hôm qua ta thấy ba vị đại sĩ là Văn Thù, Thế Chí và Quán Âm. Hôm nay lại được chính Phật đến tiếp dẫn”. 
Sau đó ngài bèn kết ấn Di Đà rồi an tường mà viên tịch. Tất cả đại chúng còn nghe mùi hương lạ phảng phất khắp hư không. Như thế thì vãng sanh là Phật đến tiếp dẫn khi còn sống chớ đâu phải chờ cho đến lúc chết. Nói một cách khác là sống mà được tiếp dẫn thì gọi là được vãng sanh.
         
Vậy Tịnh độ tông có những kinh sách gì?
1)Kinh Vô lượng thọ: Kinh nầy chép lại 48 lời thề nguyện của Pháp tạng Tỳ kheo với Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai trước khi Ngài thành Phật A Di Đà. Ngài phát nguyện là sau khi thành Phật thì Ngài sẽ lập ra một cõi thật trang nghiêm thanh tịnh để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới. Nếu chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh cõi Tịnh độ của Ngài.

2)Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh nầy ghi rõ 16 pháp quan và 9 phẩm để dạy chúng sinh được vãng sanh về Tây phương Cực lạc.

3)Kinh Tiểu Bổn A Di Đà: Đây là kinh nói về cõi Cực lạc trang nghiêm khiến chúng ta sanh lòng ham mộ mà phát nguyện tu theo pháp môn “Trì danh niệm Phật cho đến khi Nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi nầy.

4)Kinh Bửu Tích: Diễn tả việc Đức Phật Thích Ca thuyết pháp môn “Trì danh niệm Phật” cho vua cha Tịnh Phạn để ngài an tâm mà vãng sanh.

7)Kinh Đại Bổn A Di Đà: Bao gồm kinh Thập lục quan, kinh Ban Châu niệm Phật, kinh Bi Hoa, kinh Phương Đẳng, kinh Hoa Nghiêm…
Vậy có bao nhiêu cách niệm Phật?

1)Trì Danh Niệm Phật: Mỗi ngày từ lúc mới thức dậy cho đến khi đi ngủ thì chúng ta phải chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A Di Đà. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn và trước khi đi ngủ thì chúng ta đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra, chúng ta có thể theo phương pháp kinh hành niệm Phật, hoặc tọa thiền niệm Phật thì kết quả có thể khả quan hơn. Mỗi khi niệm Phật xong thì chúng ta phải hồi hướng cầu sanh về Tịnh độ.

2)Quán Tượng Niệm Phật: Chúng ta phải chú tâm chiêm ngưỡng và quan sát các tướng tốt mà liên tưởng đến các đức tánh của Phật. Chẳng hạn như chiêm ngưỡng đôi mắt của Phật thì liên tưởng đến trí tuệ của Phật. Khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật thì chúng ta liên tưởng đến tánh từ bi hỷ xả  của Phật. Nhờ sự liên tưởng nầy mà các đức tính tốt của Phật như từ bi hỷ xã, bình đẳng, lợi tha được thấm nhuần vào tâm của chúng ta. Nếu làm được như vậy thì càng ngày tâm của chúng ta sẽ được thanh tịnh. Chúng ta có thể lọc sạch những niệm ác và sẽ giống tâm Phật, dĩ nhiên sau đó chúng ta sẽ được vãng sanh về cõi Phật. 

3)Quán Tưởng Niệm Phật: Mặc dầu trước mắt không có tượng hay ảnh của Phật nhưng chúng ta liên tưởng như có Đức Phật A Di Đà cao lớn đứng trên tòa sen và phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng bao phủ cả thân hình. Chúng ta ngồi ngay thẳng và hay tay chắp lại để tưởng mình đang ngồi trên đài sen và đang được Đức Phật tiếp dẫn. Chúng ta chăm chú mãi mãi như thế như khi đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghĩ cho đến khi nào mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật. Lúc đó thì chúng ta đã thuần thục và khi lâm chung chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.

4)Thật Tướng Niệm Phật: Khi mà niệm Phật đã đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư và không giả.

5)Tham Cứu Niệm Phật: Chúng ta phải tham khảo, cứu xét, suy niệm câu niệm Phật. Chẳng hạn như khi niệm:” Nam mô A Di Đà Phật” thì chúng ta phải quan sát câu niệm nầy từ đâu mà đến và sau đó sẽ đi về đâu? Niệm đây là ai niệm? Nhờ vào sự chuyên tâm chú ý tham khảo cầu niệm Phật như thế cho nên vọng tưởng dần dần chìm lặng và cưối cùng chúng ta có thể đạt được “Nhất tâm bất loạn”. Dĩ nhiên, đến khi lâm chung, chúng ta sẽ được vãng sanh về cảnh giới Cực lạc.

Tóm lại: “ Người niệm Phật đến khi hết vọng tưởng và ngộ nhập được chơn tâm rồi thì Phật A Di Đà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nội tâm mình hiện ra chứ không phải đâu xa”. Bởi vậy, kinh Phật mới nói rằng:”Tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.

Trong môn Tịnh độ nầy thì lấy tâm tín nguyện mà chuyên trì danh hiệu Phật. Trì cho đến lúc nhất tâm bất loạn thì sự nghiệp tu Tịnh độ đã đến chổ thành tựu và sẽ được vãng sanh.

Muốn tu theo những pháp môn khác thì chúng ta phải sám hối hết tất cả những tội nghiệp hiện tại cũng như trong quá khứ bằng không thì sự tu đạo sẽ gặp nhiều chướng ngại. Còn người tu tịnh độ thì được mang cả nghiệp mà vãng sanh.  Và đây được gọi là đối nghiệp vãng sanh. Thêm nữa, chí tâm mà niệm một tiếng Phật thì có thể diệt được tội nặng sanh tử trong mười kiếp vậy.

Còn một điều quan trọng khác là một khi tu những pháp môn khác thì chúng ta phải đoạn trừ mọi phiền não. Còn theo Tịnh độ tông thì chúng ta chỉ cần tu tịnh nghiệp là được ra khỏi tam giới mà không cần phải đoạn sạch phiền não. Khi đã được vãng sanh là chấm dứt sanh tử và một khi đã vào cõi Thánh rồi thì việc tu đạo lại càng dễ dàng hơn. Lúc đó chúng ta sẽ dễ dàng tăng quả vị một khi đã có cơ hội gần gủi với chư Phật. 

Lúc sắp lâm chung chúng ta phải làm gì?

Cổ nhân có nói:”Ta thấy người khác chết, trong lòng cảm thấy xót xa. Chẳng phải thương cho kẻ chết mà xót xa cho chính thân ta”.

Chúng ta đã biết đời là vô thường. Của cải, tiền bạc, thân bằng, quyến thuộc cũng đều là duyên giả tạm. Sống tùy giả cảnh thì khi chết rũ sạch không? Có biết bao người vì luyến tiếc tiền của hoặc thân thuộc, đến khi sắp chết phải gặp bao khó khăn, không yên tâm nhắm mắt cho được. Do vậy, con người trước khi lâm chung thì thường có những mối nghi ngờ và chính nó sẽ là những căn nguyên làm cản trở cho việc vãng sanh của họ. Có ba mối nghi ngờ mà chúng ta cần biết đến:

1) Nghi ngờ mình mang nhiều nghiệp nặng mà thời gian tu hành ít nên lo sợ không được vãng sanh: Họ quên rằng Đức Phật A Di Đà từng có lời thệ nguyện:”Chúng sanh nào chí tâm muốn về miền Cực lạc thì niệm danh hiệu Ngài đến mười niệm. Nếu không được vãng sanh,  Ngài thề không thành Phật”. Phật không bao giờ nói dối. Mười niệm là thời gian tu hành rất ngắn mà còn được vãng sanh huống chi chúng ta niệm còn hơn số đó. Hơn nữa, dầu kẻ nghiệp nặng đến đâu mà nếu chí tâm sám hối nương về Phật A Di Đà thì Ngài sẽ tiếp dẫn.

2) Nghi ngờ mình bản nguyện chưa trả xong, tham, sân, si chưa dứt thì lo sợ không được vãng sanh: Nói về đạo thì có người nguyện cất chùa, hay nguyện tụng kinh bao nhiêu số nhưng chưa đạt được thì sắp lâm chung. Phật dạy: “Chỉ tín tâm niệm Phật khi được vãng sanh sẽ làm vô lượng vô biên công đức. Còn bản nguyện chỉ là việc nhỏ, làm xong hay chưa xong không mấy quan hệ và chẳng có hại chi cả”. Bây giờ nói về đời: Có người lo cho cha già mẹ yếu suy tàn không có người chăm sóc. Lo cho vợ dại con thơ thiếu chỗ nương tựa hoặc có kẻ thiếu nợ chưa kịp trả. Tâm nguyện của họ chưa vẹn nên lòng chưa yên. Phật lại dạy rằng:” Lúc ta sắp chết, dù có lo hay không, cũng chẳng làm gì được. Chi bằng chuyên tâm niệm Phật thì khi được vãng sanh về Tây phương thì tất cả mọi bản nguyện trái duyên đều có thể trả xong. Tất cả kẻ oán người thân đều có thể được cứu độ”.

3) Nghi ngờ mình niệm Phật mà Phật không đến rước thì không được vãng sanh: Người niệm Phật tùy theo công đức của mình nên khi lâm chung thì thấy Phật, Bồ-tát, hay Thánh đến rước. Có khi không thấy chi nhưng nhờ sức nguyện tinh tấn của mình và Phật lực thầm giúp đở cho nên thần thức tự bay về Tây phương Cực lạc.  Chỉ cần lúc ấy họ phải chí tâm niệm Phật chớ đừng nghĩ ngợi chi khác. Nếu nghi ngờ sẽ tự sanh ra chướng ngại.

Còn một điều nữa là trong gia đình từ cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái đều là do đời trước có nợ nần, ân oán nên kiếp nầy mới tạm hội ngộ nhau mà thôi. Khi nhân duyên đã hết thì mỗi người đi mỗi ngã. Nếu có lòng thương là tốt hơn chúng ta nên gác bỏ tình cảm trần gian để cầu sanh về Tây phương cực lạc. Khi cái chết sắp đến, dù có quyến luyến cũng không thể đem theo, không làm chi được. Bởi vì chính xác thân của chúng ta cũng phải tan về cát bụi. Nếu luyến ái thì khó mà được vãng sanh lại bị khổ luân hồi vô cùng vô tận.
Có nên khóc lóc cho người thân khi họ sắp chết không?

Theo Phật giáo, khi có người sắp chết thì thân bằng quyến thuộc không nên khóc lóc và cũng đừng lộ nét bi thương.  Bởi vì lúc bấy giờ người sắp chết đã đi đến ngã rẽ phân chia giữa quỉ, người và Thánh. Đây là giây phút quan trọng nhất trong cuộc đời của họ chẳng khác nào ngàn cân treo dưới sợi tóc. Chúng ta chỉ chí tâm trợ niệm Phật A Di Đà là tốt nhứt. Dẫu người có chí nguyện vãng sanh mà bị thân quyến thương khóc làm cho khởi động niệm tình ái thì tất bị đọa luân hồi. Do đó bao nhiêu công phu tu luyện đều phí cả. Nên nhớ khi người sắp mãn phần thì họ cần sự trợ niệm của chúng ta bởi vì lúc nầy từ tinh thần đến thể chất của họ đều yếu kém mê mờ, khó mà tự chủ cho được. Chúng ta nên thỉnh tượng hay hình Đức Phật A Di Đà để trước mắt họ cho họ nhìn thấy. Sau đó cắm một bình hoa tươi và đốt vài nén nhang. Bởi vì khói thơm vừa thoáng để tiến đến chánh niệm cho họ. Chúng ta vẫn tiếp tục thay phiên nhau hay cùng nhau niệm Phật A Di Đà cho họ.

Làm gì khi họ mới tắt hơi?
Một điều thật quan trọng là khi họ mới tắt hơi thì không nên vội di động thân thể của họ cho dù có dơ dáy. Trước và sau khi chết, người thân không được khóc mà chỉ tiếp tục niệm Phật A Di Đà. Phải đợi 8 tiếng đồng hồ sau mới được đụng xác họ bởi vì trong khoảng thời gian nầy thì người chết vẫn còn cảm giác. Tuy họ đã chết, nhưng A-Lại-Da thức còn chưa ra khỏi xác thân họ. A-Lại-Da thức là thần thức đã giữ gìn tất cả những nghiệp thức của họ đã tao ra khi còn sống trong kiếp nầy và của kiếp trước dựa theo nghiệp lực để dẫn họ đi đầu thai khi có đủ nhân duyên. 

Việc gì sẽ xảy ra cho họ khi mà họ mới lâm chung?
Có ba trường hợp xảy ra cho người vừa mới lâm chung:

1) Những người khi còn sống tạo ra rất nhiều thiện nghiệp, làm lành tránh dữ thì sẽ sinh lên cõi trời tức thì sau khi chết. Nhưng nên nhớ cõi trời ở đây vẫn nằm trong lục đạo, có nghĩa là chúng ta chưa thoát ra khỏi vòng sanh tử.

2) Những người lúc sinh thời tạo quá nhiều ác nghiệp thành thử nghiệp quả của họ quá nặng do đó khi chết họ sẽ bị đọa tức thì vào đường súc sanh, ngả quỷ hay địa ngục.
3) Những người tu tịnh nghiệp sẽ được vãng sanh về Tây phương Cực lạc.
Ngoài ba trường hợp trên thì người chết phải đợi trong vòng 49 ngày để thần thức hội đủ tất cả các nhân duyên rồi mới được chuyển sinh tùy theo nghiệp thức của họ.

Vì thế từ lúc mới chết cho đến khi đi đầu thai là khoảng 49 ngày thành thử cách tốt nhất là trong khoảng thời gian nầy chúng ta liên tiếp tụng, niệm Phật để trợ lực thêm cho họ. Nếu ho sinh vào cõi trời , nhờ sự trợ lục nầy họ có thể tăng thêm phước lạc. Nếu họ bị đọa vảo ba đường dữ, nhờ sự trợ lực nầy, họ cũng giảm đi nỗi khổ đau và cải thiện sự đầu thai của họ. Còn như họ đã sinh về cõi Phật thì phẩm sen cũng được nâng cao. 

Còn việc cúng tế thì sao?

Chúng ta là người Phật tử thì chỉ nên cúng kiến những món chay mà thôi. Khi phải sát sinh để cúng cho họ thì chẳng những chúng ta tự mình tạo ra ác nghiệp mà còn gieo nghiệp ác cho người quá vãng nữa. Như vậy có thể cản trở cho việc vãng sanh của họ.

Chúng ta phần lớn hấp thụ giáo lý Khổng Mạnh nên thường tổ chức cúng giỗ cho rình rang. Bởi vì Đức Khổng Tử nói rằng: “Thờ cha kính mẹ lúc còn sống cũng như khi chết”. Nhưng khi hỏi thì con người sẽ đi về đâu sau khi chết thì Ngài trả lời:”Việc sống còn không biết hết, thì việc chết miễn bàn”. Thật vậy, Đạo Khổng chỉ dạy con người một đời mà thôi có nghĩa là từ lúc sinh ra đến lúc chết. Nếu cho rằng cúng tế thật rình rang để tỏ lòng hiếu để đối với người chết thì thật là bất hiếu. Tại sao vậy? Bởi vì nếu lúc cha mẹ còn sinh tiền không giúp họ tu nhân tích đức, tu đạo để được vãng sanh thì là con bất hiếu rồi. Đến khi họ chết thì lo cúng giỗ cho lớn nhưng nếu họ chứng được thì là nguy to. Tại sao?  Bởi vì sau bao năm mà họ không đầu thai được chỗ nào tức là không được siêu thoát thì họ đã thành ma đói rồi. Thật là một điều thê thảm. Còn nếu họ không chứng thì mình cúng lớn là để mình ăn cho sướng mà thôi. 

Mỗi năm nhân mùa Vu lan báo hiếu thì thường thường chúng ta về chùa để cầu nguyện cho ông bà quá vãng. Đây là dựa theo chuyện của ngài Mục kiền Liên ngày nọ để cứu mẹ là bà Thanh Đề ở dưới địa ngục. Nếu chúng ta đã học qua Phật pháp thì người con có hiếu là không phải đợi đến rằm tháng bảy mới lo cho cha mẹ. Lo như vậy là đã quá trễ rồi. Đó là con bất hiếu chứ đâu phải là hiếu tử. Nếu muốn báo hiếu cho cha mẹ thì từ đây phải khuyến khích họ cùng chúng ta để lo tu học, niệm Phật, tạo nhiều công đức và phước đức. Nên làm lành tránh dữ thì dù chúng ta không  đến chùa vào lễ Vu lan nhưng chắc chắn tương lai của họ cũng như của mình sẽ  vô cùng sáng sủa. Đây là cách báo hiếu chân thật.
Niệm Phật tam muội.
         
Người niệm Phật khi đạt đến chỗ tuyệt đỉnh tận cùng thì sẽ thấy cảnh hư linh sáng lạng và vọng giác tiêu tan. Lúc đó họ sẽ quên hết thân tâm ngoại cảnh, không còn ảnh hưởng thời gian không gian và tâm thể bừng sáng để chứng vào cảnh giới “vô niệm vô bất niệm”. Không niệm mà niệm, không thấy biết mới là sự thấy biết chân thật bởi vì có thấy biết tức là lạc theo trần giới. Đến đây thì nước bạc non xanh, suối reo chim hót và tâm quang sáng chói.
         
Có bốn môn niệm Phật tam muội là:
I.   Bát chu tam muội: Bát chu có nghĩa là Phật lập. Khi thực hành môn nầy thì chúng ta phải lấy 90 ngày làm một định kỳ. Trong thời gian ấy, ngày đêm chúng ta chỉ đứng hoặc đi, lúc nào cũng tưởng Đức Phật A Di Đà hiện thân với 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp. Khi công thành thì chúng ta sẽ thấy Đức Phật A Di Đà và chư Phật mười phương hiện ra đứng trước mặt chúng ta để khen ngợi. Người tu môn nầy thì khi đi, mỗi bước đều không rời danh hiệu Phật. Pháp môn nầy công đức rất cao nhưng chỉ dành cho những bậc thượng căn mà thôi.
II.  Nhất hạnh tam muội: Nhất hạnh có nghĩa là chuyên nhất về một môn mà thôi. Khi tu theo môn nầy thì chúng ta thường ngồi và chỉ chuyên nhất quán tưởng hoặc niệm danh hiệu Đức A Di Đà. Mặc dầu tu một môn nhưng công phu thật viên hạnh. Môn nầy thì dành cho mọi người.
III. Pháp hoa tam muội: Đây là một trong 16 tam muội như kinh Pháp Hoa Diệu Âm Bồ-tát đã nói. Khi tu theo môn nầy thì chúng ta có thể  thay đổi giữa ngồi và đi để quán Phật hoặc niệm Phật cho đến khi nào chứng nhập vào Chánh định. Phép tu nầy thì có phần dễ hơn Nhất hạnh tam muội ở trên.
IV. Tùy tự ý tam muội: tu theo pháp môn nầy thì tùy tâm mà đi đứng, nằm ngồi để niệm danh hiệu Phật A Di Đà cho đến khi vào tam muội. Lối tu nầy con được gọi là :”Lưu thủy niệm Phật”. Cũng như ngọn nước của dòng sông cứ kiên tục chảy mãi, dầu gặp cây đá ngăn cản thì nó chỉ dội lại rồi cũng tìm lối chảy đi. Người tu theo lối nầy thì cứ mỗi buổi trưa lễ Phật A Di Đà bốn mươi tám lạy. Còn Quán Thế Âm, Thế Chí và Hải Chúng mỗi danh hiệu bảy lạy. Sau đó quỳ xuống để sám hối. Rồi từ đó cho đến tối, lúc đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật. Họ có thể lần chuỗi ghi số, hoặc niệm suông, cho đến khi đi ngủ. Trước khi đi ngũ thì lễ Phật một lần nữa và đem công đức tu trong ngày mà phát nguyện hồi hướng vãng sanh. Pháp tu nầy tuy tùy tiện dễ dàng nhưng phải tránh bớt duyên và cố tâm bền bỉ mới mong thành tựu.
                   Vội vội vàng vàng khổ nhọc cầu
                   Mưa mưa nắng nắng trải xuân thu
                   Hôm hôm sớm sớm lo sinh kế
                   Lãng lãng quên quên thấy bạc đầu
                   Thị thị phi phi không kết liểu
                   Phiền phiền não não những bi ưu
                   Rành rành rõ rõ một đường đạo
                   Vạn vạn ngàn ngàn chẳng chịu tu.

Cho nên chúng ta phải tu, phải lo niệm Phật:
“Nắm lấy chuổi tràng trần niệm dứt
Nghiễm nhiên thành Phật đã lâu rồi” 
   
Phần Tóm Lược
Ngày nay rất nhiều người tu Tịnh độ, lễ bài rất chuyên cần mà vẫn không đạt kết quả bao nhiêu? Họ đi chùa lễ Phật , tham dự nhiều Phật thất năm nầy qua năm khác mà chứng nào vẫn tật nấy…Tại sao?

Đối với Tịnh độ thì người tu phải nắm vững những nguyên tắc căn bản rất quan trọng là chí tâm chí thành mà thường được gọi là Tín, Hạnh, Nguyện thay vì thực hành như một thói quen máy móc nên không có kết quả bao nhiêu.

Nên nhớ Tịnh độ không những chú trọng đến tha lực (Phật lực A Di Đà) mà còn đòi hỏi cả công phu về tự lực nữa. Quy tắc căn bản về pháp môn niệm Phật là phải biết nghiêm trì sáu căn: Mắt, Tai, Lưỡi, Mũi, Thân, Ý và ba nghiệp: Thân, Khẩu, Ý cho thật thanh tịnh để lúc niệm Phật được nhất tâm. Đây chính là phần tự lực mà con người phần lớn bỏ quên đi không chú ý đến. Khi niệm Phật, hành lễ mà thấy tự tâm tha thiết mạnh mẽ, không hề có vọng tưởng thì có thể cảm thông được với chân tâm của chư Phật trong Pháp giới. Thật ra tâm Phật và tâm của chúng sinh không hề khác nhau, đều cùng một Bản Thể, nhưng vì chúng sinh chưa ý thức được điều nầy vì còn bị vô minh che phủ nên mới có sự phân biệt, xa cách. Thêm nữa, chúng sinh từ vô thỉ đến nay đã gây ra biết bao tội ác cho nên dù công phu tu tập đến đâu cũng khó mà giải trừ hết nghiệp chướng trong một đời nên phải nhờ oai lực của câu niệm Phật để tiêu trừ bớt nghiệp giúp cho tín căn, tín lực gia tăng mà được vãng sinh. Đó là phần tha lực.
         
Còn về phần tự lực thì khi người niệm Phật thì họ biết giữ sao cho mắt đừng bị chi phối bởi ngoại cảnh, đừng nhìn ngang nhìn dọc làm cho tâm sinh loạn tưởng. Muốn tâm được thanh tịnh thì phải biết làm chủ sáu căn của mình. Khi niệm Phật thì mắt chỉ chăm chú nhìn lên tượng Phật hoặc giữ hình ảnh của Phật A Di Đà trong tâm mà thôi. Mắt không nên nhìn chung quanh rồi tâm sinh vọng động để rồi suy nghĩ, lo lắng đủ điều thì làm sao có thể đạt được trạng thái nhất tâm bất loạn được. Niệm tới đâu phải biết tới đó, niệm một câu biết một câu, niệm mười câu biết mười câu chớ không lầm lẫn hoặc lầm lạc. 
       
Khi niệm Phật đừng để cho tai nghe những tiếng động khác chung quanh mà làm cho tâm ý khởi vọng động. Các căn còn lại như mũi, lưỡi, thân, ý cũng phải kiểm soát như thế thì vọng động không xen vào trong tâm thức của người niệm Phật. Khi tất cả sáu căn được thu nhiếp và được đặt dưới sự kiểm soát của tâm để không còn vọng động, không còn loạn tưởng thì đạt được Nhất Tâm Bất Loạn. Nếu nghĩ lại đây là Chánh Niệm của người tu Tịnh độ và đây cũng chính là Chánh Niệm của người tu thiền. Phương tiện tuy có khác nhưng mục đích nào có khác gì đâu. 
       
Trong ba nghiệp thì Ý Nghiệp là mạnh nhất. Ý là nhân mà thân khẩu là quả của nó. Vì thế đối với người tu Tịnh độ thì ít ai có thể kiểm soát được nên người niệm Phật phải trông vào tha lực của chư Phật hộ trì cho. Nếu người niệm Phật chí tâm chí thành niệm danh hiệu Phật A Di Đà thì tâm vọng tưởng, tâm điên đảo, tâm nghĩ ngợi lung tung sẽ từ từ tan biến và được thay bằng bản tâm thanh tịnh. Oai lực của sáu chữ hồng danh rất lớn, bất khả tư nghì cho nên nếu người niệm Phật nhất tâm trì tụng thì có thể khắc phục được Ý Nghiệp của mình. Khi ba nghiệp Thân-Khẩu-Ý được thanh tịnh, sáu căn không còn dính mắc thì trí tuệ sáng suốt và chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tây phương Cực Lạc. 
         
Tóm lại pháp môn Tịnh độ bao gồm cả tự lực lẫn tha lực, tuy giản dị nhưng công năng vô cùng huyền diệu. Muốn tu theo pháp môn nầy mà không nắm vững quy tắc căn bản là nghiêm trì sáu căn và ba nghiệp thì cho dù họ có đọc tụng thiên kinh vạn quyển, niệm muôn trùng biến thì cũng chẳng có lợi ích bao nhiêu. Rất nhiều người cho rằng tu Tịnh độ chỉ trông nhờ vào tha lực tiếp dẫn của Phật A Di Đà mà thôi thì cũng là một thiếu sót. Bởi vì thiếu tự lực thì không thể được nhất tâm. Mà không nhất tâm thì làm sao thông cảm được với chân tâm của chư Phật. Thêm nữa, một số người niệm Phật để cầu phước hay để xin xỏ việc nầy việc nọ thì cũng là đi ngược lại với đường lối của Tịnh độ bởi vì niệm Phật mà thiếu tâm thành chỉ mong cầu nầy nọ tức là tâm vẫn còn tham thì làm sao có kết quả được. Đối với người tu Tịnh độ thì họ không cần xin gì ngoài việc vãng sinh về cõi Tây phương mà thôi. 
         
Vì Tịnh độ bao gồm cả tự lực và tha lực nên Tịnh gồm cả Thiền và Mật. Đó là người tu phải ý thức hành vi cử chỉ của mình và vừa tha thiết niệm hồng danh Phật A Di Đà để cầu vãng sinh. Pháp môn nầy do chính Đức Phật Thích Ca nói ra và chư Phật mười phương đều tán thán. Ngay cả Bồ-tát Di Lặc chỉ còn một đời nữa sẽ thành Phật mà còn ngày đêm hành lễ thì đủ biết tầm quan trọng và công năng của nó như thế nào. 

Chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà để dẹp trừ vọng tưởng chấp trước bao nhiêu đời . Vì thế một câu niệm Phật như cầm chổi quét sạch vọng tưởng. Niệm mãi không quên khiến vọng niệm tự tiêu trừ. Sáng niệm Phật, tối niệm Phật. Đi đứng nằm ngồi trong 24 tiếng niệm niệm không quên. Thầm thầm lặng lặng, công phu thuần thục chín mùi thì cảnh Tây phương Cực lạc hiện trước mắt, được lợi ích vô biên. 


49. Ăn chay

Ăn chay có nghĩa là ăn những loài thảo mộc như hoa quả, rau cải, ngũ cốc và không ăn những món thuộc loài động vật  như thịt cá, tôm cua, sò, ốc hay những vật hữu tình biết tham sống sợ chết như con người.
         
Phật dạy:” Ăn chay là cốt yếu để nuôi dưỡng lòng từ bi và tinh thần bình đẳng”.
         
Nếu chúng ta vì muốn ăn cho khoái khẩu mà nhẫn tâm nhìn cảnh chặt đầu, lột da những con vật hiền lành vô tội hay nhẫn tâm bịt tai giả điếc trước những tiếng kêu la thảm thiết của những con vật đang giãy dụa trên tấm thớt, trên bàn thịt thì sao gọi là Phật tử cho được.

Nếu nói là “Vật dưỡng nhơn” thì thật là một quan niệm sai lầm cấu tạo bởi sự ích kỷ và ngạo mạn mà thôi. Bởi vì nếu con người muốn sống thì con vật đâu có muốn chết bao giờ.

Nếu không có lòng thương xót trước những cảnh giết chóc thì hạt giống từ bi mỗi ngày thêm khô héo. Như thế thì công phu tu hành, tụng kinh niệm Phật cũng trở thành vô nghĩa.
Kinh Lăng Nghiêm nói:”Nếu giết một mạng thì phải trả lại một mạng. Tâm giết hại chẳng dứt trừ thì không thể nào ra khỏi trần lao được”. Vậy muốn tránh oan báo luân hồi thì chúng ta nên tránh các điều tội lỗi thuộc về giới sát sanh. Người Phật tử nên ăn chay, nếu ăn mặn hoài thì không thể nào dứt hết nợ thân mạng và nợ xương thịt, máu huyết được.

Vậy cách thức ăn chay như thế nào?
Đạo Phật không đòi hỏi người tu Phật phải bỏ ăn mặn hoàn toàn để ăn chay trường khi mới tu Phật. Nhưng muốn đạt đến kết quả tốt nhất là chúng ta từ từ bỏ dần bằng cách thay thế ăn mặn bằng ăn chay theo kỳ hạn và từ đó theo ngày tháng thì chúng ta sẽ cảm thấy thoải mái khi trở thành trường chay. 

1)Ăn chay kỳ: tức là ăn có kỳ hạn nhứt định trong mỗi tháng hay mỗi năm.
Ø    Nhị trai: Ăn hai ngày chay trong mỗi tháng vào ngày rằm và ngày mồng một.
Ø    Tứ trai: Ăn bốn ngày: mồng một, mồng tám, rằm và hai mươi ba.
Ø    Lục trai: Ăn sáu ngày: mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, hai mươi ba, hai mươi chín hay ba mươi.
Ø    Thập trai: Ăn mười ngày: mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hai mươi ba, hai mươi bốn, hai mươi tám, hai mươi chín, và ba mươi.
Ø    Nhất nguyệt trai: là ăn chay một tháng vào tháng giêng hay tháng bảy.
Ø    Tam nguyệt trai: là ăn ba tháng chay: tháng giêng, tháng bảy và tháng chín hay tháng mười hoặc ăn liên tiếp trong ba tháng.
        
Nếu tập ăn chay kỳ trong một thời gian mà không gặp phản ứng nào về thân, tâm và nhận thấy có lợi ích thì có thể tiến đến trường chay.

2)Ăn chay trường: là ăn chay cho đến trọn đời.
Những điều cần phải tránh cho người ăn chay:
Nếu có phúc duyên thì chúng ta ăn chay được dễ dàng nhưng đừng sanh lòng kiêu mạn tự cho mình là hơn người. Người ăn chay là vì đạo pháp chớ không phải để cho người khen. Khi ăn chay không có nghĩa là hành hạ thân xác. Chúng ta ăn uống bình thường để nuôi thân mà tu đạo, chỉ khác là không ăn thịt mà thôi.
      
Gần đây có phong trào nấu đồ chay theo hình tướng của món mặn. Chẳng hạn như: gà xào xã ớt, súp măng cua, cá kho tộ, vịt Bắc Kinh ăn với bánh bao, mắm thái ăn với thit ba rọi, gà rô ti, đùi gà quay…Ngạc nhiên nhất là chúng ta thấy các chùa tại hải ngoại nấu những món nầy để quý thầy, quý ni cô và Phật tử thập phương dùng. Khi mới nhìn thì không cách nào phân biệt là đồ chay hay mặn. Nên nhớ rằng rất nhiều người bây giờ họ không muốn ăn thịt vì lý do sức khỏe chứ không phải là vì tín ngưỡng. Thành thử họ làm đủ thứ món để ăn cho ngon miệng mà không sợ đau bệnh và làm giảm lượng mở trong máu. Còn chúng ta là người tu Phật thì mình phải diệt trừ vọng tưng ??ể tâm được thanh tịnh. Một khi ăn chay mà lòng còn tưởng nhớ đến thịt cá, món ngon vật lạ thì làm sao mà tu cho được. Tu như vậy thì biết bao nhiêu kiếp mới đạt được đạo? Tất cả những kinh sánh Phật giáo đều cấm đoán việc nầy. Nếu không thể ăn chay thì cứ ngã mặn chớ không thể nói ăn vịt quay chay mà có mang hơi hám của Phật được. Đó chỉ làm trò cười cho thế gian mà thôi.
       
Các loại trứng có thể ấp nở thành con và có mùi tanh thì người ăn chay thanh tịnh tốt nhất là không nên ăn. Tuy trứng mua ngoài chợ thì phần nhiều không có sinh mạng nhưng chúng rõ ràng không phải là thực vật. Do đó nếu đứng trên lập trường sát sinh mà nói thì ăn trứng nầy không gọi là phạm giới cũng không tổn lòng từ bi. Còn theo thói quen ăn chay thì nên tránh vậy. 

50. Quan Thánh

Ngài tên thật là Vỏ tự là Vân Trường, tục danh là Quan Công. Ngài sinh ở tỉnh Sơn Đông, miền Đông Bắc nước Tàu bây giờ. Thủa nhỏ, Ngài rất ham học và thích nghiền ngẫm kinh Xuân Thu của Đức Khổng Tử. Tưởng cũng nên nhắc lại là khi vua Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc vào năm 215 trước Tây lịch và sau đó ông Lưu Ban đánh đuổi nhà Tần để khôi phục cho nhà Hán vào năm 196 trước Tây lịch. Nhà Hán thịnh khoảng 400 năm cho đến khi nhà Đông Hán mất ngôi và nước Tàu được chia làm ba: Tây Thục (Lưu Bị), Bắc Ngụy ( Tào Tháo) và Đông Ngô (Tôn Quyền). Đó là năm 220 sau Tây lịch. Cùng khoảng thời gian này thì ở Việt Nam nước ta có bà Triệu (tức Triệu thị Chính) nổi dậy vào năm 248 sau Tây lịch để chống lại với Thứ sử Giao Châu là Lục Dận của Đông Ngô sai sang. 
  
Lúc bấy giờ nhà Đông Hán đang ở trong tình trạng suy vi, hoạn quan thì kết bè, kết đảng lộng quyền ở bên trong. Còn ở bên ngoài thì giặc  Huỳnh Cân nổi lên cướp phá. Một ngày kia, Quan Vỏ gặp được một người tường mạo phi thường có tên là Huyền Đức, là chú của giòng vua và một người nữa râu hàm tướng mạnh có tên là Trương Phi. Ba người mặc dầu không hề quen biết nhau, nhưng cùng một chí hướng là muốn khôi phục lại nhà Hán, nên đã cùng nhau kết nghĩa anh em, thề đồng sanh đồng tử tại vườn đào của nhà họ Trương. 
  
Vì Trương Phi là giàu có, nên xuất tiền ra mua ngựa và khí giới cho ba người. Lúc bấy giờ, Huỳnh Cân thanh thế rất mạnh lại có Trương Giác dùng yêu thuật giúp đỡ, nhưng quân của Lưu Bị đã đánh tan và được vua Hiến Đế mời vào cung thiết đãi và cũng vì thế mà mới biết Lưu Bị là Hoàng thúc của vua. 
   
Lúc thất thủ thành Hạ Bì, thì ba anh em chạy lạc nhau. Quan Vân trường phò nhị tẩu chạy đến Thế Sơn, nhưng Tào Tháo biết được liền cho Trương Liêu, là bạn của Quan Vỏ ngày xưa, đến để dụ Ngài ra hàng. Biết là thế cùng, lực tận, Ngài liền tương kế, tựu kế, đưa ra ba điều kiện: Ngài hàng Hán chớ không hàng Tào, không được quấy phá nhị tẩu và bất cứ khi nào có tin của Lưu Bị thí phải cho Ngài đi ngay. Tào Tháo miễn cưởng phải cho Ngài hàng. Trong thời gian ở với Tào, thì Tào Tháo tiếp đãi ngài rất trọng vọng, tam nhựt thì tiểu yến, thất nhựt thì đại yến, muốn gì được nấy, cốt là làm cho Quan Vỏ siêu lòng mà hàng phục. Tào thấy râu của Ngài dài, bèn truyền may bọc để bọc râu của Ngài khỏi lạnh vào mùa đông. Để đáp lại việc hậu đãi đó, Quan Vỏ ra trận giết hai tướng Nhan Lương, Văn Xú của Viên Thiệu. Thấy thế Tào Tháo lại càng khâm phục hơn. 
  
Khi nghe tin Lưu Bị đang ở Hà Bắc với Viên Thiệu, thì Ngài xin đi ngay. Nhưng qua bao nhiêu lần cầu khẩn, Tào Tháo cứ tránh mặt không tiếp. Sau cùng, Ngài liền gói ấn Thọ Đình Hầu cùng vàng bạc châu báu của Taò Tháo ban cho lâu nay, niêm lại kỹ càng và giao người đem trả lạ cho Tào. Nhưng khi ra đi, Ngài bất đắc dĩ phải phá ngũ quan và chém đầu 6 tướng giữ ải của Tào. Tào Tháo đuổi theo, nhưng biết không thể nào giữ nổi, nên truyền tặng cho Ngài chiếc Cẩm bào để lưu niệm. Ngài vẫn ngồi trên lưng con xích thố (ngựa màu đỏ), lấy thanh long đao vớt lấy Cẩm bào, nghiên mình tạ ơn rồi ra đi. 
  
Một thời gian sau, Lưu Bị liên kết với Tôn Quyền để đánh Tào. Vì bị kế của Khổng Minh, Tào Tháo thua lớn trận Xích bích trên sông Trường giang nên kéo tàn binh chạy về ngã Hoa Dung Đạo. Quan Vân Trường nhận lịnh của Khổng Minh đem quân chờ sẵn để lấy đầu Tào Tháo. Vừa gặp Quan Vân Trường, Tào Tháo hồn phi phách tán, vội vàng xuống ngựa hạ mình kể lễ những sự hậu đãi của hắn ngày xưa (người đời về sau thường nói kể lễ như Tào Tháo là bắt nguồn từ chuyện này). Quan Vân Trường là con người nghĩa khí cầm lòng chẳng đặng, đành làm ngơ cho Tào Tháo chạy. Khi về dưới trướng, Quân sư Khổng Minh truyền đem Ngài ra chém để làm lịnh. Nhờ tất cả triều thần can gián nên Ngài mới thoát khỏi tội chết. 
 
Khi Lưu Bị đem quân vào đất Thục thì để Quan Công ở lại giữ Kinh Châu, bởi vì Kinh Châu thì liên giáp với nước Ngô nên Tôn Quyền lúc nào cũng muốn gồm thâu để tăng thêm thế lực. 
  
Khi Tôn Quyền sai Lục Tốn đến thay đại tướng Lử Mông để đánh Quan Công, thì ông không còn đề phòng như trước. Lý do là đại tướng Lử Mông là tay văn vỏ song toàn, làu thông binh cơ chiến pháp thành thử Quan Công phòng thủ kỹ càng. Do đó mà đánh mãi Lử Mông cũng không cách gì thắng được. Tôn Quyền là tay xảo quyệt, hắn bèn thay Lử Mông bằng một tên thư sinh vô danh tiểu tốt, nhưng bên trong chất chứa một kho tàng chiến lược. Khi nghe tin Lục Tốn đến thay, thì Quan công mỉm cười khinh địch, không còn phòng thủ như trước nữa, vì cứ tưởng Lục Tốn là bạch diện thư sinh, không có kinh nghiệm chiến trường.  
 
Bởi sự khinh địch này mà Ngài để thất thủ thành Kinh Châu. Sau khi thất thủ, Ngài chạy qua ngã Mạch Thành và sa vào quỷ kế của Tôn Quyền nên cả người lẫn ngựa bị sa xuống hầm và bị bắt. Tôn Quyền sai Gia Cát Cẩn đến dụ Ngài đầu hàng, nhưng quân sư của Tôn Quyền khuyên nên giết đi để trừ hậu hoạn vì ngày xưa Tào Tháo còn không dụ nổi Quan Công huống hồ gì Tôn Quyền. Cho dù Gia Cát Cẩn khuyên dụ, nhưng Quan Công nhứt định không hàng, nên Ngài cùng với con nuôi là Quan Bình và cận tướng Châu Thương bị giết chết ngày 18 tháng 10 năm Kiến An thứ 24, thọ được 58 tuổi. Con ngựa xích thố cũng bỏ ăn mà chết theo. 
  
Khi bị giết, thì hồn của Ngài bay về chùa Ngọc Tuyền. Nơi đây có vị Hòa Thượng tên Phổ Tịnh mà khi xưa có duyên với Ngài, để đòi hoàn +đầu lại. Nhưng sau khi nghe Hòa Thượng thuyết pháp về các việc oan trái ở đời, thì Ngài tỉnh ngộ mà quy y theo Phật. Sau Quan Công chứng được quả Già Lam Bồ-tát, rồi quả Cái Thiên Cổ Phật và Quan Thánh Đế Quân. Cùng theo với Ngài còn có hai vị tả hữu là Quan Bình và Châu Thương. 
  
Mặc dầu Ngài đã mất cách nay mấy ngàn năm, nhưng người đời vẫn luôn luôn kính mến Ngài, không phải vì Ngài là một danh tướng, mà chính là cái phong cách quân tử với đầy đủ đức độ như: nhân, nghĩa, trí, dũng của Ngài. 


51. Nho Giáo

Nho giáo hay còn được gọi là Khổng giáo đã được khai sinh vào thời Xuân Thu bởi Đức Khổng Tử, hoặc Khổng Phu Tử. Đức Khổng Tử sanh năm 551 trước Tây lịch tại tỉnh Sơn Đông (miền Đông Bắc nước Tàu) và là dòng dõi của Vi Tử Điền từ đời nhà Thương (1775 năm trước Tây lịch). Đến đời tổ thứ sáu của Ngài thì được vua ban cho họ Khổng và sau đó gia đình Ngài tới định cư tại nước Lổ (miền Tây Nam nước Tàu).
         
Vì không có con để nối dõi tông đường, nên Phụ mẫu của Ngài lên núi Ni Khưu để cầu tự. Sau đó thân mẫu của Ngài nằm mộng thấy một con kỳ lân đến trước mặt bà, nhìn bà rồi quỳ xuống nhả ra một cây thước bằng ngọc trên có đề mấy chữ: “Thủy tinh chi tử, kế suy Châu vi tố vương” có nghĩa là con của vì sao Thủy tinh, đến nối truyền cho nhà Châu đã suy vong mà làm vua không ngôi. Khi Ngài mới sinh ra thì có rồng bay đến bao quanh nhà. Để nhớ lại Ngài là con cầu tự ở núi Ni Khưu nên Ngài được đặt tên là Trọng Ni. Tướng mạo của Ngài thì lạ thường: môi Ngài như môi trâu, bàn tay như bàn tay cọp, vai như vai chim uyên và xương sống như xương sống rùa. Vì thế người đời nói Ngài có tướng ngũ lộ: mặt lớn, răng hô, tai to, mũi rộng và hàm lộ.
         
Khi Đức Khổng Tử lên ba thì thân phụ của Ngài qua đời thành thử Ngài lớn lên trong sự nhọc nhằn nuôi nấng của mẹ. Tuy nhiên Ngài là người rất hiếu học cho nên khi mới lên 15 tuổi thì Ngài đã nổi tiếng trong ngành văn học. Đến năm 20 tuổi thì Ngài đã bước chân vào chốn quan trường. Vì sanh vào thời Xuân Thu nên đây là giai đoạn có Ngũ Bá tranh hùng đã làm cho dân tình khốn khổ và đạo đức càng thêm bại hoại. Chính Đức Khổng Tử đã giúp cho vua Lổ Định Công xây dựng một nước Lổ  được cường thịnh. Đối với Ngài thì mỗi việc đều dùng lễ  mà trị. Ngay cả đến việc dạy dân trị nước, nếu thiếu lễ là dân yếu nước hèn. Sau khi bỏ nước Lổ, Ngài đi chu du khắp thiên hạ từ nước chư hầu nầy sang nước kia để tìm cách giúp đời. Môn đệ theo Ngài thì càng ngày càng nhiều nhưng nổi tiếng hơn cả là thầy Tăng Sâm. Ngài Tăng Sâm sau lại truyền cho Khổng Cáp và Khổng Cáp truyền lại cho Mạnh Tử. Thầy Mạnh Tử là một nhà hiền triết của nước Tàu. Chính ông đã làm sách Mạnh Tử để bàn về sự trọng nhân nghĩa, khinh công lợi và cho rằng bản tính con người vốn làm lành do đó ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn (hai vị vua hiền từ đức hạnh, thương dân như thương mình) được.
         
Với tất cả tài ba lỗi lạc của Ngài, chỉ cần Ngài nói một câu thì tiền tài, danh vọng sẽ đem đến dâng cho Ngài. Nhưng Ngài vẫn giữ chữ thanh bần cho tròn Nhân, Nghĩa, Tín, Thành. Ngài thường nói:”Mặc dầu cơm lạt nước trong, lấy tay làm gối mà ta vẫn có niềm vui. Còn tiền tài, của cải và danh vọng có được bởi sự bất chánh, đối với ta, cũng như mây bay gió thoảng”. Ngài lấy tam cương ngũ thường làm chuẩn để dạy con người cách ăn ở với nhau trong đời. Đến lúc già, Ngài trở về nước Lổ và soạn ra những bộ Ngũ Kinh và Tứ Thư.
Ngũ kinh thì gồm: kinh Lễ, kinh Dịch, kinh Thư, kinh Thi và kinh Xuân Thu.
Tứ Thư thì có: bộ Luận ngữ, Trung Dung, Đại học và Mạnh Tử.
Ngài mất vào đời Châu Kinh Vương tức năm 479 trước Tây lịch, thọ 72 tuổi.
         
Chủ trương của Ngài là chỉ lấy những điều hợp với bản tính của con người mà dạy người chứ không dạy những điều u uẩn huyền diệu khác với đạo thường. Vì thế Ngài nói rằng:” Đạo bất viễn nhân, nhân chi vi đạo nhi viễn nhân, bất khả di vi đạo” có nghĩa là” Đạo không xa cái bản tính của con người. Hễ đạo mà xa cái bản tính ấy , thì không phải là đạo”.
         
Tôn chỉ của Nho giáo là lấy chữ Hiếu, Để, Trung, Thư làn gốc và lấy sự sửa mình để làm căn bản mà dạy người. Ngài chỉ dạy người về sự thực tế hiện tại còn những điều viễn vông ngoài những sự sinh hoạt của trần thế thì Ngài không bàn đến. Còn nói đến sự sống chết thì Ngài bảo rằng:”Vi trí sinh, yên trí tử” có nghĩa là “Chưa biết hết được sự sống, làm sao biết được việc chết”.
         
Đạo của Ngài thật là cao siêu nhưng về đường thực tế thì chỉ chú trọng ở luân thường đạo lý. Cái đạo lý mà có thể truyền từ đời nầy sang đời khác và làm cái căn bản cho một xã hội yên vui trật tự và thái bình. Còn đối với người thì Ngài dạy:”Kỳ sở bất dục, vật thi ư nhân” tạm dịch là “Điều gì mà mình không muốn người ta làm cho mình thì mình đừng làm cho họ”.
          Khi Nho giáo được phát triển mạnh ở bên Tàu thì tại đất Giao Châu chúng ta vẫn còn lệ thuộc nước Tàu cho nên người mình cũng vì thế mà ảnh hưởng theo. Nhưng có lẽ Nho giáo thịnh hành nhất bắt đầu từ đời nhà Trần (1225-1400) trở đi trong khi Phật giáo thì thịnh  từ đời nhà Đinh (968-980), nhà tiền Lê (980-1009) và đặc biệt là nhà Lý (1010-1225). 

52. Đạo giáo

Đạo giáo là đạo bởi ông Lảo Tử mà thành ra. Lảo Tử còn được gọi là Thái Thượng Lảo Quân hay Thái Thượng Lảo Tổ. 
        
Ngài quê quán ở xóm Khúc Nhơn, làng Lệ, huyện Khổ, thuộc nước Sở. Ngài sinh năm 604 trước Tây lịch về đời vua Châu Định Vương, họ Lý tên Đàm. Đến đời vua Châu Cảnh Vương, năm 523 trước Tây lịch thì Ngài mất, thọ 81 tuổi.
         
Tôn chỉ của Lảo Tử là trước khi có trời đất thì chỉ có đạo. Đạo là bản thể của vũ trụ và là cái gốc nguyên thủy của tạo hóa. Vạn vật đều bởi đạo mà sinh ra, cho nên muốn sửa mình và trị nước thì phải theo đạo, nghĩa là con người nên điềm tỉnh, vô vi và tự nhiên chứ không nên dùng trí lực mà làm gì cả. Bởi vậy, trong Đạo Đức Kinh, ông ta viết về chữ đạo như sau:
          “Đạo khả đạo phi thường đạo
          Danh khả danh phi thường danh”
Tạm dịch là:
“Đạo mà nói ra được thì không phải là đạo,
Tên mà nói ra được thì không phải là tên” 
         
Truyện kể rằng: Khi về già thì Ngài chán thế sự nên cởi trâu đi về hướng Tây tạng. Khi đến đèo Hán Khẩu thì quan giữ cửa ải khuyên Ngài trở lại đừng đi xa nữa nhưng Ngài không chịu. Quan giữ ải cầu khẩn Ngài nên để lại cái chi lưu niệm về thuyết sống cũng như về cuộc đời của Ngài. Ngài bằng lòng và ba ngày sau Ngài trở lại và trao cho quan giử ải một cuốn sách nhỏ viết tay với 5,000 chữ có tên là Đạo Đức kinh.
         
Trong Đạo Đức kinh có ghi một câu chuyện giữa Đức Khổng Tử và Lảo Tử bởi vì hai vị sống cùng một thời. Một hôm Đức Khổng Tử vì nghe danh Ngài Lảo Tử rất nhiều nên tìm đến gặp Ngài một lần. Sau khi gặp Lảo Tử thì học trò hỏi Đức Khổng Tử nhận xét về Lảo Tử như thế nào? Đức Khổng Tử đăm chiêu, do dự nhưng rất khâm phục và nói: “Hôm nay ta đã gặp Ngài Lảo Tử. Hôm nay ta đã thấy một con rồng”.
Cũng trong Đạo Đức kinh, Lảo Tử dạy về cái đạo Vô vi. Vô vi không phải là không làm cái gì hết mà phải luôn luôn làm theo đạo pháp. Vì nó trường lưu bất tận như khi hư vô vận chuyển không ngừng để nuôi dưỡng, bảo tồn vạn loài, không bao giờ ngừng nghĩ cũng như con người phải thở, phải ăn để sống. Phải làm những việc hữu ích cho muôn loài mà không bao giờ nên kể ơn, kể công và không màng ai biết mình. Hành động với tinh thần vô ngã, vô danh, vô công, vô có, vô chấp mới là thực hành đúng theo cái đạo Vô vi. Những học trò của Lảo Tử thì có Văn Tử, Thi Tử, Trang Tử và Liệt Tử.
       
Đạo của Lảo Tử lúc đầu là một món triết học rất cao siêu nhưng về sau cái học thuyết biến đổi đi. Thế rồi những người giảng thuật thần tiên cũng phụ theo đạo ấy mà nói chuyện số kiếp và những sự tu luyện để được phép trường sanh bất tử. Bởi vậy, Đạo Lảo mới thành ra đạo thần tiên, phù thủy và những người theo đạo giáo thì gọi là Đạo sĩ. Nguyên từ đời vua Tần Thủy Hoàng và vua Vủ Đế nhà Hán, người Tàu đã tin sự thần tiên. Sau đến đời Đông Hán có Trương Đạo Lăng soạn thêm 24 thiên Đạo kinh giảng cái thuật trường sinh. Bọn giặc Hoàng Cán, Trương Giác chính là học trò của Trương Đạo Lăng. Đến đời nhà Đông Tấn lại có Cát Hồng nói rằng đã luyện được tiên thuật rồi làm sách dạy những thuật ấy. Từ đó về sau Đạo giáo thịnh dần lên và họ tôn Lảo Tử làm Thái Thượng Lảo Quân. Đời vua Cao Tổ nhà Đường có người nói rằng thấy Lảo Tử hiện ra ở núi Đường Giác Sơn xưng là tổ nhà Đường. Sau đó vua Cao Tổ đến tế ở miếu Lảo Tử và tôn Ngài lên là Thái Thượng Huyễn Nguyên Hoàng Đế. Bởi vậy nhà Đường trọng đạo Lảo Tử lắm và bắt con cháu phải học Đạo Đức Kinh.
         
Theo phong tục Việt Nam, thì việc bày bàn thờ để cúng gia tiên phải tuân theo quy tắc của Đạo giáo. Triết lý của Lảo Tử nói là vào thời nguyên thủy thì vũ trụ sinh ra Thái cực. Sau đó thái cực sinh ra âm dương và âm dương sinh ra ngũ hành để tạo ra trời đất. Bát nhang tượng trưng cho Thái cực. Lư hương tượng trưng cho Âm dương. Lư hương và hai chân đèn gọi là bộ tam sự còn nếu có thêm ống đựng nhang, ống đựng đũa thì gọi là ngũ sự. Việc bày bàn thờ cũng còn là biểu tượng của Ngũ hành: Kim (lư hương, chân đèn). Mộc (chân nhang, bài vị). Thủy (nước hoặc rượu). Hỏa (đèn, nến). Thổ (cát trong bát nhang). Còn về bình hoa và mâm ngũ quả thì phải đặt bình hoa ở hướng Đông còn mâm ngũ quả thì ở hướng Tây. Lý do là có hoa rồi mới có quả và nhờ ánh sáng từ phương Đông nên hoa mới kết thành quả. Hoa quả mang ý nghĩa dưỡng dục sinh thành của tổ tiên, ông bà và cha mẹ. 

Hồi Hướng:

Chúng sanh vô-biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô-tận thệnguyện đoạn;
Pháp môn vô-lượng thệ nguyện học.
Phật-đạo vô-thượng thệ nguyện thành. 

 
 HẾT
 
Tác giả bài viết: Lê Sỹ Minh Tùng
Nguồn tin: Thư Viện Hoa Sen
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 64
  • Khách viếng thăm: 57
  • Máy chủ tìm kiếm: 7
  • Hôm nay: 18364
  • Tháng hiện tại: 1711394
  • Tổng lượt truy cập: 59364327

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile