Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

PHÁ MÊ KHAI NGỘ - Phần 2

Đăng lúc: Thứ ba - 27/12/2011 23:16
PHÁ MÊ KHAI NGỘ - Phần 2

PHÁ MÊ KHAI NGỘ - Phần 2

Trên con đường tu đạo chúng ta sẽ gặp rất nhiều thử thách, nhưng trước khi nói về những chông gai trắc trở mà chúng ta có thể sẽ đối diện, chúng ta hãy quay về khoảng 2500 năm trước đây khi Đức Phật quyết định xuất gia xả thân cầu đạo, thì Ngài phải đương đầu với không biết bao nhiêu là trở ngại......
PHÁ MÊ KHAI NGỘ

Phần 2
 
Lê Sỹ Minh Tùng


18. Nhẫn nhục
19. Từ Bi Hỷ Xả
20. Bố Thí Ba-la-mật
21. Ý Nghĩa Chũ Vạn Trong Phật Giáo
22. Trì Giới Ba-La-Mật
23. 32 Tướng Tốt Của Đức Phật
24. Quy y Tam Bảo
25. Sự Tích Kinh Lăng Nghiêm
26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức
27. Giới Thiệu Kinh Hoa Nghiêm
28. Vô Thường – Vô Ngã
29. Con Người Từ Đâu Đến
30. Kinh Kim Cang Bát Nhã
31. Tứ Diệu đế
32. Khổ đế   (Dukkha) (Suffering)
33. Tập đế  (Sameda Dukkha) (Arising of Suffering)
34. Diệt đế  (Nirodha Dukkha) (Cessation of Suffering)

-------------------------------------------------------------------


18. Nhẫn nhục

Trên con đường tu đạo chúng ta sẽ gặp rất nhiều thử thách, nhưng trước khi nói về những chông gai trắc trở mà chúng ta có thể sẽ đối diện, chúng ta hãy quay về khoảng 2500 năm trước đây khi Đức Phật quyết định xuất gia xả thân cầu đạo, thì Ngài phải đương đầu với không biết bao nhiêu là trở ngại. Ngài bắt đầu tu thiền rồi cũng không đạt được những điều Ngài muốn, nếu không kiên nhẫn thì Ngài đã bỏ cuộc. Ngài tiếp tục tu theo lối khổ hạnh, hành thân hoại thể trong sáu năm trời cũng không đem lại  kết quả thích đáng nào.  
  
 
Thử hỏi ở trường họp của một người thường, chúng ta có còn đủ kiên nhẫn để tiếp tục con đường mà chúng ta muốn đi đến nữa không? Sau đó, Ngài tham thiền nhập định trong suốt 49 ngày trước khi Ngài chứng quả Bồ-đề. Sự thành công của Đức Phật không phải là một sự tự thiên mà có, nhưng đây là một thử thách cực độ đức tính kiên nhẫn của một vĩ nhân khi muốn đạt được một chân lý tối thượng để giải thoát cho nhân loại thoát khỏi cảnh sinh tử khổ đau.

Khi đã hiểu sự kiên nhẫn đưa đến thành công lớn như thế, thì chúng ta tự hỏi nhẫn nhục có ý nghĩa gì?
Nhẫn có nghĩa là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt, nghịch lòng.
Nhục là điều sĩ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.
Nhưng trong kinh Phạn không có chữ “nhục”, mà chữ nhục ở đây là do những vị Đại sư khi họ dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Trung Hoa mà ra. Họ đã ghép thêm chữ nhục vào cho nó thêm ý nghĩa. Tại sao mà họ làm vậy?

Chúng ta còn nhớ trước khi Đạo Phật du nhập vào Trung quốc, thì Đạo Khổng đã phát triển rộng rãi trong xã hội này. Đức Khổng Tử đã lấy Hiếu, Để, Trung,Thư làm gốc và lấy sự sửa mình làm căn bản để mà dạy người. Bởi vậy, người Trung quốc có câu:”Sĩ khả sát, bất khả nhục”, có nghĩa là người trí thức thà chết chứ không chịu nhục. Quý vị thử nghĩ rằng: “thà chết vinh còn hơn sống nhục” thì cái giá trị của chữ “nhục” còn nặng hơn cái chết.

Bởi vậy, khi dịch kinh sách thì những vị Đại sư ngày xưa đã ghép hai chữ này lại với nhau cho ý nghĩa của nó thật sâu sắc để chúng sinh ngẩm nghĩ mà tu hành.
Vậy nhẫn nhục là chịu nhục đến chỗ tột cùng không còn ai có thể nhẫn nhục hơn thế nữa.
Nói như thế thì người tu Phật tại sao lại cần phải nhẫn nhục?
Con đường tu đạo mà muốn đạt thành viên mãn thì không phải là dễ, chẳng hạn như tu thiền không thể nào một sớm một chiều mà đạt được”minh tâm kiến tánh”, và niệm Phật cũng cần thời gian mới đạt được “nhất tâm bất loạn”. Nhưng trên đời này chúng ta nhẫn cái mà người khác không nhẫn được thì mới thành công được. Muốn thành công nhỏ thì nhẫn nhỏ, nhưng nếu muốn thành công lớn thì chúng ta cần phải nhẫn nhiều hơn. Hơn thế nữa, cổ nhân cũng có câu:”Tiểu bất nhẫn, bất thành đại sự”, có nghĩa là việc nhỏ mà mình không thể nhẫn nhục được, thì việc lớn không mong chi thành công.

Chúng ta hằng ngày phải đương đầu với rất nhiều cảnh trái tai gai mắt, đó là chưa kể người đời thì ăn ngược nói ngạo, gian tham quỷ quyệt, thay trắng đổi đen. Nếu  không có tâm  nhẫn nhục thì Tham, Sân, Si sẽ nỗi dậy khiến cho Thân, Khẩu, Ý của chúng ta  vọng động và từ đó chúng ta sẽ tạo cho mình những ác nghiệp mà có thể làm trở ngại cho việc vãng sinh sau này. Khi đối diện với nghịch cảnh, chúng ta nên nhớ rằng tất cả mọi việc trên thế gian này đều là vô thường, ngay cả chính cái bản thân của chúng ta cũng vậy, thì dầu cho chúng ta có tranh dành, chiếm đoạt, đánh đập, hay sĩ vả người khác cũng chẳng có ích lợi gì.  
  
Nói như thế không phải chúng ta chọn con đường nhu nhược để sống. Mà con đường chúng ta đi là con đường nhân đạo dựa trên căn bản thêm bạn bớt thù và lấy phương châm là tạo hạnh phúc cho người tức là tự tạo hạnh phúc cho chính mình vậy. Nếu có người chửi mắng mình, thì mình phải bình tỉnh tự nghĩ rằng: Ta có làm gì sai quấy không? Nếu có thì họ sĩ nhục ta là thích đáng rồi, ta không nên cải lại mà chỉ cám ơn họ thôi. Còn nếu ta trong trắng, thì những lời chửi mắng kia đâu có dính líu gì với ta đâu mà phải bận tâm! Ta nhẫn nhục là vì ta có lòng Từ Bi Hỷ Xã, thương người, và không muốn làm người phải đau thương. 
  
Nhẫn nhục của lòng từ bi thì khác hẳn với nhẫn nhục do tham vọng, sân si, ái dục thúc đẩy. Bởi vì những nhẫn nhục do ái dục sinh ra, thì họ cố cắn răng chịu nhục một thời, rồi sau đó sẽ tìm phương hại người để trả thù. Đây là đại ác.  Khi nói về chuyện nhẫn nhục để trả thù thì trong truyện Đông Châu Liệt Quốc vào khoảng năm 26 đời Châu Kinh Vương, tức là cùng một thời với Đức Khổng Tử tại nước Lổ, giữa vua Việt là Câu Tiển và vua Ngô là Phù Sai.  
  
Quý vị còn nhớ là Ngủ Tử Tư vì chạy trốn vua Sở Bình Vương đã giết hại toàn gia đình của mình, phải nghĩ cách trốn qua ải, chỉ một đêm mà đầu bạc phơ. Sau ông gặp được vua Ngô là Hạp Lư, cùng với Tôn Vủ đem binh về báo thù nhà, nhưng lúc bây giờ vua Sở mới chết. Lòng thù hận đã khiến ông sai lính quật mồ vua Sở Bình Vương để bằm tử thi nát ra như cám cho hả giận. Khi vua Việt là Doản Thường nghe tin nước Ngô đang bỏ trống, định đánh lén bất ngờ, nhưng Tôn Tử đã giúp vua Ngô lui binh về kịp. Từ đó giữa Việt và Ngô lại tạo thù kết oán.  
   
Khi vua Ngô là Hạp Lư chuẩn bị kéo quân sang báo thù, thì vua Việt là Doản Thường bị bệnh chết, con là Câu Tiển lên thay. Vì không nghe lời can gián của Ngủ Tử Tư là đang lúc người ta có tang mà đánh là bất nhân, vua Ngô bị thảm bại mà chết, cháu là Phù Sai lên thay và thề sẽ trả mối hận này. Khi quân đã hùng mạnh thì vua Phù Sai đánh thắng vua Câu Tiển. Nhưng thay vì giết đi, lại nghe lời nịnh hót của Thái Tể Bá Hi để cho Câu Tiển được hàng.  
  
Trong thời gian bị giam cầm, vì chí lớn, Câu tiển nghe lời Phạm Lải  đi nếm phân của vua Phù Sai để lấy lòng trong khi ông ta đang bệnh. Quý vị có thấy là khi con người đã quyết chí báo thù thì họ chấp nhận làm bất cứ việc gì để có cơ hội phục thù. Vì nghĩ rằng Câu Tiển đã ăn năn nên Phù Sai thả “cọp” Câu Tiển về nước. Sau đó Câu Tiển nghe lời Phạm Lải đem mỹ nhân kế Tây Thi, Trịnh Đán cống sang làm cho Phù Sai say đắm mà quên đi phòng bị. Cuối cùng Câu Tiển đã diệt được Phù Sai. 
   
Cái nhẫn nhục của Câu Tiển thì trên đời nầy khó có ai bì kịp bởi vì ở địa vị cao sang tột đỉnh của một vì chúa tể một nước mà cam lòng làm tên giữ ngựa, hốt phân, giữ chuồng mà bề ngoài không tỏ ý oán hận. Việc nếm phân cho Phù Sai càng chứng tỏ sự nhẫn nhục đến tột độ và cho thấy chí phục thù mảnh liệt đã giúp cho Câu Tiển đến chỗ thành công. Nhưng sự thành công nào mà không phải trả giá. Cái giá ở đây là từ khi Câu Tiển nếm phân, ông ta sinh ra bệnh hôi miệng cho nên dù cao lương mỹ vị ông ta ăn cũng không biết ngon. May thay, Phạm Lải tìm được một thứ rau gọi là “rau chấp” dâng cho vua ăn để trừ bịnh nầy. Rau này ăn có mùi hôi nhưng rất hạp với Câu Tiển nên nhà vua cho đặt tên ngọn núi có rau này là Chấp sơn.
Có nhẫn nhục thì lòng từ bi mới chan chứa, tính thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quý trọng, và dĩ nhiên đạo quả viên thành.

Vì nhận thấy công đức lớn lao và quý báu của nhẫn nhục, nên cổ nhân đã có câu nhắn nhủ với người đời một cách mạnh mẻ như sau:

Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận.
Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn hóa nhất tề tiêu.
Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc.
Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do.

Tạm dịch là:
Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, khẩu nhẫn, tâm nhẫn) thì điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.
Nhịn nhịn nhịn (thân nhịn, khẩu nhịn, tâm nhịn) thì ngàn tai muôn họa đều tan biến.
Nín nín nín (thân nín, khẩu nín, tâm nín) thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.
Thôi thôi thôi (thân thôi, khẩu thôi, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế không còn tự do. 
 

19. Từ Bi Hỷ Xả
 
Khi chúng ta làm một điều gì không hài lòng người khác thì chúng ta thường hay nói đùa là nên lấy lòng từ bi mà hỷ xả cho. Sự va chạm trong cuộc đời đã mang đến cho chúng ta lắm nổi đau buồn. Thế thì cái gì đạ tạo ra sự vui cũng như cái khổ? Xin thưa đó là cái tâm. Đã là con người, thì tham, sân, si luôn luôn chế ngự cái tâm của chúng ta. Nó muốn cho cái tâm của chúng ta bị mê muội để làm nô lệ cho nó. Chúng ta càng mê muội, thì tâm càng vọng động. Mà tâm còn vọng động thì chúng ta còn đau khổ.  
  
Cuộc đời thì ngắn ngủi, mà đời người thì nhiều đau khổ, thử hỏi chúng ta sống còn có vui thú gì nữa đâu? Nói thế để chúng ta biết đâu là trắng, đâu là đen, chứ chủ trương của Phật giáo không phải là bi quan, nhu nhược và không có tinh thần tiến thủ. Đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ thì làm sao mà bi quan cho được.  Muốn khai trừ vọng tưởng ở trong tâm để cho tâm được an vui và thanh tịnh, chúng ta phải dùng đèn trí tuệ để phá tan đám mây đen hắc ám vô minh này. Khi chúng ta không còn quan niệm hẹp hòi, vị kỷ, thì cái tâm của chúng ta từ từ mở rộng, không còn chấp trước để thương yêu mọi người và mang lại hạnh phúc cho kẻ khác tức là tự tạo hạnh phúc cho chính mình. Cái tâm mà chúng ta nói ở đây chính là cái tâm vô lượng đó.

Vậy tâm vô lượng có những cái gì?
Tâm vô lượng thì bao gồm: Từ, Bi, Hỷ, Xả.
Trước hết hãy tìm hiểu thế nào là Từ và Bi?
Từ là mến thương và vì mến thương mà chúng ta tạo ra cái vui cho người. Còn Bi là lòng thương xót rộng lớn trước những nỗi khổ đau của người khác và quyết tâm làm mọi cách để diệt trừ những đau khổ này. Đức Phật đã dạy đời là biển khổ, có nghĩa là cái khổ của chúng sinh thật là mênh mông rộng lớn. Thật vậy, khi có con người,  có vũ trụ, tức là có khổ. Vì vô minh, chúng ta sống trong cảnh khổ mà cứ tưởng là mình đang vui sướng. Lấy giả làm chân, chúng ta đã gây ra không biết bao nhiêu là nhân khổ. Mà chúng ta quên đi là hể tạo nhân khổ thì tất nhiên chính mình phải chịu lấy quả khổ. Chứ có ai trồng đậu mà được khoai bao giờ? Nhưng mà người đời thì không chấp nhận như thế, hể khổ thì họ than trời trách đất, rên xiết thảm khóc, làm cho cuộc đời đen tối lại càng tối đen hơn. Cuộc sống đã khổ sở nay lại càng khổ sở thêm. Chúng ta thấy không gian vô tận, thế giới vô biên, thì cái khổ cũng mênh mông vô tận như thế đó. Nói tóm lại, Từ Bi là nhận thức những cái khổ, và tìm mọi cách diệt trừ những cái khổ này để mang lại yên vui hạnh phúc.
Trong phần Tứ Diệu Đế, Đức Phật đã cặn kẻ nói rõ tất cả những nỗi đau khổ trên thế gian nầy (khổ đế) và Ngài chỉ cho chúng ta nguồn căn phát sinh ra những nỗi khổ này (tập đế). Sau đó, Ngài mới cho chúng ta thấy cái vui của Niết Bàn (diệt đế) và cuối cùng thì đưa ra phương pháp để đạt đến cảnh vui này (đạo đế). Do đó khổ đế, tập đế tức là Từ còn diệt đế, đạo đế tức là Bi. Vậy Tứ Diệu Đế là Từ Bi.

Còn Hỷ, Xả thì sao?
Hỷ có nghĩa là vui theo. Nhưng vui theo cái gì?
Khi bạn bè hay thân bằng quyến thuộc của chúng ta làm những việc sai xấu chẳng hạn như say sưa, trộm cướp, hoặc sát sinh. Thay vì chúng ta hết sức khuyên can họ, chúng ta lại đồng lòng với họ đi vào con đường ác. Như thế, thì sự vui theo ở đây có nghĩa là khuyến khích, đồng lỏa với kẻ ác vậy. Chính chúng ta đã tự tạo cho mình ác nghiệp đấy.

Còn nếu họ làm những điều thiện chẳng hạn như giúp đở người nghèo khổ, ra tay phụ giúp công việc cho người già cả, giúp đở khích lệ cho kẻ tâm trí tối tăm, đem niềm vui đến cho trẻ em… thì việc vui theo này là một bước tiến trên con đường thiện nghiệp.
Vậy chúng ta phải dùng trí tuệ sáng suốt để phân định cái hay, cái dỡ của chữ Hỷ mà vui theo chớ đừng đụng cái gì vui theo cái nấy thì vô minh sẽ trấn áp cái tâm vô lượng của chúng ta.
Còn Xả là từ bỏ, không chấp, không kể nữa.

Cái khó trong thế gian này là làm thế nào để kìm chế cái ái dục và càng khó hơn nữa là chúng ta đang sống trong một xã hội quá phức tạp thì ái dục sẽ phát sinh dể dàng hơn. Chúng ta phải sáng suốt phân biệt cho rõ ràng đâu là nhu cầu và đâu là ái dục. Đạo Phật chỉ chủ trương tiêu diệt dục vọng để tâm được thanh tịnh, không còn phiền não, không còn chấp trước và cuối cùng có cơ hội chứng được Niết Bàn. Chớ Đạo Phật không bao giờ chủ trương tiêu diệt nhu cầu của cuộc sống cả. Tại sao mà chúng tôi biết chắc như vậy? Khi xưa lúc chưa thành Phật, thì chính Đức Phật đã tu khổ hạnh đến nỗi thân tàn ma dại mà Ngài chẳng đạt được kết quả gì. 

Sau cùng, Ngài chọn con đường trung đạo là phải giữ tấm thân nầy để phát huy trí tuệ bởi vì nếu thân thể suy nhược thì trí tuệ sẽ yếu kém. Tấm thân tứ đại đối với Đức Phật chỉ dùng như là chiếc bè để đưa Ngài vượt qua biển trầm luân và đến bờ giác ngộ mà thôi. Khi đã đến được bờ giác ngộ thì chúng ta phải bỏ chiếc bè kia lại và bước lên bờ để tự giải thoát. Đây chính là cứu cánh của Đạo Phật. Còn chúng ta là những Phật tử tại gia thì chúng ta cũng phải có cơm ăn, nhà ở và những phương tiện căn bản cho cuộc sống. Đây chỉ là nhu cầu mà thôi. Nhưng nếu nhà càng lớn thì chúng ta phải làm nô lệ cho nó. Xe càng mắc tiền thì chúng ta lại càng lo âu. Nên nhớ rằng, một khi chúng ta vượt qua giới hạn của nhu cầu, thì ái dục sẽ hiện lên, và đây chính là căn nguyên cội rễ của nỗi khổ đau.

Vậy Xả ở đây có nghĩa là phải lìa bỏ cho được ái dục. Chúng ta nên nhớ rằng một khi lòng sân hận nổi lên thì tâm từ bi bị lấn áp, nỗi ưu sầu của chúng ta càng tăng thì tâm hỷ không phát hiện và nếu ái dục còn nặng nề thì tâm xả sẽ không bao giờ được phát sinh.
Nói tóm lại, từ bi hỷ xả là bốn đức tính tối cao để giúp chúng ta kiềm chế lòng tham, sân, si. Nhờ trí tuệ sáng suốt chúng ta lúc nào cũng làm chủ bốn tên đại ác nầy, không cho nó có cơ hội hoành hành thì chúng ta sẽ biến khổ đau trên đời này thành những hạnh phúc chân thật.

Từ Bi - Bác Ái 
Bác ái là tình thương phát xuất từ con tim mà đã là từ con tim thì có lúc chúng ta thương, có lúc chúng ta ghét, buồn giận... Còn từ bi là tình thương phát xuất từ trong trí tuệ nên lúc nào cũng sáng suốt. Nói như thế thì giửa Từ bi và Bác ái có nhiều chỗ tương đồng cũng như dị biệt.

Như trên đã nói, Từ là đem niềm vui cho tất cả chúng sinh, còn Bi là diệt trừ nỗi khổ cho tất cả mọi loài. Chữ chúng sinh và mọi loài ở đây mà Đức Phật muốn nói là bao gồm cả con người và sinh vật. Còn diệt khổ của chữ Bi là tận diệt cội nguồn gốc rễ của nỗi khổ. Nói một cách khác là người có lòng Bi thì vừa xoa dịu nỗi đau khổ trong hiện tại mà còn ngăn ngừa cái khổ tái phát trong tương lai.

Sau cùng, khi chúng ta nói về hai chữ Từ Bi thì có nghĩa là mang lại sự vui sướng cho con người cũng như tất cả những sinh vật trên hoàn cầu và sự sung sướng này bắt đầu từ quá khứ, đến hiện tại, và chuyển qua tương lai của kiếp sau. Còn Bác ái thì chỉ chủ trương phần chính về con người mà không để ý đến súc vật, cho vui trong hiện tại mà không nghĩ đến cái Quả trong tương lai. 
Làm việc chi cũng lấy lòng thành làm gốc. Vì thế chúng sinh khi tu đạo mà không dụng công chí thành thì làm sao được sự lợi ích lành bệnh dứt khổ.  


20. Bố Thí Ba-la-mật
 
Đây là một trong Lục độ mà tự nó có ảnh hưởng sâu rộng trong Phật giáo. Trong cuộc sống hàng ngày chúng ta đã nhiều lần nghe  đến chữ bố thí mà chính mình cũng không hề để ý đến. Đạo Phật là đạo từ bi, có nghĩa là tình thương bao la  của chúng ta cho tất cả mọi chúng sinh. Chính Đức Phật vì lòng từ bi mà đã xuất gia, từ bỏ giàu sang phú quý, cung vàng điện ngọc, để tìm chánh đạo ngõ hầu giúp chúng sinh thoát ra cảnh khổ.
Vậy làm thế nào để phát huy lòng từ bi?

Sau khi Đúc Phật thành đạo, Ngài truyền dạy chúng sinh hãy cố gắng mở rộng lòng từ bi của mình càng nhiều càng tốt, mà phương pháp thực hành tốt nhất là bố thí. Do đó, Ngài đã chế ra pháp môn  Bố thí Ba-la-mật với tôn chỉ là phải thực hành điều tốt để tự độ cho mình và độ cho người ngõ hầu giúp chúng ta có cơ hội  thoát ra khỏi vòng luân hồi sanh tử để đến bờ giác ngộ.

Vậy thế nào là Bố thí?
Bố là cùng khắp, thí là cho là biếu, do đó Bố thí là cho cùng khắp, cho tất cả mọi người, mọi vật và mọi nơi. Còn Ba-la-mật là đến bờ bên kia.

Nói như vậy, Bố thí Ba-la-mật là một môn tu hành bằng phương pháp bố thí vì nó có sức                                               mạnh như là một chiếc thuyền để đưa mình và đưa người từ nơi mê muội đến bờ giác ngộ của chư Phật.
Vậy chúng ta phải Bố thí bằng cách nào?
Theo Phật giáo, thì Bố thí được chia làm ba loại: Tài thí, Pháp thí, và Vô úy thí.

1)   Tài thí: là đem tiền bạc, của cải, vật chất của mình cho người khác. Phần tài thí thì có thể chia làm hai loại:

Nội tài: là chỉ về bản thân của chúng ta. Đây là sự bố thí cao đẹp nhất mà chỉ có những người giàu lòng từ bi mới làm được, bởi vì loại bố thí này đòi hỏi chúng ta đôi khi phải hy sinh cả sinh mạng và đời sống của mình cho kẻ khác. Có một trường họp điển hình là biến cố 9/11 năm 2001 đả làm sụp đổ hai tòa nhà chọc trời ở Nữu ước. Khi hai tòa cao ốc nầy còn đang bùng cháy, thì có biết bao lính cứu hỏa, cũng như cảnh sát đã bất chấp mọi nguy hiểm tiến vào bên trong, chạy lên cầu thang để cứu những người thường dân vô tội còn đang bị kẹt ở bên trong. Và sự sụp đổ nhanh chóng của hai tòa cao ốc này đã giết chết trên mấy trăm lính cứu hỏa cũng như cảnh sát. Mặc dầu họ đang thi hành phận sự, nhưng với lòng can đảm bất chấp hiểm nguy, đã chứng minh sự hy sinh cao cả của họ cho sự sống của người khác và sự hy sinh này chính là Bố thí nội tài vậy.

Ngoại tài: là những vật thường dùng như thức ăn, đồ mặc, tiền bạc, xe cộ, nhà cửa….Khi chúng ta đem những thứ ấy cho những người túng thiếu, nghèo khổ thì gọi là Bố thí ngoại tài. Mặc dầu ở Hoa kỳ nhưng không phải là người Việt nam nào cũng thành công trên đất nước này cả. Dù thành công nhiều hay ít, tất cả chúng ta cùng có chung một quan niệm là chia sẻ, giúp đở người thân ở bên quê nhà. Khi họ nghèo khổ thì sự giúp đở đó mới có giá trị. Giúp cho họ có miếng cơm manh áo thì còn gì phước đức nào cho bằng. Thấy một nụ cười nở trên khuôn mặt khốn khổ thì cỏn hạnh phúc nào bằng. Đây chẳng những là chúng ta bố thí ngoại tài mà tự chúng ta đã tạo cho mình không biết bao nhiêu là thiện nghiệp, và chính những thiện nghiệp này sẽ giúp chúng ta thoát ra khỏi cảnh sinh tử luân hồi. Bởi thế thi hào Nguyễn Du cũng có câu:
“Dù xây chín bậc phù đồ
Không bằng làm phước cứu cho một người“
Thật vậy, việc làm phúc đức thì biết bao nhiêu cho đủ, nhưng giúp đở những ngưòi  nghèo khổ, những kẻ đang gặp cảnh túng cùng, hoặc là người hoạn nạn là tạo cho chúng ta có cơ hội để phát huy lòng từ bi và tâm Bồ-đề.

2)   Pháp thí: chúng ta là những người học Phật thì chúng ta nên cố gắng học hỏi để thông hiểu nhửng căn bản của Phật pháp bởi vì Đức Phật đã dạy rằng: “muốn đạt được đạo viên mãn, trước hết phải biết đạo, biết đạo rồi mới tu đạo, có tu đạo mới mong thành đạo”. Khi đã hiểu Phật pháp, thì chúng ta có thể đem những lời dạy quý báu của Như Lai ra khuyên bảo cho người khác để họ làm lành tránh dữ, cải tà quy chánh, và sống một cuộc đời đạo hạnh, thì chính chúng ta đã pháp thí cho họ rồi. Pháp thí có giá trị hơn cả tài thí, bởi vì tài thí thì chỉ giúp đở người khác về phương diện vật chất trong một thời gian hay tối đa là một đời, còn pháp thí thì giúp đở  về phương diện tinh thần, không riêng gì cho người nghèo khổ, mà luôn cho cả giới giàu sang, quyền tước. Bởi vì chúng ta đã mang ảnh hưởng tốt đẹp đến cho họ, chẳng những trong một giai đoạn, mà còn gieo nhân lành cho nhiều đời nhiều kiếp về sau. Vì những lẽ đó, chúng ta  đừng bao giờ bỏ mất bất cứ cơ hôi nào để làm pháp thí.
       
Sống trong một xã hội đầy dẫy phức tạp nhưng thiếu đạo đức như ở Hoa kỳ, con người có khá hơn về vật chất nhưng về tinh thần và nền tảng gia đình thì sa sút thê thảm, bởi thế sự hiếu để trong gia đình không còn giống như hồi còn ở quê nhà. Để tránh những trường họp này có thể xảy ra trong gia đình của chúng ta, hay nói một cách khác là muốn bảo tồn nền văn hóa cổ truyền của dân tộc Việt, thì học hỏi Phật pháp là một cứu cánh để có thể tự giúp ta mà còn có thể giúp cho người được. Tại sao có thể làm được? 
  
 
Phật giáo là một nền giáo dục dựa trên căn bản hiếu đạo. Nếu chúng ta không phải là những người con hiếu đạo , thì làm sao chúng ta có thể trở thành những người học trò tốt được. Chúng ta thường hay niệm:”Nam mô bổn sư Thích Ca Mâu-ni Phật”, thế thì bổn sư có nghĩa là thầy, còn chúng ta là đệ tử, có nghĩa là học trò. Người học trò tốt đối với Đức Phật trước hết phải là người con hiếu đạo trong gia đình. Quý vị còn nhớ chính Đức Phật phải vội vả quay về thăm vua cha khi nghe tin ông sắp từ trần. Không phải Đức Phật khi thành Phật thì Ngài quên đi cha mẹ hay gia đình, mà chính Ngài đã hóa độ cho toàn thể dòng họ Thích Ca, giúp cho từng người học hỏi Phật pháp để tự mình có thể chứng được Niết Bàn như Ngài vậy. Nên nhớ Đạo Phật ai tu người ấy chứng. Phật chỉ có là người chỉ đường cho ta đi mà thôi, chứ không độ trì cho ta thành Phật được. Mục đích của Phật khi về thăm cha lần chót là muốn đem giáo lý nhiệm mầu của Ngài để giảng giải cho vua cha thông hiểu trước khi lìa đời để vua cha có cơ được vãng sanh. Chính Đức Phật đã chứng minh cho chúng ta thấy tuy Ngài là Phật, nhưng Ngài luôn luôn giữ tròn chữ hiếu, chẳng những Ngài ban pháp thí cho tất cã chúng sanh, mà Ngài còn ban pháp thí cho chính cha mẹ của Ngài nữa. 
  
 
3)   Vô úy thí: vô úy là không sợ. Vô úy thí là giúp cho người khác không còn sợ. Mới nghe qua thì chúng ta thấy pháp này chả có chi là quan trọng, nhưng khi nghĩ lại thì chúng ta thấy cái sợ đã chiếm quá nữa cuộc đời của chúng ta. Khi còn nhỏ thì chúng ta sợ rắn rít, bò cạp, hoặc sợ ma…khi lớn lên thì sợ thiếu ăn, thiếu mặc, sợ giăc, sợ thi rớt, sợ kiếm không ra việc làm, sợ thiếu công danh sự nghiệp, sợ thua sút với bạn bè, khi già thì sợ đau, sợ bịnh, và cuối cùng là sợ chết. Nếu muốn kể cho hết tất cả những nỗi sợ, thì phải  nói cã đời vẫn chưa xong. 
  
Đời sống hàng ngày đã khổ, lại càng khổ thêm vì sợ. Cho nên làm cho họ hết sợ chính là chúng ta đã cứu cho họ bớt đi quá nữa nỗi khổ đau trong kiếp sống này. Lòng từ bi của Đức Phật không nở thấy chúng sinh khổ vì sợ nên đã chế ra pháp thí vô úy này.

Muốn giúp người, trườc hết chúng ta phải luyện cho mình một đức tính đừng sợ. Làm thế nào mà đạt đến điều này?
Khi đã hiểu thuyết vô thường của nhà Phật thì chúng ta không còn sợ cái gì cả, bởi vì nếu chúng ta không tham lam tiền của, thì chúng ta không sợ mất, không màng danh lợi thì không sợ thất vọng, cái thân tứ đại này là giả tạo, nên không sợ chết. 
  
Với ý nghĩ đó, người tu hành theo môn vô úy có thể sẵn sàng để nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặc xông vào đám cướp để cứu người lương thiện. 
  
Nói tóm lại, người tu hành thí vô úy, thì lúc nào cũng đem sự an vui, bình tỉnh đến cho mọi người, và mọi vật. 
   
Nhưng tất cả sự Bố thí có đem lại cùng kết quả như nhau không? 
  
Chúng ta đều biết rõ là Bố thí là một pháp môn để tự độ và độ tha, nhưng nếu người Bố thí có dụng tâm không trong sạch, thì việc làm của họ không còn ý nghĩa gì cả, hay nói một cách khác là nó không có một giá trị tốt đẹp nào về việc bố thí của họ. Thí dụ điển hình là nếu chúng ta đem tiền về Việt nam để giúp những viện mồ côi, nhưng nếu chúng ta muốn rao giảng việc này cho mọi người biết để được tiếng khen và sau đó thì trừ vào thuế, thì việc làm này của chúng ta không có ý nghĩa gì hết.
Chỉ có những người Bố thí với dụng ý trong sạch, thì đó mới là Bố thí theo đúng ý nghĩa của nó mà thôi.
Còn đối với người nhận thì sao? 
  
Trong thế gian này, không một ai có thể nói là họ có đầy đủ mọi thứ, nếu may mắn họ có đầy đủ về vật chất, thì họ lại thiếu thốn về tinh thần, nếu được phần nầy, thì lại thiếu phần khác, thành thử sự bố thí đối với họ là một sự vổ về, an ủi, và mang lại cho cuộc sống của họ thêm phần ý nghĩa. 
  
Còn đối với người cho thì sao? 
  
Không có gì sung sướng hơn là thấy nụ cười trên môi của những người mình giúp đở. Mổi khi chúng ta đem tiền của hay trí tuệ ra Bố thí, thì chúng ta đã chiến thắng lòng tham lam, bỏn sẻn, ích kỷ của chúng ta, và đó là cách làm cho lòng từ bi phát triển một cách tốt đẹp nhất. Thêm nửa, mỗi khi chúng ta dám hy sinh tính mạng của mình để cứu giúp người là chúng ta có dịp thử thách lòng tham sống, sợ chết, cũng như trau dồi thêm đức tính lợi tha. 
  
Còn nếu chúng ta lý luận dựa theo thuyết luân hồi Nhân quả, mỗi khi chúng ta đem tài vật ra bố thí, thì chúng ta đã nghiễm nhiên tạo cho mình một cái nhân tốt mà nhà Phật gọi là Phước đức. Chính cái phước đức này sẽ mang lại sự giàu có cho chúng ta trong hậu kiếp. Rất nhiều người đi chùa cầu nguyện để được giàu sang, hoặc những người khác tính ngày tính đêm, tìm trăm mưu ngàn chước để được làm giàu. Họ làm như vậy bởi vì họ không hiểu giáo lý của nhà Phật mà thôi. Nếu chúng ta thấy có người hiện tại mà giàu sang phú quý, là tại vì kiếp trước họ đã tạo rất nhiều Phúc đức cho nên kiếp này phúc đức mang đến cho họ.  Họ không cần phải đi chùa, hay họ không cần tính ngày tính đêm thì giàu sang vẩn gỏ cửa nhà họ như thường. 
  
 
Còn những người đem Pháp thí giúp đở người khác thì họ đã tự gieo cho mình rất nhiều Công đức. Những công đức nầy sẻ đền bù cho họ thật nhiều trí tuệ ở kiếp sau. Nói một cách khác là nếu họ không thoát ra khỏi vòng luân hồi thì kiếp sau họ sẽ là những người thông minh đỉnh đạt. 
  
Sau cùng, những ngưới tu hành thí vô úy thì kiếp sau sẽ đem lại cho họ một cuộc sống khỏe mạnh và trường thọ.
Nói tóm lại, Bố thí Ba-la-mật là một việc làm cao cả, vừa độ ngừơi mà vừa độ mình, và nó là một chiếc bè để đưa chúng ta đến bờ Giác ngộ, từ địa vị phàm phu đến quả vị Bồ-tát. 

Tại sao một thân mà có bảy báu Bố thí?
Phật trả lời rằng:”Nếu chẳng tham là bố thí, như con mắt chẳng tham sắc tốt và các vật đẹp là sắc bửu bố thí. Lỗ tai chẳng nghe tiếng vui đờn ca xướng hát là thính bửu bố thí. Lỗ mủi chẳng tham ngửi hơi thơm tho vật là là hương bửu bố thí. Cái lưỡi chẳng tham vị béo ngọt ngon là vị bửu bố thí.  Cái thân chẳng tham mặc quần áo tốt đẹp là xúc bửu bố thí. Ý chẳng tham danh lợi, ân ái dục tình là pháp bửu bố thí. Tánh chẳng tham những sự dục lạc trong thế gian là Phật bửu bố thí. Nếu có được bảy báu bố thí nầy thì phước đức hơn là bảy báu trong thế gian như kim, ngân, lưu ly, trân châu, mã não, san hô, hổ phách”. 

Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng tại sao không tu thì chẳng thành Phật?
Phật dạy rằng:”Không phải là không thành Phật, chỉ vì nghiệp chướng rất nhiều. Tại sao? Chúng sanh vì mê muội điên đảo từ đời vô thỉ đến nay, chẳng trồng căn lành mà chỉ tạo ác nghiệp, oan oan buộc nhau, nghiệp nghiệp kéo nhau, bên nầy chẳng chịu buông bên kia, bên kia chẳng chịu tha bên nầy, kết thành cái lưới nghiệp dẫy đầy trong thế gian, cho nên thường vào ra ba đường lại sáu nẻo, gặp gở nhau ăn nuốt lẫn nhau, báo ứng xoay vần không bao giờ dứt. Dù gặp chánh pháp, nhưng căn cơ mờ tối, ma chướng chập chồng, đường đạo khó phát triển nên chẳng đặng thành chánh quả”. 


21. Ý Nghĩa Chũ Vạn Trong Phật Giáo
 
Chữ Vạn là một trong ba mươi hai tướng tốt của Phật và nó nằm ngay trước ngực của Ngài. Tuy nhiên, một số kinh điển khác thì lại nói đây là tướng tốt thứ 80 của Đức Phật Thích Ca. Dầu là tướng tốt thứ mấy đi chăng nữa thì không ai có thể chối cải chữ vạn chỉ là một ký hiệu chớ không phải là văn tự dùng để thể hiện cho người có công đức vẹn toàn.
Có những lúc chúng ta thấy chữ vạn xoay qua phía mặt và cũng có khi xoay qua phía trái. Từ đó có những lý luận cho rằng chữ vạn của Phật giáo phải xoay hướng nầy thì đúng còn hướng kia thì sai.
Trước đệ nhị thế chiến có Adolf Hitler sanh ngày 20-04-1889 tại Áo quốc gần biên giới nước Đức. Vì nuôi tham vọng thống trị cả thế giới qua chiêu bài Phát xít Đức, Ý, Nhật nên đã chọn chữ 
Vạn  như là biểu tượng của đảng Đức Quốc xã. Chính chữ vạn này đã được bác sĩ Fridrich Krohn phát họa. Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ thì chữ vạn của Hitler thì màu trắng nằm nghiêng trong một vòng tròn màu đen. Bởi thế chữ vạn của Hitler là tượng trưng cho sự tăm tối                                                và chết chóc. Vì thế cứ mỗi khi nghe đến tên Hitler thì cũng như màn đêm sắp xuống, bóng ma chặp chờn, không khá nỗi. Do đó chữ vạn của Hitler không thể nào có thể đem so sánh với chữ vạn của Phật giáo cho được. Một bên là trời cao xanh mước còn một bên thì thăm thẳm mù đen. Một bên thì thanh cao thánh thiện còn bên kia thì tội lỗi đau thương. Cũng vì sự tối tăm đó nên giấc mộng Đồ vương của Hitler biến thành mây khói và đưa đến cái chết cho hàng triệu người vô tội và dĩ nhiên cũng kết liễu cuộc đời của một tên bạo chúa. 
 

Đây là chữ Vạn của Đức Quốc Xã.
 Vào thời nhà Đường, Hoàng hậu Vỏ Tắc Thiên cũng dùng chữ vạn. Nhưng đây chỉ là biểu tượng cho mặt trời mà thôi.
Tóm lại, cho dù chữ vạn xoay bên trái hay bên phải thì chữ vạn trong Phật giáo vẫn luôn luôn tượng trưng cho lòng từ bi và trí tuệ vô lượng của Đức Phật. Sự xoay vần có nghĩa là Phật lực phát tỏa khắp bốn phương. Và ánh sáng từ bi của Ngài tỏa ra vô cùng vô tận để cứu giúp chúng sinh còn đang lặn hụp trong bến bờ mê muội. 
 
Và đây là chữ Vạn của Phật Giáo. 


22. Trì Giới Ba-La-Mật
 
Mục đích của Phật giáo là đưa chúng sinh đến bờ Giác ngộ. Nhưng con đường đưa đến chỗ toàn chân, toàn mỹ nầy đòi hỏi ở chúng sinh một ý chí kiên trì  và một lòng sắt đá để giữ mình theo giáo luật. Theo Đức Phật thì giáo luật có một giá trị tuyệt đối bởi vì nó là yếu tố chính để quyết định sự thành công cũng như sự thất bại trong vấn đề tu đạo. Cái khó là chúng ta không nhất tâm và tập trung tư tưởng để theo con đường mà Đức Phật đã vạch ra, mà ngoại cảnh ô hợp đã làm chúng ta chán nản mà chùn bước. Bởi thế trước khi nhập diệt, Đức Phật đã căn dặn nhiều lần về vấn đề giáo luật. Phật dạy:
“Gặp thời không có Phật, hãy lấy giới luật làm thầy”. 

Đức Phật đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của giáo luật trong việc tu đạo và đạt được đạo. Dầu chúng ta có thể thông hiểu giáo lý của đạo Phật, nhưng đem nó áp dụng vào trong cuộc sống hàng ngày để chứng được chân như là hai điều khác nhau. Thời nay, người muốn tu hành thì nhiều mà kẻ đạt được kết quả tốt thì rất hiếm. Tại vì sao? Câu trả lời đơn giản là dục vọng ngoài đời đã làm họ mù quáng mà quên đi giới luật. Thật vậy, giáo luật của đạo Phật chính là kim chỉ Nam để giúp chúng ta khỏi bị lầm đường, lạc lối. Một khi đã biết giới luật mà cố tình vi phạm thì tất cả công phu tu tập bao năm cũng đổ theo sông theo biển mà thôi. Chẳng những phàm phu phải giữ giới luật, mà chính cả Bồ-tát cũng phải noi theo. Vì thế trong kinh Phàm Vọng có nói: “Trì giới sáng như mặt trời, quý báu như châu báu, các vị Bồ-tát đều do trì giới thanh tịnh mà thành Chánh giác”.
Vậy thế nào là trì giới?

Trì là giữ chặt chẽ, còn Giới là những điều răn dạy, răn cấm. Đây chính là những quy luật mà Đức Phật đã đặt ra để hướng dẫn đệ tử của Ngài đi vào con đường chánh đạo.
Vậy những ai phải theo giới luật?
Tùy theo căn cơ của chúng sinh và cũng tùy theo phương cách tu hành, Đức Phật đã chế ra rất nhiều giới luật để họ noi theo đó mà tu hành. Trì giới được chia ra làm ba cấp: giới tu tại gia, giới tăng sĩ và Bồ-tát giới.
  
Giới tu tại gia: là những người chưa xuất gia, cũng có thể gọi là cư sĩ tại gia thì chỉ cần tuân theo ngũ giới là đủ.

Theo Khổng giáo thì có tam cương, ngũ thường còn phía Phật giáo thì có tam quy, ngũ giới. Người theo đạo Nho thì không thể theo tam cương mà bỏ ngũ thường. Còn người Phật tử thì không thể chỉ thọ tam quy mà không trì ngũ giới.

Vậy ngũ giới gồm có những gì?

1)   Không được sát sinh: Phật dạy chúng sinh không được giết hại một ai cả, từ loài người đến loài vật. Đây là nghiệp nặng nhất. Tại sao thế? Quý vị thử hình dung khi một người đâm lưỡi dao vào cổ một con bò để thọt huyết nó. Vì phản ứng sinh tồn, nó rống lên, rồi dãy dụa và cố tranh đấu với tử thần để bám víu lấy sự sống. Những hính ảnh ghê rợn kia làm sao có thể xóa bỏ trong giấc ngủ của quý vị được. Khi giết một con vật như thế thì chính mình đã tạo ra một ác nghiệp rồi. Và ác nghiệp thì dẫn chúng ta đi lên đi xuống, lang thang lẫn thẩn trong vòng sinh tử. Giết một con vật to lớn mà để tự vệ hay vô ý thì cái quả còn nhẹ hơn là giết một con chuồn chuồn mà với ác ý là giết nó để cho vui.

2)   Không được trộm cướp: Trộm cướp là cưỡng chiếm tài sản của kẻ khác. Khi chúng ta đoạt tài sản của kẻ khác thì chúng ta có thể nhất thời được sung sướng. Nhưng kẻ khác thì lại đau khổ bởi vì đối với họ”tiền tài là huyết mạch”. Khi trộm cướp tài vật của kẻ khác thì họ sẽ đau khổ vì vậy chúng ta đã tạo ra ác nghiệp nữa rồi. Đó là chưa kể cái quả trước mắt là vào tù ra khám, tương lai tăm tối. Nếu muốn nuôi dưỡng tâm từ bi thì chúng ta nhất định không nghĩ đến việc nầy.

3)   Không được tà dâm: tà dâm là muốn nói đến sự dâm dục thị phi hoặc phi pháp. Khi vợ chồng có cưới hỏi đàng hoàng thì gọi là chánh. Ngoài ra mọi sự lén lút, lăng chạ là phi pháp. Thông thường người có ý tà dâm thì lúc nào tâm của họ cũng nghĩ ngợi bất chánh về việc chơi bời lã lơi. Muốn tâm được thanh tịnh thì chúng ta phải tránh xa cái tật xấu nầy và cố gắng tu luyện để loại bỏ những tư tưởng xấu đó đi. Thêm nữa, chúng ta phải loại bỏ tất cả những hình ảnh bất thiện trong tâm tưởng cũng như những cám dỗ trong đời. Tà dâm thì tâm bất tịnh đó là chưa kể đến nhà tan cửa nát, vào tù ra khám.

4)   Không được vọng ngữ: Vọng ngữ là nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều và nói lời hung ác. Tôn chỉ của đạo Phật là tôn trọng sự thật. Một khi nói dối là chúng ta đã lấy lòng ích kỷ, ác độc để hại người cho thỏa lòng dục vọng đen tối của mình. Mà đã nói dối thì sau nầy còn ai tin mình nữa. Bởi thế cổ nhân có câu: “Nhân vô tín bất lập”. Nhưng khi vì lời nói mà làm hại người thì chúng ta đã tạo thêm một ác nghiệp nữa rồi. Đó là chưa kể “ác lai ác báo”.

5)   Không được uống rượu: Rượu thì có chất men mà chất men thì làm người say. Khi chúng ta tu Phật là mình muốn bài trừ ô nhiễm ở trong tâm để phát sinh trí tuệ. Uống rượu thì làm cho chúng ta say, mà một khi đã say thì trí tuệ của chúng ta bị lu mờ và thân thể càng thêm bịnh hoạn. Tệ hại hơn nữa là khi say thì chúng ta có thể làm bất cứ chuyện tầy trời nào cũng được. Chẳng hạn như giết người, nói năng bậy bạ, tạo tai nạn khi lái xe, không kìm chế được nhân tính và tạo ra ác nghiệp mà chính mình cũng không hay không biết.
         
Năm thứ nghiệp nói trên đây có ảnh hưởng rất lớn, rất nặng cho việc luân hồi sinh tử của chúng ta. Người giữ được trọn vẹn thì thành Thánh, bằng giữ chẳng trọn thì chịu nhiều kiếp trầm luân đọa lạc, hể mất thân người thì muôn kiếp khó trở lại được.

Vậy tạo nghiệp gì bị đọa làm nghiệp quỷ?
Phật dạy:”Những chúng sinh ăn ở gắt gao, tiền của chẳng thí, tham mến ăn mặc, lường gạt lấy tiền của công đem thọ dụng riêng. Có người nghèo khổ xin ăn, một đồng chẳng thí lại thêm mắng chữi, cứ lo cho mình no ấm không thương người đói lạnh. Đến khi chết rồi sẽ bị đọa trên đường ngã quỷ, chịu đói khổ sở, cái cuống họng nhỏ như cây kim, thức ăn nuốt chẳng xuống, cái bụng lớn như cái trống đồng, như hòn núi, thoáng gặp đồ ăn uống thì đồ ăn uống bỗng hóa thành đồng sôi sắt nóng, đói cho đến khi miệng hóa ra lửa, lỗ mũi ra khói, hình thể ốm đen để đền đủ tội rồi mới hết nghiệp khổ.

Còn những nghiệp gì bị đọa làm súc sanh?
Phật lại dạy tiếp:”Những chúng sanh tham ăn rượu thịt, giết hại cầm thú để bày tiệc ăn chơi đàn ca vui sướng sẽ trả quả làm súc sanh để đền mạng trước. Lại có người mượn vay tiền bạc của người mà cố đoạt chẳng trả, quả báo làm súc vật trả nợ lại cho người và phải trả cho hết cái nghiệp đó mới ra khỏi luân hồi”. 
  
 
Giới tăng sĩ: là những người đã từ bỏ cảnh trần tục, chán ngán nhân tình thế thái và nguyện noi gương theo Đức Phật để được tự độ và độ tha. Có sự khác biệt giửa chữ tăng sĩ và xuất gia.
Chúng ta thường hiểu là kẻ xuất gia là người từ bỏ gia đình đến nương náo cửa chùa để tu hành. Nhưng theo kinh Phật thì cửa chùa vẫn là điền trạch chi gia, do đó kẻ xuất gia là kẻ phải xuất cho được ba điều: phiền não, sanh tử và tam giới.

Trong phần tiểu sử Đức Phật, chúng tôi đã ghi rất kỹ về sự thành lập tăng đoàn của Ngài. Trong đó thì Ngài chủ trương “Y pháp bất y nhân” có nghĩa là tăng đoàn phải lấy tam bảo làm trung tâm chớ không lấy một cá nhân đặc biệt nào để làm đối tượng cả. Nhưng trên thực tế, sau khi Đức Phật nhập diệt thì khuynh hướng đó được xoay qua thành “trọng người nhẹ pháp”. Điều đó có nghĩa là trọng vị tăng hơn là giáo pháp và như thế tam bảo không còn là trung tâm nữa mà tam bảo được thế bằng tăng bảo.

Vậy có những giới luật nào cho quý vị tăng sĩ? 
Dựa theo kinh điển của Phật giáo thì một người ở lứa tuổi từ 14 đến 18 mà muốn xuất gia thì được gọi là Sa di. Chú Sa di nầy phải giữ đúng 10 giới luật. Đến khi được 20 tuổi thì chú Sa di mới được thọ giới Tỳ kheo. Nếu chú Sa di nào chưa đủ điều kiện thì phải học tập thêm vài năm nữa thì lúc đó mới sẵn sàng để thọ giới Tỳ kheo trở lại. Khi đã trở thành Tỳ kheo rồi thì họ phải giữ 250 giới.

Còn về phía nữ giới thì gọi là Sa di ni. Khác với mấy chú Sa di, mấy tiểu Ni cô Sa di ni nầy phải thọ thêm giới “Thức xoa ma ni”. Giới nầy thì gồm có 6 luật căn bản. Đó là: không dâm dục, không trộm cắp, không sát sinh, không nói dối, không uống rượu và không được ăn ngoài giờ ấn định. Những tiểu Ni cô nầy phải thọ giới nầy khoảng 2 năm thì mới được thọ giới Tỳ kheo ni. Một khi đã trở thành Tỳ kheo ni thì họ phải giữ 348 điều giáo luật. Thêm nữa, đối với những thiếu phụ đã có chồng nhưng đã ly dị hay chồng chết và hiện tại còn đang độc thân, nếu muốn đi tu thì phải đợi đến 10 năm mới được thụ giới Thức xoa ma ni. 

Lễ truyền giới Tỳ kheo thì được gọi là Giới đàn truyền giới hay truyền hương. Bởi vì khi thọ giới, người Tỳ kheo được đội 3 huyết hương trên đỉnh đầu. Hương thì từ từ cháy còn vị Tỳ kheo cứ tiếp tục tụng kinh cho đến khi hương tàn. Vị nào chịu không nỗi thì thi lại. Đây là thử thách sự trì tâm của họ đối với ngoại cảnh. Một khi đã chú tâm tụng kinh Phật thì tâm chỉ nghĩ về Phật mà thôi, còn cảm thấy bị đau đớn tức là tâm bị ô nhiễm. Khi được trao giới Tỳ kheo thì vị đó được nhận: Y (áo cà sa), bát (dụng cụ để khất thực), tọa cụ (tấm vải để trải trên đất mà ngồi) và một dụng cụ lọc nước uống. Đối với một kẻ tu hành chân chính thì đây là sản nghiệp bất khả ly thân của họ.

Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật rất quan tâm về trì giới, Ngài dạy:”Chúng sinh giữ trì giới thì tâm sẽ được thanh tịnh. Nhờ tâm thanh tịnh mới phát sinh ra trí tuệ để phá trừ vô minh. Vô minh hết thì chơn tâm tự hiện bày”. Nhưng kinh nầy lại tiến xa thêm một bước nữa, đó là:”Trì giới là chỉ cho tâm giới. Có nghĩa là nếu thân đã không sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ và tâm cũng không nghĩ tưởng đến việc sát, đạo, dâm, vọng thì cái “biết mình đã đoạn trừ” cũng không còn nữa”. Thật vậy, nếu tâm vẫn còn một chút ít vọng niệm gì thì tâm chưa hoàn toàn thanh tịnh. Nếu tâm chưa thanh tịnh thì giới thể chưa được viên mãn.
       
Hơn nữa, trọng tâm của đạo Phật là xây dựng dựa trên triết lý luân hồi nhân quả. Chẳng hạn như trong Tứ Diệu Đế thì tập đế là nhân mà khổ đế là quả của đường sanh tử. Còn đạo đế là nhân và diệt đế là quả của chiều giải thoát. Cũng như trong chúng ta, Phật tánh là nhân mà được thành Phật viên mãn tự tại là quả. Nếu chúng ta trong kiếp nầy bị vô minh, vọng tưởng và ái dục làm mê muội để gây ra lắm nghiệp căn thì cái quả xấu kia ai lãnh cho mình? Một khi nghiệp căn đã tạo rồi thì dầu có Phật hoặc Bồ-tát cũng không thể cứu chúng ta được. Nếu Đức Phật có thể độ cho những người chung quanh được giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi thì Ngài đã độ hết cho tất cả thân bằng quyến thuộc của Ngài rồi. Nhưng chính Ngài cũng phải dạy cho họ lo giữ ngũ giới và tu thập thiện để tự giải thoát cho mình. Đó là “ai tu người ấy chứng” vậy.
        
Người Phật tử phải nhận thức cho rõ ràng là người tu tại gia  cũng như hàng tăng sĩ đều cùng nhắm chung một mục đích là cố gắng tu luyện để được thoát khỏi lục đạo luân hồi. Bởi thế kinh Pháp Bảo Đàn có nói:” Nếu muốn tu hành, ở nhà cũng được, không cần phải ở chùa. Người tại gia mà biết tu hành thì như người phương Đông có tâm thiện. Còn kẻ ở chùa lại không tu thì như người ở phương Tây có tâm ác. Chỉ cần tâm thanh tịnh, đó là tự tánh Tây phương”.
  
Bồ-tát giới: đây là giới mà phật tử tại gia cũng như hàng tăng sĩ phải thọ trì sau khi đã phát tâm Bồ đề để tu Bồ tát hạnh ngõ hầu có cơ hội làm Phật sự và hóa độ chúng sanh. Bồ-tát giới dạy chúng ta không nên làm một việc ác nào, quyết tâm làm tất cả việc lành và cũng quyết tâm tu hành từ, bi, hỷ, xả. để làm các lợi ích cho tất cả chúng sinh cũng như hóa độ cho muôn loài.
       
Thủa xưa có hai vị Tỳ kheo từ phương xa đến để yết kiến Phật. Trên đường đi, họ phải băng qua một sa mạc. May mắn thay họ tìm thấy một vũng nước nhưng trong nước lại chứa đấy những sinh vật tí hon. Một vị vì sợ phạm giới không dám uống nước nên bị chết khát. Còn vị kia nhờ uống nước nên sống được và tìm đến yết kiến Phật. Thấy ông ta , Phật quở rằng: “Ông tỳ kheo kia giữ giới không uống nước, tuy chết nhưng ông đã thấy ta trước rồi. Còn ông, không giữ giới, tuy sống, đến yết kiến Ta, nhưng ông lại cách Ta nghìn dặm”.
Nói tóm lại, trì giới Ba-la-mật có một hiệu quả lớn lao cho việc tu hành của người Phật tử. Bởi vì làm được như thế thì họ đã biểu hiện sự thực hành bổn phận của họ một cách đứng đắn và sẽ mang vô lượng công đức đến cho họ. Hơn nữa, trì giới có giá trị hơn cả Bố thí giới bởi vì người Phật tử có tài thí, pháp thí mà không có trì giới thì không thể nào đạt thành chánh quả được. Lý do là người nầy vừa tạo phước mà cũng vừa gây tội. Do chỗ không trì giới nên họ gây ra nghiệp thiện ác đủ thứ thì làm sao mà chứng quả Thánh được.
      
Khi làm những Phật sự truy tiễn cho vong nhân, chúng sinh nên hồi hướng công đức ấy đến mọi loài chúng sinh trong pháp giới. Như thế công đức sẽ càng thêm lớn mà lợi ích của vong nhân đó cũng được tăng thêm nhiều. 


23. 32 Tướng Tốt Của Đức Phật
 
1)   Dưới bàn chân thì no tròn. 
2)   Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc. 
3)   Tay chân mềm dịu. 
4)   Ngón chân có mạng như chân nhện. 
5)   Ngón tay, ngón chân no tròn. 
6)   Gót tương xứng với bàn chân. 
7)   Bàn chân tương xứng với gót. 
8)   Hai chân tròn thẳng như hai chân nai. 
9)   Tay dài thòng tới gối. 
10) Âm tướng qui tàng. 
11) Chân lông ứng màu xanh tía. 
12) Tóc lông đều xoay qua phía mặt. 
13) Da trơn mịn không dính dơ. 
14) Màu da thì vàng. 
15) Tay chân, vai cổ, bảy chổ đều đủ. 
16) Cổ tròn lạ thường. 
17) Hai cái nách no đủ. 
18) Dung nghi đoan chánh. 
19) Thần tướng trang nghiêm. 
20) Hình thể xứng nhau. 
21) Oai dung như sư tử. 
22) Chói hào quang mỗi phía một lần. 
23) Hàm răng 40 cái khít và bằng. 
24) Bốn răng cấm trắng và bén. 
25) Trong miệng có mùi thơm. 
26) Lưỡi dài có thể che cả cái mặt. 
27) Tiếng nói dịu dàng đủ giọng. 
28) Lông nheo như ngưu vương. 
29) Con mắt có quầng đỏ. 
30) Mắt như trăng tròn. 
31) Chổ lông mi có lông trắng. 
32) Trên đầu lồi thịt lên như đầu tóc.
Mặc dầu chúng ta thấy 32 tướng tốt của Phật thì chưa phải là chúng ta thấy được Phật. Bởi vì chỉ khi nào chúng ta thấy “Phật tâm thanh tịnh” thì lúc đó chúng ta mới thấy được Phật. Nhưng ở đời chúng ta chỉ rong ruỗi chạy theo giả tưởng để tìm Phật bên ngoài mà không biết tìm Phật thật ở trong tâm của chúng ta. Vì thế cổ nhân có nói rằng:”Phật trong nhà không thờ, mà đi thờ Thích Ca ngoài đường” là vậy.
Một ngày kia Phật hỏi: 
-  Tu Bồ-đề! Ông có thể thấy 32 tướng tốt của ta đây, thì ông có thể thấy được Phật không?
Tu Bồ-đề thưa: 
-  Đúng như vậy, thấy được 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật.
Phật lại dạy:
-  Ông hiểu lầm rồi. Nếu thấy 32 tướng tốt của Ta đây, mà ông cho là thấy được Phật thì vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như Ta, như thế thì vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?
Nói tóm lại, không phải thấy 32 tướng tốt của Phật là có thể thấy được Phật. Bởi vì chính cái thân tứ đại của Đức Phật cũng là giả tướng và tan rã theo thời gian thì làm sao mà gọi là Phật cho được. Chúng ta phải lìa xa tất cả các vô minh, vọng chấp thì chơn tâm hay Phật tánh sẽ hiện ra. Đây mới chính là thấy được Phật vậy.
 Giáo Pháp của Đức Phật được chia ra làm ba thời kỳ:
1.    Chánh Pháp khoảng 1000 năm.
2.    Tưởng Pháp: thì mường tưởng như chánh Pháp, có khoảng 1000 năm.
3.    Mạt Pháp: khoảng 10,000 năm. Năm nay là 2004 theo Tây lịch, tức là 2548 theo Phật lịch. Do đó chúng ta hiện đang sống trong thời Mạt Pháp độ 548 năm. 


24. Quy y Tam Bảo
 
Giáo lý nhà Phật là một giáo lý cao siêu nhất trên đời nầy. Cho dù đã trải qua mấy nghìn năm mà chưa có một giáo lý nào trên thế giới từ Đông qua Tây có thể so sánh nỗi. Chỉ có Đạo Phật mới có những tôn chỉ đặc sắc như sau: 
1)   Tôn trọng sự công bình và bình đẳng: Đức Phật đã dạy mọi người đều có Phật tính như nhau. Nếu chúng sinh biết phá mê khai ngộ thì ai ai cũng có thể thành Phật được. Có tôn giáo nào khác trên thế gian nầy cho phép tông đồ được ngang hàng với vị giáo chủ của họ chưa?

2)   Nuôi dưỡng lòng từ bi: Đạo Phật lúc nào cũng khuyến khích mọi người hãy thương yêu tất cả mọi chúng sanh, bao gồm loài người cũng như loài vật. Bởi vì chúng sinh là Phật tương lai và cũng là cha mẹ trong quá khứ do đó chúng ta phải phát tâm Bồ-đề là như vậy.

3)   Chịu trách nhiệm về việc mình tạo tác: khi đã biết rõ luật nhân hồi nhân quả thì chúng ta phải gánh chịu tất cả mọi nghiệp chướng mà mình đã tạo ra. Một khi thân nầy chết thì ngũ uẩn tan rã và lúc đó chỉ còn tất cả những nghiệp thức để dẫn chúng ta đi đầu thai vào kiếp khác. Chúng sinh càng tạo nghiệp thì càng đi lên đi xuống trong sáu đường và biết đến chừng nào họ mới thoát ra được. Hiểu như thế để giúp chúng sinh hoàn thiện và  tránh làm những điều tội ác. Một khi chúng sinh đã hướng thiện thì chính họ có thể tự biến đổi tất cả nghiệp căn của họ từ ác nghiệp thành thiện nghiệp để có thể cứu cuộc đời của họ ra khỏi vòng sinh tử. Trong khi những tôn giáo khác thì tông đồ phải răm rắp tuân theo những thưởng phạt của bề trên như là một sự ban bố.

Do đó người tu theo đạo Phật cần phải Quy y Tam Bảo. Vậy thế nào là quy y? 
Quy là trở về. Còn Y là nương tựa. Nhưng chúng ta phải quay về để nương tựa cái gì?
Trước kia chúng ta chưa biết Phật pháp thành thử chúng ta hành động trong mê mờ điên đảo. Bây giờ đã thấu hiểu những lời Phật dạy thì chúng ta từ trong điên đảo quay trở lại nương tựa vào cái trí tuệ chân thật và nương tựa vào cái Chánh Giác chơn chánh. 
Còn thế nào Tam Bảo?
Tam Bảo có nghĩa Phật, Pháp, Tăng.
Vậy quy y tam bảo có nghĩa là quy y Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng.
1)   Quy y Phật: Chúng ta quy y Phật bởi vì Phật là Chánh Giác, Phật là đấng Giác Ngộ, và Phật là Trí tuệ. Nói một cách khác thì khi xưa chưa biết Phật thì chúng ta dùng cảm tình để xử sự đối với mọi người, mà cảm tình là mê muội. Bây giờ  đã biết Phật pháp thì chúng ta phải dùng trí tuệ để đối đãi với người. Luôn luôn lấy lý trí làm chủ thì chúng ta không còn mê nữa. Một khi chúng ta biết nương tựa vào tự tánh giác và nương tựa vào trí tuệ thì đây chính là quy y Phật vậy.
2)   Quy y Pháp: Khi xưa chúng ta nhìn, chúng ta nghĩ về vật thể, vũ trụ cũng như loài người, loài vật có nhiều điểm sai lầm, không chính xác, mà sai lầm là mê. Nay chúng ta từ trong cái sai lầm mê muội nầy mà quay đầu trở lại để nương tựa vào cách nhìn chính xác và cách nghĩ chính xác. Đây là chính tri chính kiến  và  cũng chính là quy y Pháp.
3)   Quy y Tăng: Tăng ở đây có nghĩa là sự thanh tịnh. Thanh tịnh là cho đến một hạt bụi cũng không ô nhiễm. Mà cái gì là ô nhiễm? Đã là ô nhiễm thì có nhiều thứ chẳng hạn như: tinh thần ô nhiễm, tư tưởng ô nhiễm, kiến giải ô nhiễm và ngay cả chính thân cũng bị ô nhiễm. Khi đã thấu hiểu Phật pháp thì chúng ta phải tránh xa những thứ ô nhiễm nầy để quay về với thân tâm thanh tịnh. Làm như thế tức là  chúng ta đã quy y Tăng rồi vậy.
Tóm lại, một khi chúng ta nhập môn theo đạo Phật thì truyền thọ tam quy chính là đem cái nguyên tắc của sự tu hành cũng như những cương lĩnh của sự tu hành mà truyền thọ lại cho chúng ta. 
Vậy truyền thọ tam quy thì:
v   Quy y Phật là giác mà không mê.
v   Quy y Pháp là chánh mà không tà.
v   Quy y Tăng là tịnh mà không nhiễm.
Ai có thể truyền thọ tam quy y cho chúng ta? 
Bất cứ là người xuất gia nào mà đã thọ qua Đại giới đều có thể vì chúng sinh mà truyền thọ Tam quy. Bởi vì chúng ta quy y tam bảo là quy y với sự chứng minh của tăng đoàn để bắt đầu xây dựng cuộc đời tu Phật của chúng ta. Cũng như xây nhà, quy y là đổ nền móng cho thật vững chắc, không còn nghi ngại, mê lầm thì cái nhà công đức mới có hy vọng thành tựu được.
Khi quy y thì chúng ta phải thực lòng mà quay về chớ đừng xem tấm chứng chỉ quy y là quan trọng. Cũng như phải tìm cho được vị thầy nầy mới quy y thì chúng ta vẫn còn bị mê lầm, tà kiến. Nên nhớ tăng đoàn là tận hư không biến pháp giới bởi vì tăng đoàn không nhất thiết phải chỉ là ở trên trái đất của chúng ta hay là trên một quốc gia nào cả. Nhiều người đôi khi hiểu lầm là tôi thì quy y với thầy nầy chớ không quy y với thầy kia. Hiểu như vậy là hoàn toàn mê lầm. Bởi vì bất cứ thầy nào, ở đâu cũng thuộc tăng đoàn mà thôi không hơn, không kém. 

Nguồn đốn ngộ tự tâm xưa nay thanh tịnh, vốn không có phiền não, trí tánh vô lậu sẳn tự đầy đủ. Tâm nầy tức là Phật. Y theo lối nầy mà tu thì gọi là thiền Tối Thượng Thừa, thiền Như Lai Thanh Tịnh hay là Nhất Hạnh Tam Muội.
Phật dạy: “Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si) mà làm việc đạo thì việc đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm đạo (từ, bi, hỷ, xả) mà làm việc đời để giúp đỡ chúng sanh thì việc đời trở thành việc đạo.” 
         
Phật lại dạy thêm: “Dầu thông suốt kinh luận mà không hạnh trì, cũng như kẻ mục đồng đếm bò cho kẻ khác. Người ấy không hưởng được hương vị giải thoát”.


25. Sự Tích Kinh Lăng Nghiêm

Ở Ấn Độ khi xưa vào thời Đức Phật còn tại thế, mùa mưa thường kéo dài có khi đến vài tháng. Chính trong thời gian nầy, các chư tăng tề tựu đông đủ để nghe Đức Phật thuyết giảng và tham thiền nhập định. Thời gian nầy được gọi là ba tháng an cư kiết hạ. Sau đó, chư tăng cũng như Phật mỗi người đi mỗi ngã để lo hoằng dương đạo pháp và họ chỉ trở lại đây trước mùa mưa năm tới.
         
Một hôm, nhân mùa mãn hạ, cũng là ngày húy nhật của vua cha, nên vua Ba-tư-nặc sắm sửa nhiều món chay đặc biệt và chính thức nhà vua đi mời Đức Phật cùng chư tăng đến để cúng dường. Ngoài ra, các hạng trưởng giả  cũng sắm đủ thức cơm chay để cung thỉnh chư tăng đến cúng dường. Phật bảo ngài Văn Thù Bồ tát chia chư tăng ra làm nhiều nhóm để đi từng nhà thọ cúng. 
         
Trong lúc ấy, ông A Nan vì đã chịu người thỉnh riêng trước, nên trở về chẳng kịp để dự vào hàng chúng tăng thọ cúng. Ông mang bình bát đi vào thành, oai nghi tề chỉnh, dáng điệu chậm rãi, qua từng nhà để khuất thực. Với tâm bình đẳng, ông muốn làm phước điền cho tất cả mọi người, không phân biệt quý phái hay hạng bình dân. Ông chỉ mong gặp những người chưa làm phước, để hôm nay họ có cơ hội phát tâm cúng dường, như thế giúp họ gieo nhân tốt để ngày sau họ gặt lấy quả hiền. Vì nghĩ như thế, nên ông rảo bước vào các xóm làng, nhưng không may ông gặp một người đàn bà ngoại đạo có tên là Ma-đăng-già đã dùng thuật thần chú của Ta Tỳ Ca La tiên Phạm Thiên để bắt ông vào phòng định giở trò dâm dục.
         
Ông A Nan đang bị nạn, hết sức buồn rầu, chỉ còn chắp tay niệm Phật và hướng về Đức Chí Tôn để cầu cứu. Đức Phật cảm ứng được, nên khi vừa thọ trai xong không kịp thuyết pháp, Ngài liền trở về tịnh xá ngồi kiết già, phóng hào quang có hoa sen ngàn cánh và bắt đầu nói thần chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Phật bảo ngài Văn Thù Sư Lợi đem thần chú ấy đi đến chổ nàng Ma-đăng-già để phá trừ tà chú cứu nạn cho A Nan.
         
Sau khi được thoát nạn, ông A Nan về đến chổ Phật cúi đầu kính lạy, buồn tủi, khóc than và bạch với Phật rằng:
         
“Bạch Đức Thế Tôn! Con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại bởi vì con là em của Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho con thần thông trí tuệ, hay đạo quả Bồ đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, mà không chịu tu niệm, không ngờ đạo Phật ai tu nấy chứng. Mặc dầu con là em của Phật, nếu không tu thì cũng chẳng ích gì! Cúi xin Phật rộng lòng từ bi, chỉ dạy cho con phương pháp nào mà mười phương chư Phật tu hành đều được thành đạo chứng quả”.
         
Nội dung của kinh Lăng Nghiêm là Phật chỉ dạy cho chúng sinh ngộ được chơn tâm. Bởi vì chúng sinh không ngộ được chơn tâm nên phải vỉnh viễn làm kiếp chúng sanh, trầm luân trong biển sanh tử và chịu không biết bao nhiêu khở sở. Còn Chư Phật thì đã thoát ly sanh tử luân hồi, được tự do giải thoát, thần thông tự tại, trí huệ vô biên cũng bởi các Ngài đã ngộ được chơn tâm.
         
Nói một cách khác là Phật với chúng sanh cùng đồng một thể tánh chơn tâm, nhưng các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ được thể tánh ấy, nên mới thành Phật. Trái lại, chúng sanh vì mê muội thể tánh chơn tâm, nên phải bị sanh tử luân hồi. Nếu chúng ta giác ngộ chơn tâm thì chúng ta sẽ được như Phật. Ngộ được chơn tâm như người thức giấc mộng, không ngộ được chơn tâm như người còn ngủ chiêm bao.
         
Vì kinh Lăng Nghiêm quý giá như thế, nên thủa xưa các vị vua Ấn Độ xem nó như là quốc bảo và  không cho truyền bá kinh nầy ra ngoài. Chúng ta còn nhớ, tiền nhà Đường có ngài Huyền Trang (Đường Tam Tạng) qua Ấn Độ và ở tại đây rất nhiều năm để thỉnh biết bao bộ kinh mà chúng ta thấy hiện nay, nhưng chính ngài cũng không hề biết ở Ấn Độ còn có bộ kinh Lăng Nghiêm. Cũng trong thời gian nầy, ở bên Trung quốc có vị Trí Giả Đại sư, là vị Tổ của Tông Thiên Thai, đã dùng kiến thức của ngài để phát minh ra môn Tam Chỉ Tam Quán. Khi ngài Trí Giả Đại sư thuyết giảng về môn Tam Chỉ Tam Quán nầy cho vị sư của Ấn Độ khi ông đến thăm núi Thiên Thai, thì vị sư người Ấn Độ tiết lộ rằng môn Tam Chỉ Tam Quán gần giống như kinh Thủ Lăng Nghiêm ở bên Ấn Độ. Từ đó người Trung Quốc mới biết hiện còn một bộ kinh nửa mà họ chưa được biết đến. Ngài Trí Giả Đại sư khát vọng muốn có cơ hội để xem cho được bộ kinh nầy, nên ngài mỗi ngày hai lần sớm chiều xây mặt về phía Tây (Ấn Độ) quỳ lạy cầu khẩn liên tiếp trong 18 năm cho Kinh Lăng Nghiêm được sớm truyền bá sang Trung quốc. 
         
Khoảng 100 năm sau, trong thời đại của Vỏ Tắc Thiên hoàng đế, có ngài Bất Lạc Mật Đế, người Ấn Độ, đã hai lần tìm cách đem kinh Lăng Nghiêm sang truyền bá cho Trung Hoa, nhưng vì luật quá khắt khe nên không thể nào đạt được. Đến lần sau cùng, Ngài viết kinh trong miếng lụa mỏng, rồi cuốn lại, xẻ bắp vế nhét vào, băng lại như người có ghẻ, mới thành công đem ra được.
         
Ngài Bất Lạc Mật Đế dùng đường biển để đến Quảng Châu. Khi đến đất Nam Thuyên thì ngài gặp cư sĩ Phòng Dung. Cư sĩ Phòng Dung lúc còn trẽ làm đến chức Thừa tướng cho hoàng đế Vỏ Tắc Thiên, nhưng vì phạm lỗi lầm nên bị thuyên chuyển đến làm quan ở đất Nam Thuyên nầy. Vì làm đại quan, nên ông là bậc bác học uyên thâm và cũng là người rất hâm mộ Phật pháp. Khi nghe ngài Bất Lạc Mật Đế nói về kinh Lăng Nghiêm, thì ông hết sức vui mừng, nhưng khi mở tấm lụa ra thì máu me bám lấy lâu ngày làm mất cả chữ nghĩa. May thay, phu nhân của ngài Phòng Dung đem cuốn lụa ấy nấu với một chất hóa học, thì máu mủ đều theo nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực mà thôi.
         
Ngài Phòng Dung thỉnh ngài Bất Lạc Mật Đế dịch kinh từ chữ Phạn ra chữ Hán. Ngài Mật Đế thì dịch, còn quan Phòng Dung lại phụ âm, thành thử kinh Lăng Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay mà văn chương còn tuyệt diệu. Từ xưa các học giả, không nhất thiết là trong đạo Phật, mà cả đạo Nho, mỗi khi xem đến kinh Lăng Nghiêm đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu và văn chương tuyệt diệu của kinh.
   
Trước khi nói về chơn tâm, Phật gạn hỏi ông A Nan bảy lần về nơi thường trụ của tâm.

1)   Tâm ở trong thân: Phật nói rằng nếu thật tâm ở trong thân, thì trước hết nó phải thấy tim, gan, ruột, phổi…rồi mới thấy các vật ở bên ngoài. Vậy có ai thấy được tim, gan … của mình chưa?  Do đó tâm ở trong thân là phi lý.

2)   Tâm ở ngoài thân: Lúc Phật đưa cánh tay ra thì mắt ông A Nan thấy cánh tay và tâm của ông liền phân biệt. Phật nói nếu mắt ông vừa thấy mà tâm ông liền nhận biết, thì thân và tâm không thể rời nhau được. Vì thế nói tâm ở ngoài thân là sai.

3)   Tâm ẩn trong con mắt: A Nan nói tâm núp trong con mắt; cũng như con mắt của người mang kính, tâm chỉ thấy các cảnh vật bên ngoài, mà không thấy được bên trong. Phật dạy nếu tâm cũng như con mắt người mang kính có thể thấy được cái kính mang, còn tâm ông sao lại không thấy được con mắt của ông? Nếu tâm ông thấy được con mắt của ông, thì con mắt của ông thành ra cảnh bị thấy, nó phải ở ngoài thân ông mới phải. Còn nếu thân tâm ngoài nhau, thì làm sao mắt ông vừa thấy, tâm ông liền nhận biết. Do đó tâm núp sau con mắt cũng không đúng.

4) Thân thể của chúng sanh, tạng phủ ở trong, khiếu huyệt (ngũ căn) ở ngoài. Nội tạng thì tối, ngũ căn thì sáng. Nếu mở mắt thấy sáng gọi là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối gọi là thấy trong thân. Phật dạy khi A Nan nhắm mắt thấy tối, cái cảnh tối ấy là đối với mắt hay chẳng đối với mắt? Nếu đối với mắt thì tối ở trước mắt, tức ở ngoài thân, sao lại nói ở trong thân? Giả sử cho tối là trong thân thì lúc trong phòng tối chẳng có ánh sáng, những gì trong phòng tối đều là tạng phủ của ông sao? Nói như thế là sai.

5) Sự suy nghĩ là tâm: Tâm sanh nên các pháp sanh, pháp sanh nên các tâm sanh. Nay con suy nghĩ, chính cái suy nghĩ ấy là tâm của con, tùy sự suy nghĩ tâm liền có, cũng chẳng ở trong,  ngoài và   chính giữa. Phật dạy là Tâm chẳng có tự thể thì chẳng thể suy nghĩ. Nếu chẳng có tự thể mà suy nghĩ được thì vô căn phải thấy được vô trần, nghĩa nầy chẳng đúng.

6)  Tâm ở chính giữa: A Nan nói nếu tâm ở trong thân, sao chẳng biết được trong? Còn tâm ở bên ngoài, thì sao thân tâm lại biết nhau? Như thế thì “tâm” chắc ở chính giữa. Phật hỏi ở chính giữa là ở chỗ nào? Ở nơi thân hay ở nơi cảnh? Nếu ở nơi thân, thì tâm phải thấy trước ruột, gan, phèo, phổi ở bên trong. Điều nầy là sai. Còn như ở về cảnh, là có thể nêu ra hay chẳng thể nêu ra? Nếu chẳng thể nêu ra thì cũng như là không có. Còn nếu có thể nêu ra thì không thể nhứt định chỗ nào là chính giữa. Tại sao? Ví như người cắm cây nêu làm chính giữa, nhìn từ phương Đông thì cho cây nêu ở phương Tây, nhìn từ phương Nam thì cho cây nêu ở phương Bắc, cái thế giữa được nêu ra đã lẫn lộn thì tâm cũng thành rối loạn, chẳng rõ ở đâu.

7) Cái vô trước là tâm: Cái tâm hiểu biết phân biệt, không ở trong thân, không ở ngoài thân, không ở chính giữa, không ở chổ nào cả, không dính mắc (vô trước) tất cả, đó gọi là tâm? Phật bảo A Nan: Ngươi có cái tâm giác tri chẳng ở chổ nào cả, vậy như các loài bay trên hư không, ở dưới nước và trên bờ, gọi là tất cả vật tượng nơi thế gian mà ngươi không trước đó, là có hay không? Không thì giống như lông rùa sừng thỏ. Nếu có sự không trước thì chẳng thể gọi là không. Không tướng mới không, chẳng không thì có tướng, tâm đã chấp có tướng, thì không thể nói là không trước được.
         
Trong phần gạn hỏi, Phật chỉ muốn đưa A Nan đến chổ tự ngộ bởi vì lời Phật chẳng phải là chơn lý. Phật chỉ dùng thuốc giả để trị bịnh giả của A Nan. Tại sao lại nói là bịnh giả? Vì những kiến chấp của A Nan vốn chẳng thật. Tại sao nói thuốc giả? Vì lời phá chấp của Phật cũng chẳng thật. Kỳ thật khi A Nan nói tâm ở trong thân, ở ngoài thân, cho đến nói không trước là tâm, thì không phải có chổ chẳng đúng hay chẳng sai. Nhưng vì ông ta chấp nhất định ở một chổ, nên Phật nói chẳng đúng. Nếu bịnh chấp chưa hết thì có thể nêu ra vô số chỗ, chứ đâu chỉ có bảy chổ thôi? Nếu bịnh chấp đã hết thì một chổ cũng chẳng có, nói gì đến bảy chổ!
         
Tự tánh vốn bất nhị, nếu chấp theo lời Phật, cho thật chẳng ở trong là nhị, cho thật chẳng ở ngoài cũng là nhị, cho đến bất cứ có ở một chổ nào , hay chẳng ở một chổ nào đều là nhị. Tại sao? Bởi vì nếu có ở một chổ nầy thì những chổ kia không có, chổ có chổ không tức là nhị. Do đó Phật mới nói: “Phàm hữu ngôn thuyết, giai phi thật nghĩa”, phàm có lời nói thì chẳng phải nghĩa thật.
         
Sau khi phá được cái chấp của A Nan, Phật bấy giờ mới từ từ chỉ cái Tâm đến sáu lần. Ban đầu, Phật tạm chỉ các giác quan về phần trực giác như nghe, thấy… là tâm. Khi A Nan đã hiễu rồi thì Phật lại tăng lên một cấp nữa là các giác quan tuy không phải là vọng, nhưng cũng chưa phải là chơn tâm. Cuối cùng Phật nói chỉ có cái Bản thể sanh ra các giác quan mới thật là chơn tâm. Tất cả các pháp đều từ tâm biến hiện, như ngũ uẩn, lục nhập, lục căn, lục trần và lục thức…đều do tâm sanh ra, rồi cũng trở về với thể tánh chơn tâm.
          Tôn giả A Nan và đại chúng trí tuệ được thông suốt, nhận rõ rằng chúng sanh trôi nổi trong vòng sanh tử luân hồi hay chứng được đạo quả Bồ đề an vui giải thoát cũng đều là do ở lục căn. Trong niềm hân hoan của Pháp hội, Phật hỏi như vậy trong sáu căn thì nên tu theo căn nào để đạt được viên thông? Lúc nầy 25 vị đại A la hán, Bồ tát hàng đầu theo thứ tự trình lên Phật những kinh nghiệm tu chứng của mình. Sau cùng Phật hỏi Bồ tát Văn Thù Sư Lợi trong 25 pháp tu đó thì pháp nào thích họp cho ông A Nan cũng như Phật tử căn cơ còn yếu.
         
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nói cho A Nan rằng: 
        
-  A Nan! Ông nên lắng nghe: Tôi vâng oai thần của Phật, nói pháp môn tu hành nầy. Ông đem cái nghe của ông, nghe tất cả pháp môn thâm mật của chư Phật, nhiều như vi trần nếu các phiền não dục lậu không trừ thì cái nghe càng thêm lầm lỗi. Ông biết đem cái nghe của ông, nghe các pháp môn của chư Phật, sao ông không đem cái nghe đó, trở lại nghe ”tánh nghe” (chơn tánh) của mình.
-  A Nan! “cái nghe” nó không phải tự nhiên sanh, do có tiếng (thính trần) nên mới gọi rằng “nghe”. Nếu xoay cái nghe trở vào tự tánh, không chạy theo tiếng, thế là thoát ly được cái tiếng (thính trần). Lúc bấy giờ cái nghe nầy cũng không còn gọi tên là nghe nữa (vì không còn đối đãi nên chẳng có tên kêu gọi). Một căn (lỗ tai) đã được phản vọng trở về chơn rồi, thì cả sáu căn cũng đều được giải thoát.
-  A Nan! Các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết của ông đó, đều là hư huyễn, như con mắt bị nhặm. Còn ba cõi sum la vạn tượng đây, cũng không thật, đều như hoa đóm giữa hư không. Khi cái thấy, nghe, hay, biết xoay trở lại chơn rồi, thì cũng như con mắt kia hết nhặm. Khi các vọng trần tiêu hết thì tâm ông được thanh tịnh.
         
Khi tâm hoàn toàn thanh tịnh rồi, thì cái trí quang sang suốt hiện ra. Lúc bấy giờ chơn tâm ông vừa tịch mịch lại vừa chiếu soi, bao trùm khắp cả mười phương hư không thế giới, lúc bấy giờ ông trở lại xem cảnh vật hiện tiền ở thế gian nầy, cũng như là việc trong chiêm bao. Khi ông được như thế rồi, thì nàng Ma-đăng-già ở trong mộng kia làm gì bắt ông được.
-  A Nan! Ví dụ như các nhà huyển thuật làm các thứ hình, tuy có thấy cử động, nhưng cốt yếu là tại cái máy rút. Nếu máy kia thôi rút, thì các huyển kia yên lặng, vì nó không có tự tánh. Sáu căn của ông cũng thế, gốc từ nơi tâm, vì vô minh vọng động thành ra sáu căn. Nếu một căn phản vọng về chơn rồi, thì sáu giác quan đều không thành. Nếu trần cấu còn thì ông còn phải tu. Khi trần cấu hết, thì tâm tánh ông được hoàn toàn sang suốt, đó là Phật.
-  A Nan! Ông chỉ xoay cái nghe của mình trở về chơn tánh, không chạy theo phân biệt vọng trần bên ngoài, thì ông tức thì thành đạo vô thượng. Đây thật là pháp tu viên thông.
Các Đức Phật nhiều như số vi trần cũng đều do một con đường nầy mà đến cửa Niết Bàn. Hiện tại các vị Bồ tát và những người tu hành đời sau, đều y theo pháp môn nầy mà thành đạo. chính tôi cũng nhờ pháp môn nầy mà được chứng quả, đâu phải chỉ một mình ngài Quán Thế Âm tu theo lối nầy mà thôi. Nay Phật dạy con lựa pháp môn tu hành, để cho người đời sau tu hành mau thành đạo quả, thì duy chỉ có pháp tu của ngài Quán Thế Âm là hơn hết. Còn bao nhiêu các pháp tu hành khác, đều nhờ oai thần của Phật gia hộ mới được thành tựu. Các pháp ấy đều từ nơi sự tướng mà dẹp trừ trần lao, nên không phải là một phương pháp trường kỳ tu tập. Bạch Thế Tôn! Phương pháp nầy rất là dễ tu, mau được thành đạo quả, có thể đem dạy cho A Nan và chúng sanh đời sau, y theo đây tu hành thì hơn các phương pháp khác. Đây là do lòng thành thật của con lựa chọn như thế.
         
Thật là một pháp môn tu chứng hoàn toàn, giải thoát rốt ráo, mà Bồ tát Văn Thù Sư Lợi đã thay mặt Phật diễn nói trong kinh Lăng Nghiêm, mang lại vô số lợi ích cho tất cả chúng sanh cũng như các vị Bồ tát mới phát tâm nhờ đó mà tỏ ngộ được chơn tâm. Đối với chúng ta, không phân biệt căn cơ mau chậm, không phân biệt tuổi tác và hoàn cảnh, mọi người, mọi giới và mọi lúc đều có thể áp dụng hạ thủ công phu một cách liên tục pháp môn nầy để tiến đến giải thoát hoàn toàn. Bồ tát Văn Thù quả thật xứng đáng được tuyên xưng là vị Pháp Vương Tử tuyên dương diệu pháp.
Một thí dụ điển hình là khi mắt chúng ta vừa nhin thấy một chiếc xe đang đậu ngoài đường, thì sự thấy đầu tiên nầy cho chúng ta biết sự vật đó là chiếc xe. Như thế thì khi chúng ta biết đó là chiếc xe thì sự biết chính là chơn tâm. Nhưng khi nhìn kỷ lại thì chúng ta mới nhận định chiếc xe nầy có màu xanh rất đẹp. Khi sự biết chuyển thành phân biệt thì chơn tâm không còn nữa mà được thay thế bằng vọng tưởng. Bởi vì khi thấy chiếc xe thật đẹp thì tâm của ta đang bị si mê và lòng tham cũng bắt đầu nổi dậy. Phật dạy: đây chính là căn nguyên cội rễ của sự khổ đau. 
         
Một thí dụ khác là ban đêm thanh vắng chợt có người dạo khúc đàn. Khi vừa mới nghe thì chúng ta biết đó là tiếng đàn thì sự biết nầy chính là chơn tâm. Nhưng khi nghe kỷ lại thì tiếng đàn lên xuống rất hay làm cho lòng ta xao xuyến. Khi sự biết chuyển qua thành xao xuyến thì chơn tâm cũng biến thành vọng tưởng. Bởi vì sự biết tiếng đàn không làm tim ta rung động có nghĩa là chơn tâm mà lòng ta xao xuyến có nghĩa là sự si mê đang nổi dậy trong tâm của chúng ta. Mà si mê chính là vọng tưởng.
           
Tóm lại sự hay biết của niệm ban đầu chính là chơn tâm. Còn sự phân biệt của những niệm sau chính là vọng tưởng.
         
Do đó khi đối diện với ngoại cảnh mà chúng ta không khởi vọng niệm phân biệt theo vọng trần, có nghĩa là chúng ta xoay các giác quan như thấy, nghe, hay, biết trở về với thể tánh chơn tâm. Nếu vọng niệm không khởi thì chơn tâm hiện bày. Trong kinh nầy Phật cũng dạy chúng sinh phải giữ trì giới để tâm được thanh tịnh và nhờ tâm tịnh mới phát sinh ra trí tuệ để phá trừ vô minh. Vô minh hết thì chơn tâm tự hiện bày.
         
Sau cùng Kinh Lăng Ngiêm muốn nhắn nhủ với chúng sinh là hằng ngày con người mỗi khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần thì tâm liền phân biệt tạo thành sáu thức. Sáu thức chính là tính thấy, tính nghe, tính nếm…  . Nếu con người chỉ biết sự phân biệt thì vọng tưởng chưa dấy khởi và chân tâm vẫn còn. Ngược lại sau khi biết sự phân biệt tâm liền chạy theo ý niệm của tham-sân-si thì dĩ nhiên chân tâm biến mất và được thay bằng vọng thức. Thí dụ như chúng ta nếm một món ăn thì biết ngay món ăn nầy ngon hay dở. Cái biết ngon dở không có gì tai hại mà những ý niệm sau đó muốn chạy theo món ngon mà chê món dở thì mới tai hại. 
       
Do đó dầu tâm có phân biệt nhưng nếu tâm không dính mắc thì chân tâm vẫn hiễn bày. Ngược lại sau khi tâm phân biệt mà tâm chạy theo lục trần bên ngoài thì chân tâm biến mất và được thay thế bằng vọng thức mê lầm để đưa con người lún sâu vào sinh tử luân hồi. Trong Kinh Kim Cang Phật dạy rằng:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là đừng để tâm mình dính mắc nơi sáu trần thì tâm sẽ được thanh tịnh. Sáu căn của con người cũng ví như sáu cánh cửa của một căn nhà. Nếu chúng ta mở toan sáu cánh cửa thì chắc chắn gió lục trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp sẽ tràn vào trong nhà tức là vọng thức từ sáu trần sẽ tràn vào xâm chiếm tâm thức chúng ta. 
       
Tâm thức bây giờ được thay thế bằng vọng thức ô nhiễm từ bên ngoài làm tâm bất tịnh khiến tham-sân-si phát khởi liên miên tạo cơ hội cho con người dễ dàng tạo nghiệp. Nên nhớ có nghiệp là còn sinh tử Luân hồi. Chúng ta nên thức tỉnh quay về sống với tự tánh thanh tịnh bản nhiên của mình thì sáu căn sẽ được sáng tỏ tức là sáu căn không còn dính mắc hay tùy thuộc vào những cảnh giới, màu sắc, hương vị…bên ngoài. Thí dụ khi biết rằng ăn để sống thì vấn đề ăn uống không còn quan trọng. Cũng như xe cộ, nhà cửa…chỉ là phương tiện để sống chớ con người không làm nô lệ cho nó thì tâm không còn dính mắc. Đây chính sống với chơn tâm của mình vậy.

Biết Có là chấp theo cái Có tức là cho sự vật là thật có. Nhưng tất cả vạn pháp đều là vô thường cho nên cái biết Có ấy cũng vô thường hoại diệt. Biết Không là chấp vào cái ngơ. Biết theo hai cái Có, Không là cái biết sanh diệt. Biết thật biết là cái biết của chơn tâm, không kẹt hai bên Có và Không. Đó chính là linh tri, Chơn Tánh của chúng ta vậy. 


26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức

Vì chúng ta bị si mê nên tạo ra căn nghiệp và chính những nghiệp lực nầy đã lôi kéo chúng ta đi vào vòng luân hồi sanh tử. Những nghiệp căn nầy đã dẫn dắt chúng ta trèo lên tuột xuống trong sáu nẽo luân hồi. Do đó nếu muốn hết sanh tử, thì chúng ta phải phá tan cái nghiệp nầy. Nhưng muốn dứt bỏ được cái nghiệp, thì trước hết chúng ta phải chinh phục nơi tâm mình, và phải dẹp bỏ vọng tưởng. Nhưng từ trước đến giờ chúng ta thường hay lầm vọng tưởng là tâm của mình. Chính sự lầm lẫn sai lạc này nên các vọng tưởng dẫn chúng ta chạy ngược chạy xuôi không biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
         
Vậy vọng tưởng phát xuất từ đâu?
         
Khi thân tứ đại được phát sinh, thì Lục căn cũng dựa vào đó mà phát triển. Vậy thế nào là Lục căn? Căn là chỗ nương tựa, làm gốc cho những cái khác nẫy nở, tạo thành. Lục căn thì gồm có:
¨     Nhãn là mắt, dùng để nhìn.
¨     Nhĩ là tai, dùng để nghe.
¨     Tỷ là mũi, dùng để ngửi.
¨     Thiệt là lưỡi, dùng để nếm.
¨     Thân là da bọc thân người, dùng để nhận biết những cảm giác như nóng, lạnh..
¨     Ý là tư tưởng, dùng để phân biệt.
Chung quanh chúng ta  có biết bao nhiêu là hiện tượng, vật thể, biến đổi không ngừng cũng như chi phối từ tư tưởng đến hành động của chúng ta từng giây từng phút và chúng ta gọi nó là “trần”. Như thế, trần có nghĩa là buị, mà đã là bụị thì dơ bẩn và luôn luôn đổi dời. Trần ở đây cũng còn có nghĩa là phần vật chất, hay những cảnh vật chung quanh con người. Chúng ta gom lại được 6 trần nên gọi là lục trần:
v   Sắc: là màu sắc, hình dáng.
v   Thanh: là âm thanh phát ra.
v   Hương: là mùi vị.
v   Vị: là chất vị do lưỡi nếm được.
v   Xúc: là cảm giác như cứng, mềm, nóng, lạnh.
v   Pháp: là những hình ảnh, màu sắc, hương vị được lưu lại từ 5 trần ở trên.
Khi Lục căn (six sense organs) tiếp xúc với Lục trần (six sense objects), có nghĩa là: mắt thấy được hình ảnh nào, mũi ngửi được mùi thơm nào đó, lưỡi nếm được chất chua, cay hay ngọt, tai nghe được điệu nhạc êm đềm, thân thì cảm thấy đau đớn, hay lạnh lẽo, còn ý thì bắt đầu suy nghĩ, thì ký ức của chúng ta phát sinh ra sự phân biệt. Và chính sự phân biệt, hiểu biết và phán đoán này được gọi là thức. Cũng như Lục căn, thức cũng có 6 thức nên thường được gọi là Lục thức (six sense of consciousness). Do đó Lục thức gồm có: Nhản thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức  và Ý thức. Tất cả những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời trong quá khứ cộng với biết bao nhân duyên để tạo thành con người trong hiện tại mà nhà Phật gọi là Ngũ uẩn. Ngũ uẩn thì có sắc uẩn thuộc về phần thân xác và thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn thì thuộc về phần tâm thức. Vậy ý nghĩa nó thế nào? 
  
 
v    Sắc: là thân xác của con người.
v    Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm.
v   Tưởng: là nhớ lại những hình ảnh vui khổ của thân và tâm .
v    Hành: là những sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm.
v    Thức: là sự hiểu biết phân biệt để tạo thành cái biết ở trong tâm. 
  
 
Ngũ uẩn tự nó không có được, mà là do nhân duyên kết thành nên tự nó không có tự tánh hay chủ thể tức là vô ngã. Nhưng một khi mà do nhân duyên kết hợp thì nó làm sao cố định cho được. Trước khi nhân duyên hòa hợp nó chưa có, sau khi nhân duyên ly tán thì nó cũng tiêu tan theo. 
  
Tâm thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo. Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất.  
  
Trong 49 năm hành đạo, tôn chỉ của Đức Phật là dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh và loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà mê muội là cội nguồn của tham, sân, si. 
  
Chẳng hạn như hôm nay trên đường đi làm về, chúng ta thấy (nhãn căn) một cô gái đẹp lái chiếc xe màu xanh (sắc trần) lạn qua lạn lại trước mắt của chúng ta. Khi về nhà ngồi yên tịnh thì hình ảnh cô gái hiện lên (nhãn thức) làm cho tâm tư chúng ta xao động. Khi mình nghĩ về những hình ảnh củ nầy thì tư tưởng sẽ phát sinh ra si mê. Nếu sự si mê này không được thỏa mãn thì nó sẽ biến thành căm hận và đây chính là lòng sân đã nổi dậy trong tâm của chúng ta rồi.  
  
Thật vậy, chính tham, sân, si là đại lộ kinh hoàng để đưa chúng ta vào đường ác nghiệp và làm cho chúng ta mãi mãi trầm luân trong lục đạo luân hồi. 
  
Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy rằng:  
 
“Khi thấy,nghe, hay, biết, mà khởi vọng niệm phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy, nghe, hay, biết mà không khởi vọng niệm phân biệt, đó là Niết bàn”. 
  
Trong các phiền não, chỉ có sân hận là thô bạo nhất, bởi thế cổ nhân có nói:”Nhứt niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”, tạm dịch là khi phát sinh một niềm giận hờn tức đã mở muôn ngàn cửa chướng ngại. Tệ hại hơn nữa, một khi tham, sân, si phát khởi, thì dâm, sát, đạo, vọng sẽ phát sinh. Đây là bốn đại ác nghiệp mà người tu Phật phải tránh xa. 
  
Phật dạy rằng:  
 
“A Nan, ông tu thiền, nếu không đoạn lòng dâm, thì cũng như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thành được”. 
  
Thật vậy, Đức Phật đã tuyệt đối ngăn cấm đệ tử của Ngài về tội gian dâm khi Ngài còn tại thế. Ngày nay chúng ta hảy lắng nghe Đức Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng phát biểu cảm tưởng của ngài khi ngài nói chuyện với tiến sĩ tâm lý học Jack Engler và Giáo sư tâm lý Jean Shinoda Bolen. Chúng tôi xin trích dịch nguyên văn như sau:
“Thứ nhất là phần lỗi thuộc về nử Phật tử: Vì họ đã dại dột coi các ông thầy như thần thánh, lầm tưởng mọi hành động của ông thầy đều cao thượng, nên tỏ ra tuân phục, cưng chìu các thầy quá đáng, làm cho họ hư hỏng. Điều quan trọng là đừng nên vội vàng coi ai là thầy của mình. Vì đó là mối liên hệ rất quan trọng. PhảI đợi một thời gian dài, có khi cần đến 10 năm, hay lâu hơn thế nữa, để quan sát cách xử sự, cách giảng dạy, khả năng tu hành của kẻ ấy cho thật chính xác. Trong thời gian đó ta chỉ nên coi họ như một người bạn thiện trí thức mà thôi. Không nên tin cậy gì nơi họ hết thảy.

Nếu Phật tử thấy ông thầy nào hành động bất xứng, không hợp đạo lý, có quyền phê bình ngay những hành động đó. Trong kinh sách, Phật đã dạy rất rõ là : Ta chỉ nên theo học người thầy có tư cách đàng hoàng. Kẻ nào bất xứng , nói những điều trái đạo lý, hành động gian tà, người Phật tử phải lánh xa ngay.  Tóm lại, người Phật tử có trách nhiệm không để bị lôi cuốn vào con đường tội lỗi.
Còn về phía tăng sĩ thì Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng nói tóm tắt như sau: Về phía người thầy thì họ phải chịu trách nhiệm về những hành xử của mình. Nếu người thầy mà để cho Phật tử quyến rũ vào con đường bất chính, thì người đó đã tỏ ra thiếu nội lực, thiếu nhân cách của kẻ tu hành. Trong khi rao giảng Phật pháp và nhân danh một kẻ tu hành mà chính ông thầy lại phạm những lỗi lầm mà ông ta thường khuyên kẻ khác nên tránh, tức là ông ta đã phản bội công việc mình làm. Thật là một điều đáng xấu hổ.”
Khi nói về lòng sát hại, thì Phật lại dạy rằng: 
  
  “A Nan, nếu không trừ tâm sát hại mà muốn cầu được đạo, thì cũng như người tu bịt hai lỗ tai của mình, la tiếng thật lớn, mà muốn cho mọi người không nghe thì không thể được”. 
  
  Còn vấn đề trộm cướp, thì Phật dạy rằng: 
    “A Nan, nếu không đoạn trừ trộm cướp, mà muốn cầu cho được đạo quả, thì cũng như người rót nước vào chén bể mà muốn cho đầy, dầu trãi bao nhiêu kiếp cũng không thể đầy được”. 
    Sau cùng, Ngài thuyết giảng về vọng ngữ: 
    “A Nan, nếu các chúng sinh, đã giữ hoàn toàn ba hạnh trên là không sát, đạo, dâm rồi mà còn đại vọng ngữ, thì tâm cũng không thanh tịnh, mất hạt giống Phật. Đại vọng ngữ có nghĩa là chưa đặng đạo mà dám nói mình đặng đạo, chưa chứng quả mà nói mình chứng quả. Đối với người đời hay khoe: Ta đã chứng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, hay Phật, để trông cầu người lạy cúng. Những người nói dối như thế, làm tiêu hạt giống Phật, sẽ đọa vào trong biển khổ. Cũng như cây Da La khi bị chặt đứt cội rồi, thì không thể mọc chồi đâm tước được”. 
 
Ngoài ra, còn mối tham nhiểm ăn sâu vi tế mà chúng ta cũng cần lưu tâm. Chẳng hạn như số tiền nhỏ không làm cho tham, nhưng với số bạc lớn khiến cho người phải động tâm. Cũng như sắc đẹp tầm thường thì dễ dàng lướt qua, song giai nhân tuyệt sắc sẽ làm cho người mê lụy. Cho đến các vị tu hành mà còn ham thích chuổi tốt, tượng đẹp, hoặc cảnh lớn chùa to, thì cũng thuộc về tâm tham nhiễm. 
 
Chúng ta phải nhận thức rằng lục căn, lục thức và lục trần đều là những pháp giả dối, không thật. Thế nhưng lục căn (nội thân) vì có thói quen tiếp xúc với lục trần (ngoại cảnh) bởi vì lục trần luôn luôn có sức hấp dẫn làm lục căn bị mê hoặc. Do đó khi lục thức (ý niệm và tư tưởng) được phát sinh thì trong tâm của chúng ta chất chứa toàn là vọng tưởng, thay đổi không ngừng. Muốn cho lục căn không bị ngoại cảnh (lục trần) cám dỗ thì chúng ta phải giữ cho tâm được hoàn toàn thanh tịnh và loại bỏ mọi chấp trước thì vô minh và vọng tưởng sẽ bị tiêu diệt. Nhớ lại ngày xưa trước khi Đức Phật chứng quả Niết Bàn thì chính Ngài cũng phải chiến đấu ngày đêm với bọn Ma vương. Trong thì có ngũ uẩn ma, pháp hành ma, tứ diệt ma, còn ngoài thì có chư thiên ma. 
  
Thật vậy, chiến đấu trong nội tâm thì vạn phần khó hơn là chiến đấu ở ngoại cảnh, vì nếu mình giữ lục căn được trong sáng, thì dầu cho lục trần có quyến rũ, hấp dẫn cách mấy, cũng không thể nào thay đổi được minh tâm của chúng ta. Một trong những phương pháp để giữ tâm được trong sạch là thực tập pháp môn “bát chánh đạo”. 
  
1)   Chánh kiến: là thấy, nghe, hay biết một cách ngay thẳng.
2)   Chánh tư duy: là suy nghĩ, xét nghiệm chân chính.
3)   Chánh ngữ: là nói chân thật, công bình và hợp lý.
4)   Chánh nghiệp: là hành động đúng với lẽ phải, có lợi ích cho chúng sinh.
5)   Chánh mạng: là sinh sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện.
6)   Chánh tinh tấn: là siêng năng làm những việc chánh nghĩa.
7)   Chánh niệm: là nhớ các điều tội lỗi đã làm để thành tâm sám hối và làm bất cứ việc gì cũng nhớ đến hậu quả việc làm của mình.
8)   Chánh định: là tập trung tư tưởng vào một vấn đề chính đáng. 
  
  Tóm lại, chúng ta thấy hậu quả vô cùng tai hại do vọng tưởng sinh ra, nó là cội nguồn của tất cả mọi nghiệp báo để cột chặt chúng ta vào bể khổ của luân hồi. Do đó chúng ta phải sáng suốt dùng trí tuệ để đánh tan mọi vọng tưởng, vô minh để đem lại sự thanh tịnh, tinh khiết trong tâm của chúng ta. 
  Thêm nữa, nước từ bi mát mẻ sẽ rưới tắt lửa phiền nảo. Tâm nhẫn nhục là áo giáp bền chắc chống lại tất cả mũi tên tam độc. Phật pháp là ánh sáng phá tan khói mù tối tăm. Với những tâm niệm nầy, chúng ta nhứt quyết loại trừ tất cả dục vọng để tăng trưởng sức mạnh ngõ hầu đánh đổ bánh xe luân hồi cay nghiệt để tìm về nơi Cưc lạc. 
  
  “Lửa sân si tam độc, đốt hết rừng công đức
Muốn hạnh Bồ tát đạo, giữ thân tâm thanh tịnh”. 
  
 
    Thế nào là thanh tịnh pháp thân? 
  
 
Phật dạy:”Thanh tịnh pháp thân là chơn tánh thanh tịnh, không sanh không diệt, không hoại không thành. Vọng tánh của chúng sanh chỉ thấy nhục thân mà không thấy pháp thân. Tại chổ phàm phu gọi là tâm tánh, tại nơi thánh hiền gọi là thánh tánh, trong cõi trời đất gọi là thiên tánh. Tới chỗ Bồ tát gọi là Phật tánh và tại chổ chư Phật gọi là thanh tịnh pháp thân”. 
   
Nguyên nhân của sự đau khổ bắt nguồn từ bản ngã vì nó vốn có khuynh hướng phân biệt và từ đó nẩy sinh ra các tham vọng, ái dục.


27. Giới Thiệu Kinh Hoa Nghiêm

Kinh Hoa Nghiêm là một trong những bộ kinh quý giá nhất của Đại Thừa. Chính bộ kinh nầy do Đức Phật Thích Ca  thuyết giảng ngay sau khi Ngài thành Chánh giác. Trong khoảng 49 ngày ngồi tư duy dưới gốc cây Bồ đề, Ngài ở trong định “Hải Ấn Tam Muội” và hiện ra thân tướng Pháp Thân Đại Nhật Như Lai mà nói ra bộ Kinh Hoa Nghiêm nầy để hóa độ cho các vị Bồ tát từ ngôi Sơ Địa trở lên. Đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày, nhưng Ngài nói ở đây là nói trong thiền định bởi vì 21 ngày của cuộc sống vật chất theo đời thường thì tất nhiên quá ngắn ngủi. Còn 21 ngày của tư duy thiền định thì thật lớn lao không thể nào tính được. Một tâm niệm trong thiền định, Bồ Tát có thể cứu độ được vô số chúng sanh. Cũng vì ý nghĩa quá cao siêu đó nên Kinh nầy đã không được cho phổ biến  mà đem đi cất giữ tại cung điện của Long Vương. Cho mãi đến khoảng 600 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, thì có Bồ tát Long Thọ ra đời. Vì do lòng khao khát cầu Chánh pháp, Ngài đã dùng thần thông xuống tận Long Cung và lưu lại đây trong 90 ngày để đọc tụng sao chép và mang về san định lại rồi cho phổ biến bộ kinh vĩ đại nầy. 
Thật ra Kinh Hoa Nghiêm có tất cả ba bộ:
1.    Bộ thứ nhất gọi là Đại Hoa Nghiêm do Pháp thân Tỳ Lô Giá Na chuyển. 
2.    Bộ thứ hai là Trung Hoa Nghiêm do Báo thân Lô Xá Na chuyển. 
3.    Bộ thứ ba do chính Đức Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết. 
Vì hai bộ đại kinh và trung kinh quá đồ sộ , không thể đem về, nên Ngài Long Thọ chỉ thỉnh được bộ Tiểu Hoa Nghiêm gồm có 100,000 bài kệ. Nhưng khi về đến nhân gian, thì Ngài lọc lại chỉ còn non một nửa là 45,000 bài kệ mà thôi. Khi bộ Tiểu Hoa Nghiêm nầy truyền sang Trung Quốc, thì được dịch thành hai bộ mà ngày nay chúng ta còn thấy được: Bộ Hoa Nghiêm 60 quyển do ngài Giác Hiền dịch đời Tấn (418 T.L) tại chùa Đạo Tràng ở Dương Châu (nay là Nam Kinh) và bộ 80 quyển dịch ở đời Đường, dưới sự bảo trợ của Võ Tắc Thiên hoàng đế tại chùa Đại Biển Không ở Lạc Dương (695 T.L). Đích thân Võ Hậu đến dịch trường để đề tên phẩm đầu tiên. Có tất cả 38 phẩm mà trong đó phẩm “Nhập Pháp Giới” là một phẩm rất quan trọng. Phẩm nầy mô tả  một  mẫu người lý tưởng, Thiện Tài Đồng Tử, đã nguyện dâng trọn đời mình để phụng sự Chánh pháp với giấc mơ xây dựng một cõi Tịnh Độ nhân gian để giải thoát tất cả chúng sanh ra khỏi mọi khổ đau, hệ lụy. Thiện Tài Đồng Tử đã tham cầu học hỏi với 53 vị Thiện Tri Thức, bắt đầu bằng Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát, biểu trưng cho trí tuệ và kết thúc với hạnh Phổ Hiền Bồ-tát. 
         
Phật nói Kinh nầy cho hàng Bồ-tát, do đó hàng nhị thừa không thể hiểu biết, huống chi là phàm phu. Chúng ta có thể hiểu đại khái là: Phật nói trong Kinh nầy cũng như là cuộc hội thảo dành cho các nhà bác học thì người có trình độ đại học trở xuống có tham dự cũng không thể nào hiểu được. Tại vì sao? Bởi vì Đức Phật nói Kinh Hoa Nghiêm trong thiền định, thì Ngài dùng tâm chuyển vật. Còn chúng ta chưa thấy tâm, thì làm sao thấy được sự chuyển vật.
         
Bồ tát pháp trong Kinh Hoa Nghiêm rất cao sâu. Hàng thấp nhất là Bố-tát sơ địa cũng phải có khả năng làm vua một cõi, tức tiểu vương mới có thể hành đạo tự tại. Bồ-tát nhị địa phải là Chuyển luân Thánh Vương cai quản bốn phương thiên hạ, ai nghe đến danh cũng phải kính nể. Bồ-tát đệ tam địa phải làm vua trời Đạo Lợi, cai quản 33 từng trời. Cứ như vậy lần lên cõi Trời cao nhất là Tha Hóa Tự Tại.
         
Đức Phật giảng cho các vị Trời, đồng nghĩa với nhắc nhở những người có phước báo, quyền uy ở trần gian nên phát tâm làm Phật sự, để tu tạo công đức lớn lao. Nếu không, hưởng hết phước rồi đọa, lúc đó không còn điều kiện tạo công đức. Giống như vua Tần Bà Sa La bị vua A Xá Thế nhốt vô ngục rồi mới phát tâm.
         
Kinh Pháp Hoa và Hoa Nghiêm là hai bộ kinh nồng cốt của Phật giáo. Kinh Pháp Hoa đặt nặng về pháp, trong khi kinh Hoa Nghiêm thì nhấn mạnh về Phật là vị có đầy đủ tư cách để tuyên thuyết diệu pháp. Quan niệm về Đức Phật theo kinh Hoa Nghiêm tất nhiên cũng khởi đầu từ Phật nguyên thủy là Đức Thích Ca. Ngài cũng mang thân tứ đại giống như chúng ta và trãi qua quá trình tu hành thì Ngài đắc quả Vô thượng Bồ đề. Nhưng có những quan điểm nói rằng nếu Phật là người giống ta, thì tại sao chỉ duy nhất có Phật là thành tựu quả vị toàn giác, còn những vị tu hành khác thì có người thành Tổ, nhưng đa số người chẳng đạt được quả vị nào?
         
Để giải thích quan điểm nầy, Phật giáo bắt đầu mở tầm nhìn về chiều sâu, tức là nhìn bên trong cái thực của con người, tức là chân linh, để định giá trị khác nhau của mỗi người. Theo tinh thần ấy, kinh Bổn Sanh, Bổn Sự được hình thành để giải thích về vô số tiền kiếp của Phật đã xả thân hành Bồ tát đạo. Thân xác của chúng ta thì giống như chiếc áo mặc cho chân linh và thân của chúng ta có hai phần: thân mạng hữu hình là mặt bề ngoài thì gọi là Sanh thân, thân mạng vô hình bên trong thì gọi là Báo thân. Theo Đại thừa, Báo thân là phước đức, là trí tuệ của Phật. Ngài giáo hóa thành tựu dễ dàng bởi vì tất cả lời nói, hành động và việc làm đều phát xuất từ trí tuệ siêu việt cũng như đạo đức hoàn toàn thánh thiện. Do đó, chúng ta nhìn Phật qua tri thức  và đức hạnh của Ngài do sự triển khai của Báo thân. Cùng ý nghĩa đó, chúng ta phải nương Báo thân Phật để tu hành nhằm mục tiêu phát triển Báo thân của chính mình. Nói một cách khác, trên bước đường tu, chúng ta xem Phật, Tổ, Bồ tát làm gì, thì chúng ta cũng làm như vậy để nuôi lớn Báo thân của riêng mình.
         
Đức Phật dạy rằng ai cũng có thể thành Phật nếu tu tập cho đầy đủ tâm đại bi và viên mãn hạnh Bồ tát. Nhưng trong vô lượng kiếp quá khứ, Phật, Hiền Thánh, đều trải thân hành Bồ tát đạo, làm lợi ích cho chúng sinh, mới đạt đến Vô thượng Đẳng giác. Ngày nay, nếu muốn thành tựu quả vị như Phật, thì chúng ta cũng phải phát tâm Bồ đề và dấn thân tu Bồ tát đạo.
Tiến đến đỉnh cao của hệ thống tư tưởng nầy, kinh Hoa Nghiêm giới thiệu Đức Phật và cách tu thế nào để thành Phật, tức Bồ tát pháp. Thật vậy, Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta một cái nhìn phóng khoáng, theo đó không có cái gì không phải là Phật, đó mới là Đức Phật chân thật.
 Vâng, Phật nầy chính là Phật huệ, nhưng tư tưởng đặc biệt của Hoa Nghiêm về sự hiện hữu vĩnh hằng của một Đức Phật toàn diện đòi hỏi chúng ta phải đạt đến một trình độ nhất định nào mới có thể hiểu, sống và hành đạo như vậy.
         
Thêm nửa, kinh Hoa nghiêm tiêu biểu qua hình ảnh Phật với 10 loại thân: Ngũ uẩn thân, Quốc độ thân, Chúng sanh thân, Thanh Văn thân, Duyên giác thân, Bồ tát thân, Như Lai thân, Trí thân, Pháp thân và Hư không thân.

1.                Ngũ uẩn thân: Đức Phật cũng hiện hữu từ ngũ uẩn, nhưng Ngài tiến đến quả vị toàn giác vì Ngài không bị ngũ uẩn chi phối. Trong khi chúng sanh cũng mang thân ngũ uẩn, nhưng do bị ràng buộc triệt để nên chúng sanh luôn gánh chịu khổ đau sanh tử. Thật vậy, Đức Phật khẳng định rằng ngũ uẩn cấu tạo nên con người do đó con người bị lệ thuộc nó. Chính vì còn lệ thuộc vào thân vật chất, tức sắc uẩn, cho nên chúng ta còn bị 4 thứ: đói, khát, nóng, lạnh hành hạ. Hương vị giải thoát đầu tiên của người đắc được sơ quả  là lìa xa được đói khát, nóng, lạnh. Vì vậy, chúng ta thấy các thiền sư trong lúc nhập định không cần ăn uống, ngủ nghĩ mà không cảm giác đói khát, mệt mỏi, bởi vì họ đang sống với chân linh, vượt ra ngoài sự chi phối của thân xác. Chúng sanh thì bị thân ngũ uẩn dày xéo, hành hạ, sống khổ với thân, chết cũng không yên với nó. Còn Đức Phật thì tự tại hoàn toàn vì biến đổi được ngũ uẩn thành Pháp thân mà kinh điển gọi là:”Nhược năng chuyển vật tức đồng Như Lai”. 

2.                Quốc độ thân: là nói về sơn hà đại địa. Theo tinh thần Hoa nghiêm, nhìn sông núi hùng vĩ, ngắm dòng suối chảy, nụ hoa mới nở, cá bơi chim lượn hay thấy tượng Phật trang nghiêm, cảnh chùa thanh tịnh, khiến ta phát tâm, đó là vô tình thuyết pháp. Tóm lại, loại thân hình thứ hai của thân Phật Tỳ Lô Giá na là trãi thân ra làm đất đai, làm cây cỏ, làm núi sông để che chở , nuôi sống cho muôn loài.

3.                Chúng sanh thân:  Dưới mắt người hành đạo theo tinh thần Hoa Nghiêm, thì từ con ong, con kiến, cho đến cọng cỏ, bụi gai, không có cái gì mà không dễ thương, không phải là Phật. Ngược lại, đối với phàm phu thì mọi sự vật trên cuộc đời đều chướng tai gai mắt và đây là sự ràng buộc làm cho họ khổ đau. Nói một cách khác, người thật dạ tu hành thì dù ở bên phiến đá, cạnh dòng suối trong núi rừng, nhưng họ cảm nghĩ nơi đó hiện diện ba đời mười phương Phật, nên họ dễ dàng tiến tu giải thoát. Nhưng nếu khởi vọng tâm đòi hỏi phải ở chỗ nầy mới tu được, ở chỗ kia thì buồn khổ, thì không thể nào sống trong Thiền môn một cách viên mãn được. 

4.                Thanh văn thân: Từ trong chúng sanh thân, nếu nhận ra cuộc đời nầy không có gì bền chắc, nên khởi tâm đi tìm bằng hữu. Từ bỏ cuộc sống thế nhân, đi theo lộ trình Phật đạo, mang thân tu sĩ thực hành 37 phẩm trợ đạo của Tứ Diệu Đế giữa lòng cuộc đời, được xem như là Pháp thân của Đức Phật hay Thanh văn thân.

5.                Duyên giác thân hay Bích chi Phật ẩn tu: là hàng Duyên giác thuộc tầng lớp trí thức, tinh thần rất bén nhạy. Họ quán nhân duyên để thấy được mối quan hệ giữa mọi người với nhau trong xã hội. Và theo lời Phật dạy, người nào thấy nhân duyên thì thấy được pháp chân thật và đó là điều tiên quyết để tiến đến quả vị toàn giác. Vì vậy, hàng Duyên giác thâm nhập thiền định và nhận chân được mối quan hệ của chúng sanh trong tứ sanh lục đạo để hành xử theo đúng với lý nhân duyên ấy.

6.                Bồ tát thân: Thanh văn tu hành tập thể, còn Duyên giác ẩn tu quan sát các pháp. Khi tổng hợp hai cách tu nầy, chúng ta có mẫu người thứ ba vừa có đạo đức, vừa có tri thức, đi vào đời độ sanh gọi là Bồ tát. Như thế thì Bồ tát là người đem ánh sáng giác ngộ đến cho chúng sanh. Họ phát tâm Bồ đề, khởi niệm thương chúng sanh và đến giúp đỡ. Đó là do Phật lực chi phối đến.

7.                Như Lai thân: Khi người tu tròn đủ hạnh Bồ tát và tâm đại bi thì đạt quả vị Phật, tức Như Lai thân. Với Như Lai thân, không còn phải dấn thân vào đời để cứu độ như Bồ tát, không phải ẩn tu như hàng Duyên giác, cũng không cần sống trong tập thể tu hành như Thanh văn. Vì Như Lai thân không từ đâu tới và cũng không đi về đâu. Chính thân đó tác động đến các loài chúng sanh và giáo hóa được tất cả mà không cần cử thân động niệm.

8.                Trí thân: Khi đã thành đạt đến quả vị Như Lai, thì lúc ấy như như bất động mà vẫn hóa độ được chúng sinh. Nên hoạt động chính của Như Lai không phải bằng thân xác vật chất, bằng ngôn ngữ bình thường, mà bằng trí tuệ. Dùng trí thân, tức dùng trí tuệ Như Lai tác động chúng sanh, khiến họ phát tâm Bồ đề. Tất cả pháp không có pháp nào mà trí tuệ Như Lai không chiếu tới. Trí tuệ Như Lai chiếu tới đâu, thì biến các pháp ấy thành Pháp thân của Đức Phật. Nếu trí tuệ Phật chiếu vào một tu sĩ hay cư sĩ, tác động họ phải phát tâm, chiếu vào tất cả sự vật thì làm vật đó biến chuyển thành pháp của Phật.

9.                Pháp thân: Quang cảnh thiền môn tuy không phát ra âm thanh, nhưng tác động cho người hình dung ra Phật, liên tưởng đến cách sống của Ngài và họ phát tâm tu theo, tức là Pháp thân của Phật đã thuyết pháp. Thêm nữa, kinh Hoa Nghiêm quan niệm tất cả pháp, kể cả sơn hà đại địa đều nhận lực chi phối của huệ Như Lai, đều là Pháp thân Phật. Nói một cách khác, nếu có Như Lai chiếu vào thì cục đá, miếng gỗ đều có thể biến thành Phật. Ngược lại, nếu không có huệ Như Lai chiếu vào, thì cục đá vẫn là cục đá mà thôi. Cùng một chiều hướng đó, kinh Hoa Nghiêm chủ trương bằng mọi cách  phải phát huy được Như Lai huệ để chiếu sáng vào lòng cuộc đời, vào vũ trụ, biến tất cả thành Phật pháp.

10.           Hư không thân hay tỳ Lô Giá Na thân: Tỳ Lô Giá Na dịch là Phổ quang minh chiếu, chỉ cho trí tuệ rọi vô pháp, biến thành pháp thân. Lúc ấy, trí và lý bất nhị, kết hợp thành một và đây là loại hình của thế giới tu chứng khó mà diễn tả bằng ngôn ngữ bình thường.
Mười thân Phật nói trên là một tổng thân của Tỳ Lô Giá Na Phật, kết hợp giữa chân lý và trí tuệ, từ hàng Thánh giả đến người thường trên cuộc đời cho cả hai loại hữu tình và vô tình. 
Kinh Hoa Nghiêm bản dịch đời Đường được hình thành bởi 9 hội thuyết pháp:

v               Hội thứ nhất: Phật mới thành Chánh giác tạị Bồ đề đạo tràng. Đạo tràng được trang nghiêm bằng vô lượng diệu bảo, thân Phật Giá-na vạn đức viên mãn ngồi trên tòa kim cang. Số Bồ Tát nhiều như số vi trần của mười phương thế giới. Các vi Bồ tát nói kệ hỏi Phật, Phật hiện điềm lành phóng hào quang nói kệ đáp, rồi lại hiện thần biến. Các vị Bồ tát như Nhất Thiết Pháp Thắng Âm… mỗi vị đều nói kệ ca tụng Phật. Bấy giờ, Bồ tát Phổ Hiền nhập Phật tam-muội, được chư Phật ngợi khen. Sau đó Bồ tát Phổ Hiền nói về Hoa tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải được trang nghiêm bằng vô lượng diệu bảo, do công đức tu hành xưa kia của Đức Tỳ-lô-giá-na. Bồ-tát Phổ Hiền lại nói đây là do tiền thân của Đức Tỳ-lô-giá-na ở đời quá khứ, lúc còn làm Thái tử Đại Oai Quang đã cúng dường chư Phật, đã tu vô lượng diệu hạnh, mà thành tựu được công đức trang nghiêm rộng lớn này.

v               Hội thứ hai: Phật ngồi trên tòa sen trong điện Phổ Quang Minh, hiển hiện thần biến, các Bồ tát ở khắp mười phương đều đến nhóm họp. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi nhờ oai lực của Phật nói với các vị Bồ tát về danh hiệu Phật. Sau đó Bồ tát Văn thù nói về các tên gọi khác nhau của Tứ Diệu 
Đế trong cõi Ta bà để tùy tâm chúng sanh mà khiến cho họ được điều phục. Bồ tát Văn Thù Sư Lợi cùng chín vị Bồ tát như Giác Thủ… hỏi đáp qua lại về mười minh môn Phật pháp sâu xa. Bồ tát Trí Thủ hỏi, ngài Văn Thù trả lời về 140 hạnh nguyện thanh tịnh phát khởi vì lợi ích chúng sanh từ ba nghiệp Thân, Khẩu, Ý của Bồ tát. Sau cùng, Bồ tát Văn Thù sư lợi hỏi, Bồ tát Hiện Thủ dùng kệ đáp về các vấn đề vô lượng công đức thù thắng, tín nguyện chắc thật, định huệ thành tựu viên mãn… của Bồ tát.

v               Hội thứ ba:  Đức Phật không rời cây Bồ đề, bay lên cung điện Đế Thích trên đỉnh núi Tu-di. Đế Thích trang hoàng cung điện để cung nghinh Đức Phật rồi cùng chư Thiên nói bài kệ ca tụng Phật. Các Bồ tát như Pháp Huệ … từ cõi nước Phật ở mười phương cũng đến nhóm họp và mỗi vị đều nói kệ ca tụng vô lượng công đức thắng diệu của Phật đã tu hành. Do oai lực của Phật, Bồ tát Pháp Huệ nhập tam-muội Vô Lượng Phương Tiện. Bồ tát Pháp Huệ xuất định nói rộng về pháp môn Thập trụ. Trời Đế Thích đến hỏi, Bồ tát Pháp Huệ tuyên thuyết về các công đức vô lượng của Bồ tát mới phát tâm Bồ đề. Phát tâm thì có thể bình đẳng với Phật, cũng vô sở đắc. Sau đó, Bồ tát Pháp Huệ giảng về các pháp môn Bồ tát phát tâm phải tu và phải thành tựu như là: mười pháp an trụ, mười pháp nhập địa, mười pháp hạnh thanh tịnh, mười thanh tịnh nguyện, mười pháp viên mãn đại nguyện, mười vô tận tạng…

v               Hội thứ tư: Phật lên cung trời Dạ-ma. Vua trời Dạ-ma trang hoàng cung điện, thiết tòa nghinh thỉnh Như Lai và nói kệ ca tụng Phật. Bồ tát Công Đức Lâm nhập tam-muội Thiện Tư Duy nói rộng về pháp môn Thập Hạnh và phân biệt hành tướng của mỗi hạnh. Bồ tát Công Đức Lâm lại nói với các Bồ tát về từng hành tướng thập Vô tận tạng của Bồ tát khiến cho mọi người tu hành đều thành tựu Vô tận tạng.

v               Hội thứ năm: Phật lên cung trời Đầu-suất. Vua trời Đầu-suất trang hoàng cung điện để nghinh thỉnh Như Lai. Do oai lực của Phật, Bồ tát Kim Cang Tràng nhập tam-muội Trí Quang. Bồ tát Kim Cang Tràng xuất định và nói với các Bồ-tát về pháp môn Thập Hồi hướng và phân biệt giải thích hành tướng tu hành của từng giai vị.
v               Hội thứ sáu:  Phật ở Ma-ni bảo điện trên cung trời Tha Hóa Tự Tại. Bồ tát Kim Cang Tạng nhập
tam-muội Đại Trí Huệ Quang Minh. Sau khi Bồ tát xuất định, thì ngài giảng về Thập Địa.

v               Hội thứ bảy: Phật đang ở tại điện Phổ Quang Minh. Bồ tát Phổ Hiền dùng thần lực xuất hiện và nói với đại chúng về pháp môn cao sâu của mười đại tam-muội. Đây là mười thứ thần thông kỳ diệu. Bồ tát Phổ Hiền cũng nói về mười thứ pháp nhẫn và về việc Phật vì cởi mở sự trói buộc cho chúng sanh, nên răn dạy tâm sân hận hay làm chướng ngại trăm vạn pháp môn. Do đó cần phải siêng năng tu tập mười pháp, đủ mười thanh tịnh, mười trí rộng lớn, đắc mười thứ phổ nhập, trụ nơi mười tâm thắng diệu, được mười trí thiện xảo của Phật pháp.

v               Hội thứ tám: Phật đang ở tại điện Phổ Quang Minh. Bồ tát Phổ Hiền nhập tam-muội Phật Hoa Tạng Trang Nghiêm. Từ tam-muội dậy, Bồ tát Phổ Huệ hỏi 200 vấn đề như: y chỉ của Bố tát, công hạnh của Bố tát, cho đến Phật thị hiện nhập diệt…Bồ tát Phổ Hiền dùng mười đáp một, phân biệt diễn nói 2000 pháp môn. Ngài dùng kệ tụng nói lại công hạnh tu hành của Bồ tát.

v               Hội thứ chín: Phật ở rừng Thệ-đa cùng với 500 vị Đại Bồ tát như Văn Thù, Phổ Hiền…Phật dùng đại bi nhập tam-muội Sư Tử Tần Thân chiếu khắp mười phương thế giới trang nghiêm và mỗi thế giới có vô số Bố tát đến dự hội. Bồ tát Văn Thù và đại chúng giã từ Đức Phật để đi về phương Nam. Tôn giả Xá Lợi Phất cùng 6000 Tỳ Kheo cũng nhờ thần lực Phật phát tâm cùng đi về phương Nam. Sau cùng, có Thiện Tài Đồng Tử trong số 2000 người đến đánh lễ nghe pháp phát tâm cầu đạo Bồ đề. Văn Thù Sư lợi Bồ-tát chỉ dạy ngài đi tham học với 53 vị Thiện Tri Thức, từ Tỳ kheo Đức Vân đến Bồ-tát Di-Lặc, nghe nhận được vô số pháp môn cam lồ rộng lớn, sau cùng gặp Bồ tát Phổ Hiền. Từ sự khai thị của Phổ Hiền, ngài lần lượt đắc chư hạnh nguyện hải của Bồ-tát Phổ Hiền. Cuối cùng ngài chứng nhập pháp giới. Kết thúc của hội là bài nói kệ của Bồ tát Phổ Hiền ca tụng công đức rộng lớn như biển cả của Phật. 
Sau cùng, dựa theo tinh thần của kinh Hoa Nghiêm, chúng ta là những Phật tử thì  phải phát Bồ đề tâm. Chúng ta học Bồ đề tâm của chính mình, không học bằng vọng thức. Có nghĩa là chúng ta phải tiếp nhận tinh hoa của giáo nghĩa bằng tâm hồn thanh tịnh chứ không phải chỉ dừng lại ở phân tích hay học hiểu theo văn tự hoặc ngôn từ. Nhưng muốn tiến tới giải thoát, chúng ta trước hết cần phải phát tâm vô lượng Bồ đề. Nhưng thế nào là phát Bồ đề Tâm? Kinh Hoa Nghiêm cũng giảng rõ ràng như sau:
“Phát Bồ đề Tâm là phát tâm đại bi, vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì giúp khắp cả tất cả thế gian. Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sinh diệt mọi nỗi khổ. Là phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sinh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thì đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí tuệ, vì vào khắp biển nhứt-thiết-trí-huệ”.

Ngài Bồ-tát Phổ Hiền tuyên thuyết trong kinh Hoa Nghiêm về Phẩm “Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện: ”Thiện Nam Tử! trong các thứ cúng dường, Pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường là: Tu hành đúng theo lời Phật dạy, chịu khổ thế cho chúng sanh, nhiếp thọ chúng sanh, siêng năng tu tập căn lành, không bỏ hạnh Bồ tát và chẳng rời tâm Bồ đề”. Vì thế để kết thúc kinh nên nhớ rằng: Trong trần thế dẫy đầy ngã chấp và ích kỷ nầy, thử nghĩ có cái gì quý đẹp thanh cao bằng hy sinh tất cả để trau dồi dời mình cho trong sạnh, hầu mưu cầu hạnh phúc cho tha nhơn? 


28. Vô Thường – Vô Ngã

Phàm là con người thì ai ai cũng có nhiều tham vọng. Những tham vọng này đã gắn bó chặt chẻ trong tâm ta để sai khiến chúng ta phải tạo tác, giữ gìn bắt đầu từ tấm thân tứ đại nầy, cho đến mọi vật thể ở chung quanh chúng ta. Chẳng hạn chúng ta cố dành dụm tiền để mua chiếc xe mới để lái cho sang và sau nữa là hãnh diện với bạn bè. Cho dù chúng ta có giữ gìn chiếc xe này cách mấy, thì ngày qua tháng lại nó cũng trở thành cũ và xấu đi. Tại sao vậy? Bởi vì tất cả mọi vật ở trên đời này đều luôn luôn biến đổi, chẳng khác nào như một giòng sông, một đám mây. Thời gian trôi qua như thế nào, thì mọi vật cũng trôi qua như thế đó. Nói theo danh từ nhà Phật, thì sự biến chuyển , đổi thay ấy gọi là luật vô thường. 
  
           Vậy thế nào là vô thường? 
  
            Phật dạy rằng: “Tất cả những gì trong thế gian đã là biến đổi, hư hoại, đều là vô thường”. Vậy vô thường là không ở mãi một trạng thái nhất định, mà thay hình đổi dạng, đi từ trạng thái hình thành để rồi biến hình đổi dạng và sau cùng đi đến sự tan rã. Phật gọi những giai đoạn thay đổi này là: sanh, trụ, dị, diệt. Thật vậy, mọi vật đều phải được tạo ra (sanh), tức là còn ở điều kiện tốt (trụ), sau đó phải chuyển từ từ sang xấu (dị) và sau cùng đi đến sự tan rã. Tất cả sự vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều phải tuân theo luật vô thường này.
Vậy cái luật vô thường này nó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào? 
  
Chúng ta hãy lắng nghe Thái tử Tất đạt Đa than thở với Công chúa Dà Du trước khi Ngài đi xuất gia: 
  
“Chúng ta sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những lớp tro bạc. Ôi! Mặt trong của nàng rồi sẽ mờ đục! Môi thắm của nàng rồi sẽ úa màu!   Ta nghe trong ta, trong nàng và trong cả mọi người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá của cái búa thời gian, tất cả những gì quý giá của đời người… Chúng ta ôm giữ một cách tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương!”.
Những lời than thở thốt ra từ một vị Thái tử cao sang quyền quý, tướng mạo khôi ngô, chẳng những đã thức tỉnh Công chúa Da Du, mà còn đánh thức tất cả những ai còn say đắm trong cảnh đời giả tạm mà sanh, lão, bệnh, tử là hiện thân của luật vô thường. 
  
 
Thân tứ đại của chúng ta thì vô thường như thế, nhưng trong thế gian này con người vẫn cố tình bồi bổ, cung phụng xác thân của họ bằng cách tạo tác ra biết bao tội ác ghê gớm. Điển hình là vào thế kỷ thứ 18, ở bên Trung quốc có bà Từ Hi Thái hậu. Vì muốn lấy lòng những nhà ngoại giao Tây phương, bà đã đặt ra những món ăn chơi táo bạo trong đó có món ăn óc khỉ. Chúng ta thử tưởng tượng sự đau đớn cực độ của những con khỉ vô phước này khi con người móc óc của nó để ăn trong khi chúng nó vẫn còn sống. Thật là một cảnh tượng hãi hùng, chỉ vì muốn bồi bổ tấm thân vô thường mà con người đã nhẫn tâm làm những điều tàn ác như thế. 
  
  Không những Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy Thân là vô thường, mà ngay cả Đức Lão Tử cũng chán ngán cả chính cái thân mà theo Ngài là nguồn tội lỗi, là gốc khổ đau, nên thốt ra câu: 
  
  “Ngô hữu đại loạn, vị ngô hữu thân, 
  
  Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” 
  
                              Tạm dịch: 
  
Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân,
Nếu ta không có thân, thì đâu có khổ gì? 
  
Thật vậy, các tế bào trong thân thể của chúng ta luôn luôn thay đổi và cứ mỗi 7 năm thì những tế bào này hoàn toàn đổi mới. Chính sự thay đổi này đã làm cho chúng ta chóng lớn, chóng già, và dĩ nhiên là chóng chết.  Vì sự vô thường của thân như thế, nên cổ nhân mới có câu: 
  
Thân như bóng chớp chiếu tà,
Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời,
Sá chi suy thạnh việc đời,
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành. 
  
                                              Hay là: 
 
Hồng nhan già xấu, anh hùng mất
Đôi mắt thư sinh cũng mõi buồn. 
Thân thì vô thường như thế, còn Tâm thì như thế nào? 
Ngoại cảnh đã làm cho tâm niệm của con người thay đổi từng giây từng phút. Bây giờ thì chúng ta đang vui, bỗng vài phút sau thì chuyển sang buồn. Phút này đang nghĩ chuyện này, phút sau lại nghĩ chuyện khác, đôi khi đầu óc suy nghĩ vẫn vơ, không đầu, không đuôi. Chính vì cái tâm biến đổi mau lẹ như vậy, nên chúng ta có cảm tưởng như nó không thay đổi gì cả. Tâm của chúng ta được cấu tạo bởi từng niệm sanh diệt, nhưng vì chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của nó, nên chúng ta cứ tưởng là nó đơn thuần và bất biến. Cái tâm phút trước đâu phải là cái tâm phút này? Và cái tâm phút này đâu còn là cái tâm phút sau? Vậy cái tâm nào là cái tâm thật? Cái tâm phút trước, cái tâm phút nầy, hay là cái tâm phút sau? 
  
Chúng ta vui đó rồi buồn đó, thương đó rồi giận đó. Phút trước ta nghĩ chuyện nầy, giây phút sau ta nhờ chuyện khác. Vì thế mà Đức Phật cũng dạy rằng: 
  
Tâm người như vượn chuyền cây,
Như ngựa chạy rông nơi đồng nội. 
  
 
Thật vậy, tâm niệm của con người sanh diệt trong từng sát na (giây) và vì chính nó sinh diệt mau lẹ như thế nên con người có cảm tưởng như nó không thay đổi chi cả. Mỗi khi ta mở mắt, ta nhìn thấy ngoại cảnh, ta nghe âm thanh, ta nếm thức ăn gì, ta ngữi hương thơm hay thân ta có cảm giác thì trong tâm thức tức thì nảy sinh ý niệm. Như thế thì ý niệm sinh khởi vô cùng vô tận trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước và như thế nó cứ chồng chất lên nhau. Ý niệm càng nhiều thì vọng thức càng phát sinh và dĩ nhiên tâm càng vọng động. Tâm chứa đầy vọng thức thì dĩ nhiên chân tâm biến mất và những ô nhiễm như Tham-Sân-Si, Mạn, Nghi cũng vì thế mà tác tạo liên tục để hành hạ con người và đưa họ lún sâu vào vòng sinh tử Luân hồi. Nên nhớ có nghiệp là còn sinh tử, còn đau khổ. Xem như thế thì cái tâm thật là vô thường, mang tính chất tạm bợ và giả tạo, thế mà người đời hoang tưởng cho nó là trung tâm điểm của vũ trụ để bám víu vào nó, nhơn danh nó để tham lam, và làm bao nhiêu điều tội lỗi cũng như gây biết bao đau thương cho kẻ khác. 
  
Thân thì vô thường, ngay cả cái tâm cũng vô thường, vậy vật thể, sơn hà đại địa có vô thường không? 
Chẳng riêng gì sinh vật là biến đổi từ trẻ sang già rồi chết. Còn sông núi, đất cát cũng có khi lở khi bồi, và trăng sao cũng khi tròn khi khuyết. Nói chung không có vật gì là vỉnh viễn tồn tại cả. Thật thế, cuộc đời của chúng ta đã chứng kiến bao sự thăng trầm, vinh nhục, lên voi xuống chó. Giàu nghèo, sang giàu liên tục diễn ra trước mắt chúng ta như chỉ là một bức tranh vân cẩu mà thôi. 

Đối với người Việt nam chúng ta, không còn ai quên được cuộc đổi đời sau năm 1975. Biết bao người giàu sang quyền quý, tiền rừng bạc biển, dinh thự nguy nga, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, thế mà nay chỉ còn là dĩ vãng. Lắm kẻ ngày xưa quyền cao chức trọng mà giờ đây bỗng trở thành những kẻ tha phương cầu thực, hay vướng cảnh tù đày. 
           
Sự vô thường đã sờ sờ trước mắt, thế mà biết bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh ngộ  . Kẻ mua quan, người bán tước, kẻ tham danh, người ham lợi, đã gây ra bao cảnh đa đoan, nhân tình thế thái.  Thuyết vô thường của Đạo Phật là một phương pháp rất thực tiển không phải tôn chỉ gieo vào lòng mọi người những quan niệm chán đời để nhìn đời một cách tiêu cực mà cốt yếu là muốn khai trừ những sự mê lầm và ngăn chận người đời chạy theo vật dục một cách mù quáng. Chúng ta đã đau khổ vì màu sắc tốt xấu, vì lời hay tiếng dở, vì mùi vị ngọt bùi, cay đắng, thì thuyết vô thường sẽ mang lại được sự bình tỉnh thản nhiên trước cảnh đổi thay bất ngờ và có thể lạnh lùng trước cảnh phân ly, chia biệt. 
  
 Khi đã hiểu vô thường, chúng ta không còn quan trọng mọi thứ trong cái cõi đời này. Biết vô thường, chúng ta mới chán ngán với những thú vui tạm bợ, giả trá và cương quyết tìm lại cái giá trị chơn thật, cái hạnh phúc chân chính, cái Phật tánh sáng suốt, chắc chắn muôn đời. 
 
Bởi vậy, người xưa cũng nói:
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu
Tấm thân tứ đại tránh sao điêu tàn. 
  
(Không có cái Ta)
(Non-self) 
            Con người từ khi mới lọt lòng mẹ, rồi lớn lên, trưởng thành, già nua, bịnh hoạn, rồi cuối cùng cũng phải chết. Ngay cả khi chết, chúng ta cũng còn nghĩ rằng một cái gì đó vô hình tướng mà nó có sức mạnh để làm chủ chúng ta từ ý nghĩ cho đến hành động. Cái vô hình nấy có người gọi là linh hồn, có người gọi là bản ngã, có người gọi là thần thức, nhưng chúng ta gọi nó là cái Ta. Vì chúng ta nghĩ rằng trong ta chỉ có một cái Ta, thành thử cái Ta sẽ không biến đổi theo thời gian, hay nói một cách khác là cái Ta có tính chất tồn tại bất biến. Theo Phật thuyết thì sự tồn tại bất biến nấy được gọi là “ngã chấp”. Từ cái ngã chấp ấy, mà sinh ra “ngã ái”, nghĩa là yêu thương, chăm sóc và giữ gìn cái “ngã”. 
  
 Vì quá thương yêu cái “ngã” của Ta, mà cuộc sống của chúng ta bị quay cuồng trong vòng luân hồi sanh tử. Thay vì sống một cuộc đời thanh cao đạo hạnh, chúng ta cam chịu làm nô lệ để thỏa mãn những dục tính của cái Ta, bởi vì chúng ta lo sợ một ngày nào đó chúng ta sẽ hoàn toàn mất nó.  
 Nhưng thực ra, có một cái Ta như thế không? 
  
Theo Phật giáo, con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp tạo thành và cái Ta chỉ là một sự kết hợp của Ngũ Uẩn mà thôi. Vì là do nhân duyên hòa hợp nên Ngũ Uẩn không có tự tánh hay chủ thể. Thí dụ một hạt lúa tự nó không thể phát triển để thành cây lúa nếu không có những trợ duyên như phân bón, nước, ánh sáng mặt trời, tay vun trồng của người nông phu…Thế thì hạt lúa là vô ngã vì tự nó không thể phát triển hay tồn tại mà không có những trợ duyên khác. Cái thân của chúng ta cũng vậy, nếu thân là Ngã thì tự nó có thể lớn lên và sống mà không cần những trợ duyên bên ngoài như thức ăn, thức uống, áo quần, nhà cửa…Nhưng con người muốn sống thì cần phải ăn, phải uống…cũng như cây muốn sống thì cần phải có nước…Vì thế chính thân của con người hay nói theo danh từ nhà Phật là Ngũ Uẩn là Vô ngã tức là không có chủ thể tức là Không (nói theo danh từ Tâm Kinh). 
           
Ngũ uẩn hay con người là sự kết hợp của Thân và Tâm mà Phật giáo gọi là Sắc và Danh. Sắc là chỉ cho Thân và Danh là cho Tâm thức. Danh hay phần Tâm thức tức là phần tinh thần thì gồm có Thọ, Tưởng, Hành, Thức. 
           
Tóm lại: 
Thân xác thì gọi là Sắc uẩn.
Tâm thức hay phần tinh thần thì có Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn. 
Vậy thử xem trong ngũ uẩn nó biến đổi như thế nào? 
  
  1)   Sắc: là thân xác của con người thì tan hợp, hợp tan như bọt biển. Trời đất đó đây không định hướng, không có gì cố định cả. Vì thế Sắc là biến đổi, chạy theo thời gian, là vô ngã. 
  
 2)Thọ: là những cảm giác vui khổ của thân và tâm đều sinh diệt bất thường giống như những bong bóng trên mặt nước. Như thế thọ là vô ngã. 
 
3)Tưởng: là những ảo ảnh giống như những giả cảnh mà người lữ hành trong sa mạc thường thấy. Vì là cảnh giả nên tưởng là vô ngã. 
 
4)Hành: là sự biến chuyển thay đổi của tâm niệm. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước và như thế ý niệm cứ tiếp tục sinh khởi liên miên trong tâm thức của con người. Ý niệm là do bên ngoài mà có tức là do nhân duyên kết tạo mới có sự suy tư. Mà đã là do nhân duyên thì hành là vô ngã.  
  
5)Thức: là sự hiểu biết phân biệt để có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Khi sự phân biệt nầy thành cái biết thì đây chính là thức uẩn. Sự phân biệt có là do từ bên ngoài chớ không phải tự con người có được nên thức là uẩn chính là do nhân duyên tạo thành. Vì thế thức uẩn là vô ngã tức là Không. Tâm thức của con người biến đổi không ngừng từng giây từng phút. Theo Phật giáo sự biến đổi của tâm thì 16 lần nhanh hơn sự biến đổi của vật chất. Vì quá nhiều biến đổi như thế, nên thức cũng là vô ngã. 
  
 
Vậy trong ngũ uẩn đâu có cái gì là bất biến, cố định đâu?  
  
Bởi sự biến đổi không ngừng này mà ngũ uẩn được xem là vô ngã. Nếu ngũ uẩn đã là vô ngã, thì trong ta làm gì có cái Ta. Như vậy bản ngã chỉ là một tiến trình biến đổi của danh (tâm) và sắc (thân) theo mối dây liên hệ nhân quả mà thôi. 

Nếu nhìn kỹ lại cái thân tứ đại của chúng ta, thì mỗi ngày nó già đi một chút, không cách nào làm cho nó trẻ mãi được, rồi cuối cùng nó cũng phải chết. Đó là thân vô ngã. Còn Tâm có vô ngã không? Trong tâm của chúng ta lúc thì vui, khi thì giận, biến đổi khôn lường và như thế thì tâm cũng là vô ngã. Ngay đến cảnh vật chung quanh chúng ta cũng biến đổi không ngừng, đồi núi thì san bằng thành biển cả. Vạn vật thì cũng thế luôn luôn biến chuyển từng giây từng phút, cảnh này hủy diệt thì cảnh khác hiện lên. 
 
Nói tóm lại, cái thân tứ đại của chúng ta chuyển từ trẻ sang già thì chính nó là vô ngã, mà Lục căn phát sinh từ tấm thân tứ đại này, thì Lục căn cũng là vô ngã mà thôi. Cùng lý luận này, thì Lục trần và Lục thức cũng đều là vô ngã cả. 
  
Chúng ta sống trong mê muội bởi vì chúng ta lầm tưởng thường với vô thường, ngã với vô ngã và cũng chính bởi cái mê mờ ấy mà chúng ta đau khổ lại càng đau khổ hơn. Chính cái vô ngã của nhà Phật đã giúp cho chúng ta nhận định và phân biệt đâu là thật, đâu là giả, đâu là chính, đâu là tà để cho chúng ta có thể phá tan được cái vô minh và sự phiền não chấp chứa lâu đời lâu kiếp trong tâm hồn của chúng ta. 
  Phật dạy:  “Chế ngự được tâm là quý nhứt, bởi cái tâm thật khó mà kiểm soát, nó chạy không ngừng theo tham dục. Khi tâm đã được chế phục, thì tìm thấy được hạnh phúc”. 
  
  “Chúng ta đem tâm “thương ghét” mà cầu đạo Bồ-đề, thì không bao giờ được giải thoát, vì nó là gốc của sanh tử luân hồi vậy”. 
  
  “Vì cò phiền não nên có Bồ-đề, có sanh tử mới có Niết Bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng sanh mới có Phật”. 


29. Con Người Từ Đâu Đến

Đã là con người sống trong thế gian này, cũng có một giây phút nào đó chúng ta thắc mắc là mình từ đâu mà đến? Và mình sẽ đi về đâu? Tại sao có kẻ thì xinh đẹp, còn có người lại xấu xí? Có người thì khỏe mạnh, sao lại có kẻ bị tật nguyền? Ai là người chịu trách nhiệm cho tất cả những việc này? 
           
Vậy trước hết chúng ta phải tìm hiểu xem con người từ đâu mà có? 
  
           
Những tôn giáo thờ Thượng đế, thì con người là sản phẩm của Ngài. Chính Thượng đế là đấng Tối cao, Toàn năng, Toàn thiện và Toàn trí, chẳng những đã tạo ra con người, mà còn sáng tạo ra cả thế gian và vũ trụ nữa. Lý luận như vậy mới nghe qua thì thật là hữu lý, nhưng xét cho kỹ thì bất cứ cái gì trên thế gian nầy cũng đều phải có thỉ có chung, có nhân có quả.  Nói thế có nghĩa là gì? Nếu nói Thượng đế đã sáng tạo ra con người, thì ai đã sáng tạo ra Thượng đế? Thượng đế từ đâu mà ra? Không có nhân thì làm sao có quả?  
  
 
Còn Phật giáo thì trả lời như thế nào? 
             
Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi muốn nói đến thuyết “Thập nhị nhân duyên” của Đức Phật. Vậy thế nào gọi là nhân duyên? Nhân có nghĩa là nguyên nhân, dùng để chỉ những vật chính làm nhân và chính nó trực tiếp sinh ra một vật khác. Chẳng hạn như hạt lúa là nhân sinh ra cây lúa. Còn duyên là trợ duyên, chỉ cho những vật có tính cách trợ giúp dù trực tiếp hay gián tiếp cho vật khác được thành. Chẳng hạn như phân bón, ánh sáng, nước và công vun bón là trợ duyên cho hạt lúa trở thành cây lúa. Mười hai nhân duyên đó là: 
  
1)   Vô minh: có nghĩa là không tỏ ngộ chân tâm, hoặc là hiểu biết các pháp không đúng như thật do đó mà sinh ra mê lầm. Cái thật thì cho là giả, giả thì cho là thật, điên đảo hư vọng chấp ngã. Trong 12 nhân duyên, thì vô minh là lợi hại nhất. 
  
2)   Hành: là hành động, tạo tác. Do vô minh phiền não nổi lên, làm cho thân, khẩu, ý tác tạo ra các nghiệp lành hay dữ. 

3)   Thức: là thần thức (còn gọi là linh hồn). Vì thân, khẩu, ý tác tạo những nghiệp lành hay dữ nên khi chết rồi, các nghiệp dẫn dắt thần thức đi lãnh thọ quả báo khổ hay vui ở đời sau. 
  
 
4)   Danh sắc: là thân tâm. Trong thân thể của con người, thì phần tinh thần (tâm) không có hình sắc nên gọi là Danh, còn phần thể chất có hình sắc thì gọi là Sắc. 
  
5)   Lục nhập: mỗi khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì lục thức được phát sinh và sự thu nhập lục thức này gọi là lục nhập. 

6)   Xúc: là sự tiếp xúc của lục căn với lục trần, như tai nghe tiếng nói, thân cảm thấy nóng lạnh… 

7)   Thọ: là thọ lãnh, khi lục căn tiếp xúc với lục trần, thì thọ lãnh những cảnh vui hay cảnh buồn. 

8)   Ái: là ưa muốn. khi thọ lãnh cảnh vui, thì sinh lòng tham; khi gặp cảnh khổ thì sanh tâm sân hận, buồn rầu. Đây là cái động cơ thúc đẩy thân, khẩu, ý tạo tác ra những nghiệp. 

9)  Thủ: là giữ lấy. Nếu gặp cảnh tốt thì tham cầu, gặp cảnh xấu thì phát sinh sân, si để lìa bỏ. Đây là nguyên nhân tạo ra nghiệp sinh tử. 

10) Hữu: là có. Bởi vì đời này chính mình đã tạo ra nhân lành hay nhân dữ, thì đời sau phải chịu quả khổ hay vui mà mình phải thọ lãnh. 

11)  Sanh: là sanh ra. Do ái, thủ, hữu làm nhân hiện tại tạo ra các nghiệp, vì vậy phải sanh ra đời sau để thọ quả báo. 

12)  Lão, Tử: già và chết. Đã có sanh, tất phải chịu khổ già rồi chết. 
  
Khi còn ở trên thế gian này, thì vô minh đã làm cho tâm của chúng ta bị mê muội để không còn sáng suốt phân biệt đâu là thật, đâu là giả và nhận biết sai lầm về con người và vạn vật trong vũ trụ nầy. Nhận biết sai lầm chính là cội nguồn phát sinh ra tam độc Tham-Sân-Si để tạo ra nghiệp mà dẫn họ đi lên, đi xuống lang thang lẩn thẩn trong sinh tử Luân hồi. Những nghiệp báo này có khi thiện, có khi ác. Khi chúng ta qua đời, thì những nghiệp báo này đi theo chúng ta như hình với bóng. Tất cả những nghiệp báo này được gom góp lại  và được gọi là “nghiệp thức”. Thân tứ đại của chúng ta thì trở về với tứ đại, còn nghiệp thức thì tiếp tục bám theo thần thức (linh hồn của những tôn giáo khác). 
  Một khi chúng ta chết, ngũ uẩn tan rã và nghiệp lực dẫn dắt đi đầu thai. Nhưng dẫn dắt cái gì?  Như chúng ta đã biết Lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức) thì sanh diệt vô thường, biến chuyển không ngừng, thì mặc dầu nghiệp thức còn đó, nhưng lấy cái gì  gìn giữ những nghiệp thức đó để chuyển qua đời tương lai? 
  
 
Trong thuyết nghiệp cảm duyên khởi, chính Đức Phật đã khẳng định rằng một khi con người gây ra bất cứ một nghiệp thức nào thì nó sẽ được bắt lấy và gìn giữ mãi mãi trong Tàng thức từ đời nầy sang đời khác, không bao giờ mất. Thí dụ chúng ta vừa tạo một ác nghiệp thì Mạt-Na thức tức thì ghi nhận hiện tượng nầy và sau đó chuyển cái ác nghiệp nầy vào lưu giữ lại trong A-Lại-Da thức (Tàng thức). Duy thức luận gọi Mạt-Na thức là thức thứ bảy và A-Lại-Da thức là thức thứ tám sau lục thức. Có một điểm khác biệt là lục thức: nhãn thức, nhỉ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức thì sinh diệt tức là nay có mai không, không có gì quan trọng. Còn Mạt-Na thức và A-Lại-Da thức thì không bao giờ mất.  

Hễ con người còn tạo nghiệp thì nó còn giữ tất cả những chủng tử nầy đến khi hội đủ nhân duyên thì nó sẽ phát khởi tạo thành quả báo và nó chính là cái vui hay cái khổ của con người trong đời nầy. Vì thế tiến trình nầy còn được gọi là “kết nối đời sau”. Tại sao? Con người do phiền não mà tạo nên nghiệp và vì tạo nghiệp nên mới tiếp nối đời sau để thọ khổ. Nếu không có A-Lại-Da thức nầy để nắm giữ việc “kết nối đời sau” thì chúng ta một khi chết rồi thì mất luôn, không còn gì cả.  Chính Mạt-Na thức và A-Lại-Da thức tự nó mang tính chất của cái ngã.  Cái ngã vô hình để gìn giữ lấy tất cả những nghiệp thức mà chúng ta đã tạo ra. Thêm nữa Mạt-Na thức và A-Lại-Da thức có khả năng chất chứa những chủng tử của nghiệp thức đến vô tận và kéo từ đời này sang đời khác, tiếp diễn không ngừng.  
  
Nó chính là nền móng của nhân quả luân hồi, mà cũng là căn nguyên của giải thoát. Bởi vì trong A-Lại-Da thức có đủ chủng tử hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu tức là phần phước đức chính là những hạt giống phát sinh ra những hiện tượng vui khổ của con người. Còn chủng tử vô lậu tức là phân công đức có khả năng không để cho tâm vọng động tức là thanh tịnh tâm và giúp cho chúng ta tìm đến sự giải thoát. 
          
Vậy con người từ đâu mà có? 
Khi có sự giao hợp giữa nam và nữ, thì Thân Trung Ấm (thần thức) của người chết được thác sinh vào thai mẹ để làm người. Trong thai mẹ, gom góp tinh huyết làm nhục thể và sau đó tâm thức cùng nhục thể  hòa hợp với nhau gọi là Danh Sắc (Danh là tâm thức, sắc là nhục thể). Với thời gian, Danh Sắc lần lần tượng đủ lục căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý). Khi thai nhi được sanh ra, thì lục căn của hài nhi bắt đầu tiếp xúc với lục trần, do đó hài nhi biết nóng, lạnh, đau, êm…Bởi vì sự xúc chạm này, mà tâm của hài nhi dần dần phát sanh ra sự phân biệt rồi từ đó có những cảm giác thọ vui, hay khổ…Chính sự cảm thọ vui, khổ này mà phát sinh ra những khởi niệm ưa ghét. Cũng chính vì sự tham ái đó nên nó cố bám vào cái hay cái tốt, cái nó ưa thích và dĩ nhiên vì muốn thỏa mãn những chỗ ưa thích đó, nên nó tạo ra nghiệp căn. Mà tạo nghiệp thì phải chịu quả báo. 
  
Đã có sanh, thì chúng sẽ già và sau cùng là chết. Như thế, một khi chúng ta tạo nhân trong quá khứ, thì nó sẽ là quả của hiện tại và quả của hiện tại sẽ là nhân cho quả của tương lai. Con người cứ như thế mà xoay vần mãi mãi không ngừng, đời nầy tan thì đời khác đến. Từ đấy mà suy ra thì chúng ta thấy rằng con người chẳng những sống một đời trong hiện tại này, mà trong quá khứ đã trải qua không biết bao nhiêu cuộc đời rồi. Và sau nầy, trong tương lai chúng ta sẽ còn nối tiếp biết bao cuộc sống khác. 
  
Nói một cách khác, chết là để thay đổi thân mới và sanh là để thế thân cũ. Nó xoay vần nối vòng sanh và chết, chết và sanh, thay thân cũ lấy thân mới, rồi lấy thân mới để thế thân cũ, như chúng ta thay đổi áo quần hàng ngày. Vậy thân thể của chúng ta ngày nay chỉ là một thân trong số vô lượng thân. Chúng ta đã thay bỏ không biết bao nhiêu thân về trước và sau này chúng ta cũng sẽ thay đổi không biết bao nhiêu thân nữa. 
  
Khi đã hiểu sanh tử như thế thì chúng ta, đối với sự sanh không tham cầu bởi vì nó là vô thường không lâu không bền và đối với cái chết không sợ hãi bởi vì chết không phải mất hẳn đi, mà chỉ là sự thay cũ đổi mới mà thôi. 
  
Sự sanh hiện tại, chỉ là một lần sanh trong vô lượng lần sanh, và sự chết ngày nay chỉ là một cái chết trong vô lượng lần chết mà thôi. Chúng ta đã thấy mười hai nhân duyên chẳng khác nào như mười hai vòng xích nối liền nhau làm thành một chuỗi xích, không biết đâu là đầu, đâu là cuối. Nếu cắt được một vòng xích, thì chúng ta sẽ phá được chuỗi xích nầy. Theo giáo lý nhà Phật thì  sanh tử luân hồi là hiện tiền của nghiệp báo, là oan gia, là thê lương đối với con người. Nhưng làm thế nào để trừ phá cái vòng xích oan nghiệt kia? Trong mười hai nhân duyên, thì chữ “Ái” là quan trọng nhất. Ái là luyến ái, là cội nguồn của tham dục. Vì luyến ái nên chúng ta làm mọi thứ để giữ lấy (thủ) cho mình, rồi sau đó thủ sẽ sanh ra hữu (có). Vậy nếu không có ái thì không có hữu, không có hữu thì không có sanh, không có sanh thì không có lão tử và cuối cùng thì không còn đau khổ luân hồi. 
  
 
Nhưng tại sao chúng ta lại đầu thai vào làm con của cha mẹ chúng ta mà không vào gia đình của người khác? 
Sự quan hệ giữa cha mẹ và chúng ta có bốn loại: Báo ơn, Báo oán, Đòi nợ, và Trả nợ. 
Trong đời quá khứ, nếu chúng ta kết duyên với cha mẹ của chúng ta, thì đời này chúng ta sẽ gặp lại họ. Nếu là ác duyên, thì chúng ta đến để đòi nợ và đôi khi còn tệ hại hơn nữa là chúng ta đến để báo oán bởi vì kiếp trước họ đã gây ra đau khổ cho chúng ta. Nợ càng lớn thì chúng ta đòi càng nhiều. Vì thế cổ nhân thường nói đây là oan gia nghiệp báo. Thật là chí lý. Còn nếu là phước duyên, thì chúng ta đến để báo ơn, để đền đáp lại những gì họ đã giúp đỡ cho chúng ta trong tiền kiếp. Đây chính là cảnh”phụ từ, tử hiếu”. 
  
Có người lại thắc mắc là tại sao ở đời có người thì đẹp đẻ, còn có kẻ bị tật nguyền? 
  
Trong kinh Thiên Sanh, Đức Phật đã dạy rằng:”Khi còn sanh tiền, thân, khẩu, ý thì thọ điều lành hay gây ra điều dữ. Nếu tạo nghiệp lành, thì cảm thân tốt đẹp; nhân dữ chiêu cảm quả xấu xa, do từ tâm tạo ra rồi tự thọ. Nếu chúng sanh muốn được thân thể tốt đẹp khỏe mạnh để hưởng hạnh phúc, thì phải lấy năm giới cấm làm căn bản”. 
  
Muốn được thân thể khỏe mạnh, sống lâu trong tương lai, thì đừng bao giờ sát sinh. Muốn có giọng nói điều hòa trong trẻo, thì đừng nên vọng ngữ. Muốn thân hình được đoan trang, đẹp đẻ, thì đừng đụng đến việc tà dâm. Muốn gia đình được ấm no thì đừng trộm cắp, gian tham. 
  
Lúc bình sinh, thì thân, khẩu, ý của chúng ta tạo tác lắm điều ác nghiệp, thì quả tương lai chúng ta phải gánh chịu những hậu quả này. Một trong những quả báo nhản tiền là thân thể của chúng ta trở thành xấu xí. Và đôi khi nếu ác nghiệp này thuộc loại nặng, thì chúng ta có thể bị tật nguyền. Còn kẻ kia thì họ biết giữ gìn trì giới, làm lành tránh dữ, thì đời sau chắc chắn họ sẽ được giàu sang phú quý, và thân thể thì xinh đẹp. Nên nhớ rằng chúng ta tạo nghiệp nhân gì thì tự tâm sẽ gìn giữ nghiệp nhân ấy và sẽ chuyển hiện ra quả đời sau. 
 
Con người cũng như mọi vật, sở dĩ có là do nhân duyên hòa hợp. Con người chỉ là một cái tên, là một giả danh để gọi cái kết hợp của ngũ uẩn. Khi đủ nhân duyên chúng nó tập hợp lại thì gọi là sống, khi nó tan rã thì là chết. Chính ngũ uẩn cũng vô thường và không thuần nhất. 
  
 
Vô thường mà tưởng là thường, không ngã mà tưởng là có ngã. Đó là sự si mê lớn nhất của con người và chính do cái si mê này đã làm cho con người đang đau khổ lại càng khổ đau thêm. 
Sau cùng, chúng ta thấy luật nhân quả đóng một vai trò tối quan trọng trong vấn đề sinh tử của con người. Thậy vậy, thân hiện giờ của chúng ta chính là cái quả của nghiệp thân mà mình đã tạo ra từ trườc. Và thân sẽ có sau này là tùy theo sự tạo nghiệp bây giờ. Khi mà đã hiểu như thế, thì cuộc đời của chúng ta hiện tại dầu có khổ đau hay sung sướng thì cũng chỉ là cái quả của cái nhân đời trước mà thôi. Có than khóc hay vui buồn cũng chỉ thế, không thể thay đổi được gì. Có thay đổi chăng là chúng ta phải cố gắng giữ gìn trì giới, phát huy tâm Bồ-đề, tạo dựng thập thiện nghiệp, thì chúng ta đã tạo được cái nhân lành hiện tại. Do đó cái quả tương lai chắc chắn sẽ vô cùng khả quan và viên mãn. 
   Phật dạy rằng: “Niết Bàn là đối với sanh tử mà có, trong tánh Phật, sanh tử đã không, cho nên Niết Bàn cũng như mộng”. 
   “Người phàm phu nhìn nhận tứ đại sắc thân cho là của Ta và tham sống sợ chết thì gọi là ngã tướng. Lòng còn thương ghét, ý chẳng bình đẳng thì gọi là nhân tướng. Niệm tưởng theo cái lòng muốn của phàm phu nó dẫn dắt chẳng cần giải thoát thì gọi là chúng sanh tướng.  Tâm thức chưa diệt trừ, nghiệp chướng thường phát động, chẳng ngộ được cái pháp vô sanh chân không thật tánh thì gọi là thọ giả tướng”. 


30. Kinh Kim Cang Bát Nhã

Kim Cang Bát Nhã Ba-La-Mật Kinh là Kinh nói về “Trí tuệ Phật” (Bát nhã), loại trí tuệ đã tạo thành viên mãn (Ba-La-Mật). Trí tuệ nầy có công năng đưa chúng ta từ bến bờ mê muội của chúng sanh sang bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật.
         
Sau hai mươi năm thuyết pháp về những Chân lý sinh diệt của thế gian, bây giờ Đức Thế Tôn bắt đầu thuyết về Bát nhã và Ngài đã dùng tới hai mươi hai năm để diễn giải về cái trí tuệ quý báu nầy. 
         
Trí tuệ Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc Kim Cương), vừa cứng rắn và cũng vừa sắc bén (như thép). Chính thứ trí tuệ nầy có khả năng phá tiêu núi vô minh vọng chấp và đốn tận gốc rừng phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị hư tổn, giống như là viên Kim cương có thể cắt, chẻ các loại cứng như sắt, đá…. mà không bị hư hại.
         
Điều đặc biệt là Trí tuệ Bát Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mới thành. Mà nó có sẵn trong mỗi chúng sinh từ vô thỉ đến nay. Cho dù chúng ta hiện giờ đang ở địa vị phàm phu thì nó cũng không giảm, hay chúng ta chứng được quả Thánh thì nó cũng không tăng. Nó đã không bị các vô minh phiền não tàn phá, trái lại nó còn phá tan tất cả vô minh phiền não từ vô thỉ đến nay. Vì thế Phật mới dùng “ngọc Kim Cương” để thí dụ “Trí tuệ Bát Nhã” rất quý báu và sẵn có trong tất cả chúng ta, đó là Phật tánh sáng suốt.
         
Kinh Kim Cương Bát Nhã mở đầu bằng câu chuyện:
Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ Hoàn, trong vườn của Thái tử Kỳ đà và Trưởng giả Cấp Cô Độc.
         
Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng Tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khuất thực.
         
Khuất thực xong, Phật và chúng Tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải tọa cụ, ngồi yên tịnh.
         
Đây là những cử chỉ bình thường và rất đơn giản, nhưng đã tạo thành một hình ảnh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần “giải thoát vô trụ”, để mở màn cho Phật nói Kinh Bát Nhã. Người mà ngộ được Kim Cang Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi việc đều thông suốt do đó những việc làm dù là bình thường hằng ngày đều là Phật pháp. Tâm bình thường đó cũng là Phật pháp cho đến đi, đứng, nằm, ngồi… cũng đều là Phật pháp. Trái lại, người chưa nhập được “Kim Cương Bát Nhã’ cho dù họ có luyện được thần thông biến hóa, có thể di sơn đảo hải đi nữa, cũng chỉ là yêu ma ngoại đạo mà thôi.  Nói một cách khác, Kinh Kim Cương Bát Nhã xác nhận là trong mỗi người đều có đủ tất cả các pháp giới. Nếu chúng ta bền chí tu hành lâu dài, thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu chúng ta hướng ngoại mà tìm, vì nghĩ rằng Phật có thần thông biến hóa thì chúng ta cần phải luyện như thế mới phải là Phật thì chúng ta đã đi lầm đường lạc lối.
         
Sở dĩ Phật nói Kinh Kim Cương Bát Nhã là do sự thưa thỉnh của Tôn giả Tu Bồ Đề với ba nội dung chính là: 

1)   Phát bồ đề tâm: có nghĩa là phát tâm tu tập để thành tựu đạo quả vô thượng Bồ-đề. Phạn ngữ A-nậu-đa-la tam-miệu tam-Bồ-đề là vô thượng chánh đẳng chánh giác. A-nậu-đa-la là vô thượng tức là không còn ai cao hơn, tam-miệu là chánh đẳng tức bình đẳng chân chính và tam-Bồ-đề là chánh giác tức là sự giác ngộ hoàn toàn chân chính.

2)   Làm thế nào để hàng phục vọng tâm? Là chế phục tâm xấu. Làm sao có thể chế phục được tham-sân-si? Muốn chế ngự được những ô nhiễm nầy thì cần phải vun trồng giới, định, tuệ. Vì sự quan hệ giữa tham-sân-si và giới, định, tuệ thật hổ tương liên đới. Có nghĩa là có cái nầy thì cái kia phải mất và ngược lại. Thí dụ nếu chúng ta còn tham thì chắc chắn sẽ phá giới. Còn sân, còn nóng giận, còn buồn phiền thì tâm không bao giờ an định được. Còn ham muốn, còn thích cái nầy cái kia, còn chạy theo vật chất phù du thì tâm trí bị ngu si hắc ám tức là không có tỉnh thức, trí tuệ. 

3)   Làm sao để có thể an trụ chơn tâm? Đối với người ngu si thì giới, định, tuệ sẽ biến thành tham-sân-si. Cũng như nước và băng thì cũng thế. Băng chẳng khác nước, nước tức là băng và băng tức là nước. Nói sâu xa hơn thì phiền não tức Bồ-đề hay sanh tử tức Niết bàn. Người trí thì trong phiền não mà họ tìm thấy Bồ-đề và trong sanh tử họ có được Niết bàn. Còn kẻ vô minh thì lấy phiền não, sinh tử làm cứu cánh cho cuộc sống của đời mình. 
Muốn tâm được thanh tịnh để quay về sống với chân tâm, với Phật tánh, với trí tuệ sáng suốt của mình thì chúng sinh phải biết trồng căn lành, gieo giống tốt. Như thế chúng sinh sẽ không còn bốn tướng:

v          Ngã tướng: là thấy có Ta, một thực thể thật trong thế gian vũ trụ nầy.

v          Nhân tướng: là thấy có người. Vì thấy mình là thật nên dĩ nhiên cũng thấy người chung quanh ta là thật.

v          Chúng sinh tướng: thấy mình là thật, thấy người là thật thì sẽ thấy tất cả chúng sinh mọi loài là thật, là chắc chắn muôn đời.

v          Thọ giả tướng: Hễ thấy mình là thật, người là thật, chúng sinh là thật thì không muốn nó bị mất, bị hư hoại theo luật vô thường. Niềm luyến tiếc và hy vọng sống mãi mãi nầy chính là thọ giả. 

Nếu trong tâm chúng sinh còn có tướng tức là hãy còn chấp có mình, có người, có chúng sinh, có thọ giả thì không thể giải thoát được vì không thể chân chánh buông xả. Đây là một lối giải thích thân nầy là giả, không thật. Bởi vì nếu chấp thân mình là thật thì từ đây lòng tham-sân-si sẽ tha hồ phát tác mà tạo ra nghiệp. Biết thân mình là giả thì con người có thể kiềm chế lòng tham, bớt nóng giận, buồn phiền và bỏ bớt sự ham muốn của thế gian. Có buông xả thì tâm mới thanh tịnh. Có càng nhiều thì lo càng lớn và dĩ nhiên đau khổ, buồn phiền cũng vì thế mà tăng theo. Cho nên cổ nhân cũng có câu:”Trọc phú đa ưu” là vậy. 

Phật dạy rằng các vị Bồ Tát khi nhập thế độ sanh làm các Phật sự thì họ phải luôn luôn dùng trí tuệ Bát Nhã để phá trừ các chấp ngã, chấp pháp, không còn thấy bốn tướng, thì phiền não vọng chấp không sanh. Đó là phương pháp “hàng phục vọng tâm”. Nếu Bồ tát còn vô minh phiền não vọng chấp nổi lên thì không phải là Bồ tát, vì chưa nhập được trí tuệ Bát nhã.
         
Nếu Bồ tát làm các Phật sự, như hóa độ chúng sanh, hay bố thí mà tâm còn chấp ngã chấp pháp, thì tâm của họ còn phiền não ô nhiễm. Và nếu đem tâm phiền não ô nhiễm nầy làm các Phật sự (phước thiện) thì các Phật sự đó cũng biến thành ô nhiễm. Trái lại, khi bố thí, nếu Bố tát dùng trí tuệ Bát nhã, phá trừ chấp ngã chấp pháp, có nghĩa là không chấp mình là người bố thí, ban ơn (chấp ngã), người đó là kẻ chịu ơn (chấp nhơn), đây là vật bố thí (chấp pháp), thì các phiền não ô nhiễm không sanh, tâm sẽ được thanh tịnh. Tâm thanh tịnh tức là tâm Phật hay chơn tâm. Nếu đem tâm thanh tịnh mà bố thí thì chúng ta sẽ được phước vô lậu thanh tịnh, rộng lớn như hư không, không cùng tận. Cũng như một giọt nước tuy nhỏ (bố thí ít), nhưng được hòa vào biển cả (tâm tịnh) thì được biến khắp cả biển, rộng rãi bao la. Vì thế Đức Phật lại dạy rằng:”Bồ thí vô tướng và độ sanh vô ngã thì tâm sẽ thanh tịnh”
         
Nói tóm lại, nếu Bồ tát độ sanh hay làm các Phật sự, mà không khởi vọng tâm, chấp ngã chấp pháp thì các phiền não tham, sân, si không sanh. Phiền não không sanh thì không tạo nghiệp. Mà nghiệp không tạo thì không còn sanh tử luân hồi. Vì thế, Phật dạy:”Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức là Đừng để tâm trụ chấp, dính mắc một nơi nào”. Đó là phương pháp “hàng phục vọng tâm” và “an trụ chơn tâm” vậy.
Ngay cả pháp giáo do Đức Phật dạy, như Giới Định Tuệ, như Tứ Diệu Đế, như Lục Độ Bồ tát giới (nhẫn nhục, trì giới, bố thí, tinh tấn, thiền định, trí tuệ) là những giáo pháp giúp chúng ta để đi đến đời sống giải thoát và giác ngộ mà chính những giáo pháp nầy tự nó không phải là giải thoát, giác ngộ. Chất liệu giải thoát giác ngộ là Như Lai, là Minh hành túc và những chất liệu nầy do sự thực hành pháp giáo ấy của Thế Tôn mà thành tựu. Nói một cách khác, Giác ngộ hoàn toàn mới chính là giác ngộ còn tất cả kinh điển đều như ngón tay chỉ mặt trăng. Người xem phải nương theo ngón tay mới thấy được mặt trăng. Nhưng nếu chấp ngón tay (chỉ xem ngón tay) thì không bao giờ thấy được mặt trăng. Cũng như chiếc bè đưa người sang sông, khi sang sông rồi thì không nên mắc kẹt ở nơi chiếc bè, mà hãy buông bỏ chiếc bè để bước lên bờ giác ngộ, tức là không cần kinh điển hay giáo pháp nữa. Không mắc kẹt ở chiếc bè tức là không mắc kẹt ở nơi pháp giáo. 
Vì thế giáo pháp chỉ là ngón tay, là chiếc bè chớ không phải là ánh sáng huyền diệu của mặt trăng, là Chân lý. Con người nương theo giáo pháp mà thấy Chân lý chớ đừng lầm tưởng giáo pháp là Chân lý. 

Đức Phật nói thêm:
”Hãy biết những lời thuyết pháp của Ta ví như chiếc bè. Chánh pháp (Phật pháp) mà còn buông bỏ (không nên chấp) huống gì là không phải là pháp (phi pháp)”.
Ngày nay con người vì quá chấp vào hình thức bề ngoài tức là chấp vào phương tiện mà quên đi cứu cánh là giải thoát giác ngộ. Cứ ôm kinh điển cũng như ôm cứng chiếc bè thì làm sao lên bờ giải thoát được. Vì thế Phật dạy rằng:
“Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. Nhược kiến chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai”.
Tức là tất cả mọi vật thể trên thế gian nầy từ động vật, thực vật, hay khoáng vật mà ngũ quan của con người có thể nhận biết được đều là giả tướng, là hư vọng, là phù du, là hương khói, là không thật. Chỉ khi nào thấy được thật tướng của nó là vô tướng thì chúng sinh mới thấy được Chân lý, thấy được Như Lai.
Làm sao thấy được vô tướng của vạn pháp?

Tất cả vạn pháp trong thế gian hay trong vũ trụ nầy không thể tự nó có được mà phải cần trợ duyên mới thành. Cái thân chúng ta là do đất, nước, gió, lửa, không gian và tâm thức tạo thành. Cái nhà là do gạch, ngói, xi măng, công thợ…mà có. Chén cơm là do hạt giống, đất, nước, ánh sáng mặt trời, công phu người nông phu…tạo nên. Cây muốn sống thì phải có đất, nước…Thế thì không có vật gì mà tự nó lớn lên và tồn tại mà không cần trợ duyên cả. Nếu đã cần trợ duyên thì chính nó không có chủ thể, không có tự tánh tức là vô ngã có nghĩa là Không. Vì thế tuy bề ngoài hình tướng của muôn sinh vạn vật có khác nhau, có lớn có nhỏ, có nặng có nhẹ, có xanh có đỏ, có cao có thấp nhưng thực chất tức là bản thể bên trong vẫn như nhau. Đó là chân không, không hình, không tướng, không sanh, không diệt, không dơ, không sạch. Thì đây mới chính là vô tướng của tất cả vạn pháp vậy. Khi con người còn tùy thuộc vào hình tướng bề ngoài như thấy có nhà cao cửa rộng, xe sang mặc đẹp, danh vọng cao sang thì còn thấy có sự sinh diệt nên còn dính với phiền não khổ đau. Nếu bây giờ không quan trọng những hình tướng bên ngoài tức là tâm không còn dính mắc thì tâm từ từ thanh tịnh để giúp chúng sinh quay về sống với cái trí tuệ sáng suốt hằng có trong ta tức là trí tuệ bát nhã ba-la-mật thì cuộc đời sẽ vô cùng an vui tự tại. 
         
Nếu Như Lai có nói Pháp, tất nhiên phải có chúng sanh nghe pháp. Nếu còn có kẻ nói người nghe, tức nhiên còn ngã, nhơn, bỉ, thử. Mà nếu còn ngã, nhơn thì không phải là thuyết Phật pháp. Bởi thế, mặc dù Đức Phật đã thuyết pháp trong 49 năm, mà rốt cuộc Ngài nói:”Ta không nói một chữ”. Điểm nầy Đức Lão Tử cũng tương đồng, Ngài nói:”Cái “đạo” mà có thể nói được thì không phải thật là đạo. Cái “tên” mà có thể kêu được thì không phải thật là tên”.
         
Một hôm, ông Tu Bồ Đề ngồi yên lặng dưới gốc cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường. 
Ông Tu Bồ Đề hỏi:
-Ai rãi hoa đây?
Trời Đế Thích thưa:
-Con là trời Đế Thích 
-Vì lẽ gì ông tới đây rãi hoa cúng dường?
-Vì tôn giả nói Bát nhã hay quá nên con mới đến cúng dường.
-Từ hồi nào tới giờ tôi chưa từng nói một câu, sao ông lại nói tôi thuyết Bát nhã?
-Tôn giả không nói, tôi không nghe . Không nói, không nghe mới là Bát nhã chân chính.
Trong việc tu hành, chúng ta cũng phải dùng trí tuệ Bát Nhã để phá trừ cái chấp. Có nghĩa là tu mà không chấp mình tu , thế mới thật là tu. Chứng quả, mà không chấp mình chứng quả, thế mới thật là chứng quả. Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của “Kim Cang Bát Nhã”, có nghĩa  là không còn các vọng chấp về ngã và pháp hay bốn tướng, thì mới thật tu và thật chứng.
         
Tâm Bồ Đề là tâm Phật, do đó khi Bồ tát phát tâm Bồ đề, thì họ phải xa lìa tất cả các vô minh vọng chấp: Không có chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, thọ giả, không chấp 6 căn, 6 trần và 6 thức. Nói chung là không chấp ngã chấp pháp.
         
Khi các vọng chấp hết rồi, thì tâm bồ đề, tánh Bát nhã hay Phật tánh hiện ra. Đó là “hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm”. 
         
Một hôm tôn giả Tu Bô-đề bạnh với Phật rằng:
         
- Bạch Thế Tôn! Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác có phải là không có chứng đắc gì cả ư?
         
Phật dạy rằng:
         
-  Đúng thế! đúng thế! Tu Bồ-đề! Ta đối với vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho đến một chút pháp cũng không chứng đắc, ấy gọi là vô thượng chánh đẳng chánh giác.
         
Nếu muốn biết có đắc hay không đắc thì trước hết phải biết rằng mình có mất hay không mất. Nếu nói rằng pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác là một thứ đã từng mất đi tức là thất thì nay mới có thể nói là tìm kiếm lại được tức là đắc. Thật sự chúng ta đâu có mất mát gì bởi vì pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác chính là “bổn tính cố hữu” hay “bản lai diện mục” có sẳn trong chúng ta. Chúng ta không thấy, biết nó là vì bị màng vô minh dày đặc che lấp. Nếu xóa tan được màng vô minh hắc ám ấy thì ánh sáng huyền diệu của chân lý sẽ hiển bày tức là có được vô thượng chánh đẳng chánh giác. Cái trí Bồ-đề nầy lúc nào cũng có sẳn trong ta chứ không phải do bên ngoài đưa vào. 
         
Thêm nữa, Đức Phật nói Ngài không chứng đắc chi cả mà thế gian đều tôn trọng Ngài là vì Như Lai không có tướng ngã, không có tướng nhơn, không có tướng chúng sinh và không có tướng thọ giả. Như Lai nhìn vạn pháp đều bình đẳng không thương, không ghét, không giận không hờn, không thiên không vị. Và đặc biệt là Như Lai luôn sống trong thiện pháp chớ không lọt vào quỷ đạo của ác pháp cho nên người đời gọi Như Lai chứng quả Vô thượng Bồ-đề chớ thật ra Như Lai đâu có chứng đắc gì đâu. Nhưng Như Lai nói không chứng đắc mà thật ra Như Lai có chứng đắc! Cái chứng đắc nầy là vô thực và vô hư tức là không phải thật và cũng không phải là không. Tại sao không mà là thật? Bởi vì cái mà Như Lai chúng đắc thì không có hình tướng, không có màu sắc, không có kích thước, không có văn tự ngôn ngữ để diễn tả. Thế thì cái mà Như Lai chứng đắc là không thật có. Nhưng nếu không thật thì phải là hư? Vậy mà cái chứng đắc của Như Lai lại là vô hư! Tại sao? Bởi vì Như Lai có đầy đủ trí tuệ để nhận thức chân lý hoàn toàn đúng. Đúng theo tự tánh Bồ-đề và tự tánh thanh tịnh Niết bàn của tất cả mọi sự vật hiện tượng. Đúng theo thật tánh của con người, đúng theo Pháp tánh của vạn pháp cho nên Như Lai không bao giờ có vô minh phiền não và tâm luôn thường trụ Niết bàn. Thế thì quả chứng đắc chính là vô hư tức là không phải là không có. Vì thế mà tâm kinh cũng viết:”Sắc tức là không và Không tức là Sắc” nghĩa là Có tức là Không và Không cũng chính là Có vậy. 
         
Ngày nay khi vào chùa gặp các vị Tăng thì làm sao chúng ta biết vị Tăng nào chứng đắc và vị nào chưa chứng đắc?
           
Theo Phật giáo thì chứng đắc là vô thực bởi vì đâu có ai cấp bằng hay chứng chỉ chứng đắc cho ai đâu. Các danh xưng như Thượng tọa, Hòa thượng chỉ là những giả danh dùng để gọi chớ nó đâu có phản ảnh đúng con người thật hay bản tâm của họ được. Vì tu hành là vô cầu vô sở đắc tức là ngay cả chứng đắc cũng không mong cầu thì Thượng tọa, Hòa thượng có xá gì. Nhưng hư vô thì nó sẽ phản ảnh tướng mạo uy nghi đạo đức, tư tưởng chân chính, lời nói hòa nhã và hành động đúng với chân lý. Họ sẽ không còn tánh tham tật đố, không còn tập khí ngã mạn và dĩ nhiên làm việc vì lợi ích cho chúng sinh chớ không mong cầu lợi ích cho riêng mình. Khi quý vị thấy được vị Tăng nào như vậy thì đây chính là người đã chứng đạo. Nên nhớ có vô hư mới thành vô thực được.
         
Sau cùng Phật dạy thêm:  
  
“Này Tu Bồ Đề! Nếu có người nói rằng: Như Lai hoặc là có đến, có đi, có nằm, có ngồi thì họ không hiểu được ý nghĩa của Như Lai. Tại sao? Bởi vì, Như Lai không đến từ đâu và cũng không đi về đâu, nên mới gọi là Như Lai!”. 
         
Như Lai không còn đi đâu, nghĩa là Như Lai vốn là tịch nhiên, các phiền não và vô minh ở trong tâm thức hoàn toàn không còn sinh khởi. Như Lai không còn về đâu, nghĩa là tự tánh giác ngộ của Như Lai là nghiễm nhiên thường tại không bao giờ bị hủy diệt. 
            
Mọi tướng đều là tướng của vọng tưởng. Chư Phật đã buông xã hết thảy vọng tưởng nơi tự tâm, nên đi, đứng, nằm, ngồi, nói, cười, im lặng,  hành xử của Thế Tôn là từ nơi thể tịch diệt tướng mà biễu hiện và từ nơi thể tướng tịch diệt nầy mà chư Phật giáo hóa độ sanh đem lại lợi ích cho tất cả muôn loài. Pháp thân Phật là vô tại vô bất tại tức là chẳng ở mà chẳng không phải ở bởi vì Pháp thân thì trùm khắp mọi nơi. Nếu đã trùm khắp hết tất cả mọi nơi thì làm sao có thể nói là Phật đến hay là Phật đi? Nếu đến thì đến từ đâu và đi thì đi về chỗ nào? Do đó nếu chúng sinh thấu hiểu Phật pháp thì tất cả đâu đâu cũng là Pháp thân Phật, ở đâu cũng có Pháp thân Phật. Còn nếu không thấu hiểu Phật pháp thì cho dù có thấy Như Lai cũng không hề hay biết. Do đó, bất cứ ai tiếp xúc được thực tại vô tướng ở nơi các tướng là tiếp xúc và thấy được Như Lai hay là tiếp xúc và thấy được Chư Phật  ngay trong cuộc sống nầy. 
  
           
Vì thế ngay cả Lục Tổ Huệ Năng cũng thốt lên năm cái không ngờ: 
¨     Nào ngờ tâm mình vốn tự thanh tịnh. 
¨     Nào ngờ tâm mình vốn không sanh diệt. 
¨     Nào ngờ tâm mình vốn tự đầy đủ. 
¨     Nào ngờ tâm mình vốn không dao động. 
¨     Nào ngờ tâm mình hay sanh muôn pháp. 
          
Tóm lại, theo tinh thần Bát Nhã, phải lìa xa tất cả các vô minh, vọng chấp, thì chơn tâm hay Phật tính mới hiện. Đó mới thật là thấy Phật vậy. 
             
Do đó cổ nhân có bài tụng như sau: 
       
Phật tức tâm, tâm tức Phật 
Tâm Phật cả hai đều vọng vật 
Người ngộ vô tâm và vô Phật 
Liền chứng Chơn như Pháp thân Phật 
  
Còn nếu phá được các vọng chấp ngã, chấp pháp : 
Mượn áo tràng bà để lạy bà 
Lễ rồi, áo trả lại cho bà 
Bóng trúc quét sân, trần chẳng động 
Vừng trăng xuyên biển, nước không xao. 
  
 
Nghĩa là:  
 
Bồ-tát độ sanh hay làm các Phật sự mà không thấy việc mình làm, không thấy có mình độ và chúng sinh được độ. Cũng như bóng trúc quét bụi mà không thấy mình quét, ánh sáng của vừng trăng xuyên biển mà không thấy xuyên. Thế thì bụi trần không động và nước cũng dợn. 
          Trước mưa chỉ thấy hoa cùng bướm 
          Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa 
          Hoa rụng bướm xanh qua khỏi vách 
          Vậy ai đã hưởng thú xuân nầy. 
  
Nghĩa là: 
Trước kia chưa dùng trí tuệ Bát nhã (chưa mưa) để phá trừ vô minh vọng chấp thì ngã (bướm) và pháp (hoa) còn lăng xăng trước mắt.  Sau khi dùng trí tuệ Bát nhã mà phá trừ hết vô minh vọng chấp (mưa rồi) thì ngã và pháp đều hết (hoa rụng, bướm bay). Lúc ấy chơn tâm thanh tịnh hay Phật tánh hiện bày. Vậy ai hưởng được cảnh giới nầy. 
Sau cùng Ngài Xuyên Thiền sư có câu: 
Gió cuốn mây đen về biển cả 
Một vầng trăng sáng giữa trời không. 
Nghĩa là: 
Khi các mây vô minh vọng chấp hết thì mặt trăng trí tuệ Bát Nhã hiện ra
 

31. Tứ Diệu đế
 
Trong suốt cuộc đời của Đức Phật Thích Ca, Ngài lúc nào cũng nuôi một hoài bảo là làm thế nào để cứu chúng sinh ra khỏi cuộc đời đau khổ. Với tâm niệm này, Ngài đã hy sinh 11 năm của cuộc đời son trẻ để tìm mọi phương cách tu học ngõ hầu có thể đạt đến cứu cánh nầy. Mặc dù mang một ý chí sắt đá, cũng như trải qua không biết bao nhiêu là gian khổ, cuối cùng Ngài đã đạt thành chánh quả và trở thành Phật Thích Ca Mâu-ni. Trong giờ phút lịch sử của đêm mùng 8 tháng chạp đó, Ngài đã liên tiếp chứng được Túc mệnh minh, Thiên nhãn minh, và Lậu tận minh. Chính Lậu tận minh này đã giúp Ngài thấu hiểu nguồn gốc của tất cả những sự khổ đau và phương pháp diệt trừ những đau khổ này đề tìm ra chân hạnh phúc. Mặc dù giáo lý của Ngài thì cao siêu, thâm diệu, còn căn cơ của phần lớn chúng sinh thì thấp kém không thể nào lãnh hội những giáo lý đó dễ dàng được. Nhưng không vì thế mà Ngài không làm tròn trách nhiệm cao cả là hóa độ chúng sanh để dìu dắt họ ra khỏi bể khổ trầm luân và cuối cùng nắm tay đưa họ lên bờ giác ngộ. 
  
 
Việc đầu tiên sau khi đắc đạo là Ngài tìm đến hai vị thiền sư đã dạy Ngài thủa trước với thiện tâm là đem chân lý mà Ngài vừa mới đạt để truyền cho họ, nhưng tiếc thay họ đã quy thiên. Không nản chí, Ngài liền tìm đến vườn Lộc Uyển (Deer Park) để thuyết pháp cho 5 người bạn đồng tu ngày nọ. Nhóm ông Kiều Trần Như sau khi nghe Ngài thuyết giảng về Tứ Diệu Đế thì tất cả đều khai ngộ và tất cả đều chứng được quả vị A-la-hán và đây chính là 5 vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật. Tứ Diệu Đế kể từ đó được xem là giáo lý căn bản của Phật giáo dùng để giác ngộ không biết bao nhiêu chúng sinh cho tới ngày nay. 
  
Nếu chúng ta muốn có một kết quả chắc chắn, thì Tứ Diệu Đế là cứu cánh của chúng ta. Pháp môn này, tuy tiến chậm, nhưng khi đạt được bước nào là chắc chắn bước nấy. Nó được xem là nền tảng căn bản trong giáo lý của Đức Phật, bởi vì nếu không thông hiểu nó thì khó lòng mà đạt được những bước cao hơn. Vì tính chất căn bản đó, Tứ Diệu Đế chỉ có thể đưa con người đến quả vị A-la-hán là tối đa. Nhưng một khi đã vượt ra khỏi Lục đạo Luân hồi, cộng thêm với sự tinh tấn và quyết tâm tu hành thêm những pháp môn khác, thì cõi Bồ-tát cũng như cõi Phật cũng không còn xa mấy. 
Vậy thế nào là Tứ Diệu Đế?
         
Tứ là bốn, Diệu là đẹp, là toàn hảo, Đế là sự thật chắc chắn và rõ ràng đứng đắn nhất. Vậy Tứ Diệu Đế là bốn sự thật chắc chắn và toàn hảo nhất. Đức Phật đã cẩn thận chia chân lý nầy ra làn bốn đoạn: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế. Nhưng tại sao lại phải phân chia ra như vậy? Ngài có dụng ý gì trong vấn đề dạy dổ chúng sinh?
       
1) Khổ đế (Dukkha) (Suffering): Trong cuộc sống của chúng ta, không một ai là không biết khổ. Đói cũng khổ, no cũng khổ, trẻ thì khổ theo trẻ, còn già thì khổ theo già. Độc thân có cái khổ của những kẻ cô đơn, còn người lập gia đình thì có cái khổ của kẻ thành gia thất. Sinh khổ, tử khổ, bịnh khổ, lão khổ, và cuối cùng đến chết cũng chưa hết khổ. Bởi thế, nếu mà kể hết những nỗi khổ trên thế gian nầy, thì biết chừng nào mà nói cho xong. Do đó, Đức Phật đã gọi thế gian là biển khổ và chúng sinh thì đang lặn hụp trong biển trầm luân này.
       
2) Tập đế ( Sameda dukkha) ( Arising of Suffering): Sau khi cho chúng sinh biết đời là biển khổ, thì bước kế tiếp mà Đức Phật muốn cho chúng ta thấu hiểu là nguyên nhân nào đã tạo ra những nỗi khổ ở trên. Bất cứ nỗi khổ nào trên thế gian cũng có nguyên nhân phát sinh ra nó và tìm ra những nguyên nhân đó là toàn bộ nội dung của phần Tập đế này.
       
3) Diệt đế (Nirodha Dukkha) (Cessation of Suffering): Đã biết đời là khổ và chúng ta cũng đã biết lý do mang đến sự đau khổ này thì bây giờ Đức Phật lại chỉ chúng ta làm thế nào để tận diệt những nỗi khổ này đi. Cuộc đời của chúng ta cũng chẳng khác nào như đồng tiền hai mặt, một bên thì chúng ta phải đối diện với đau khổ, những đen tối của cuộc đời, còn mặt kia thì huy hoàng sáng lạng bởi vì một khi đã tận diệt được những khổ đau rồi thì trong chúng ta Niết Bàn sẽ từ từ hiện ra. Đây chính là chân hạnh phúc ở thế gian nầy vậy.
       
4) Đạo đế (Nirodha Gamadukkha) (The Noble Path): Muốn đạt được chân hạnh phúc này, chúng ta phải theo một số phương pháp để diệt trừ mọi đau khổ. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của Tứ Diệu Đế bởi vì chúng ta một khi đã chán ngán những cảnh khổ đau trên trần thế nầy và đã hiểu rõ nguồn căn của sự khổ đau thì chúng ta tha thiết mong sao được giải thoát khỏi cảnh khổ để đạt đến một cảnh an vui tốt đẹp nhất. Nhưng nếu chúng ta không có phương pháp hiệu nghiệm để thực hiện ý muốn này thì những hiểu biết và mong muốn kia sẽ trở thành vô nghĩa và dĩ nhiên là chúng ta sẽ khổ đau thêm.
       
Trong phần Đạo đế, ngoài Ngũ Căn, Ngũ Lực, còn có Thất Bồ-đề và sau cùng là Bát Chánh Đạo có thể giúp chúng ta đạt đến mục tiêu tối hậu là chứng được Niết Bàn cũng như đạt đến quả vị A-la-hán. Chính quả vị A-la-hán này sẽ bảo đảm chúng sinh thoát ra khỏi lục đao luân hồi và từ đấy con người sẽ không còn lo lắng về sự sinh tử nữa. Cứu cánh của người tu Phật là phải hiểu nguồn căn gốc rễ của các chân lý nầy. Tại vì sao? Khi chúng ta muốn tu Phật, trước nhất là chúng ta muốn tạo cuộc sống hiện tiền thêm phần ý nghĩa. Chữ ý nghĩa ở đây là không phải là thêm giàu thêm của mà là phải noi theo đạo pháp để biến cuộc sống này thành an vui, tự tại. Biết dùng trí tuệ để khắc chế tham, sân, si và cuối cùng dùng lòng từ bi để mang hạnh phúc cho mọi người tức là tự đem hạnh phúc cho chính mình vậy. 

Sau cùng, Đức Phật chứng minh cho chúng ta là Ngài đã làm tròn nhiệm vụ của kẻ dẫn đường để đưa chúng ta đi từ cõi đời đau khổ đến một cảnh giới an vui tự tại. Vâng, chính Ngài đã đặt vào tay của chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và những phương tiện cần thiết để chúng ta có thể đạt được mục đích này. 

Trên đây là phần khái lược của Tứ Diệu Đế để giúp chúng sinh có một ý niệm tổng quát về những điều mà Đức Phật muốn dạy cho chúng ta.  


32. Khổ đế
(Dukkha) (Suffering)

Trong cuộc sống càng khoa học văn minh tiến bộ, thì con người càng lệ thuộc vào vật chất. Vì muốn được thỏa mãn những nhu cầu này thì thân của chúng ta phải chuốc lấy bao nỗi đắng cay và tâm thì lùc nào cũng bồn chồn lo lắng. Nỗi vui chưa đến mà sự buồn đã hiện ra. Nhìn trong nhà không có gì thì tủi khổ, mà cố làm đêm làm ngày để có cái gì thì lại khổ thân. Mong muốn được giàu sang thì lại khổ trí, mà hãy giàu có thì sợ trộm cướp đến hỏi thăm thành thử lại khổ tâm. Bởi thế, Khế kinh có câu:”Nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển”. Thật vậy, sự đau khổ của chúng sinh thì không thể nào mà nói hết cho được. Nỗi khổ này chưa tan, thì nỗi khổ khác lại đến. Nhưng dựa vào kinh Phật, thì tất cả những cái khổ trên thế gian nầy có thể chia làm ba loại và nó có tên là “tam khổ”.
 
Vậy thế nào là tam khổ?
Tam khổ là nói về ba thứ khổ: khổ khổ, hoại khổ và hạnh khổ.

1)   Khổ khổ (dukkha dukkhata) (the suffering of suffering): là cái khổ này chồng lên cái khổ nọ. Tấm thân của chúng ta tự nó cũng đã khổ, mà hoàn cảnh chung quanh lại mang đến cho chúng ta không biết bao nhiêu nỗi khổ khác. Thử nhìn lại cái tấm thân tứ đại của chúng ta, nếu trong vài ngày mà chúng ta khong tắm rửa, thì thử hỏi có ai dám đến gần chúng ta không? Khi đi vượt biên mà mấy ngày không có giọt nước, hoặc là bị té xe, bị bể đầu, thì cái mạng của chúng ta có còn bảo đảm được chăng?
Đã gánh bao khổ đau bởi vì sự sống chết bất ngờ mà chính mình không làm chủ được. Con người của chúng ta lại phải mang thêm những đau khổ chất chồng khác, chẳng hạn như đau răng, bệnh tật, đói khát, khổ vì gia đình và dĩ nhiên cũng khổ vì con cái… 

2)   Hoại khổ (samskara dukkhata) (the suffering of composite things): là mọị vật trong thế gian này đều bị chi phối bởi luật vô thường, có nghĩa là không có gì là bất biến, cố định mãi mãi. Có sinh tất phải có diệt, có kết tụ tất có phân ly. Bởi thế, trong Khế kinh cũng có ghi: “Phàm vật có hình tướng đều phải bị hủy diệt”, hoặc là:”All formations are impermanent; therefore, whatever comes together eventually has to come apart.
Thật vậy, không có một cái gì mà tồn tại mãi mãi được. Chẳng hạn to lớn như mặt trời, mặt trăng, thì một ngày nào đó cũng tan theo cát bụi. Còn vật nhỏ bé như tấm thân của chúng ta, thì cái mạng sống lại càng ngắn ngủi, phù du. Dù trong cuộc sống này, chúng ta có giàu sang, phú quý, cũng không cách nào giữ nổi cho thời gian oan nghiệt đừng tàn phá thân thể và hủy diệt đời ta, Thế mới biết thời gian tạo ra lắm điều đau khổ.

3) Hạnh khổ (viparinama) (the suffering associated with change): Mỗi khi luc căn (six sense organs) tiếp xúc với lục trần (six sense objects), thì tư tưởng sẽ được phát sinh và do đó tâm hồn của chúng ta không thể nào yên ổn cho được. Tư tưởng càng phát sinh, thì tâm tư càng quay cuồng và dĩ nhiên dục vọng cũng theo đó  mà dẫn chúng ta đi lên đi xuống để tạo nên nghiệp báo. Thật vậy, chúng ta càng nghĩ ngợi, thì tâm tư càng bấn loạn. Càng tiếp xúc với ngoại cảnh, thì cái Ta càng si mê và chính sự si mê này đã đè ép chúng ta, bắt chúng ta phải làm nô lệ cho chúng để thỏa mãn những dục vọng mà chúng đã tạo nên. Tư tưởng của chúng ta thì biến chuyển không ngừng. Chúng nhảy vọt từ chuyện này sang chuyện khác, chẳng khác nào như con ngựa không cương, như con vượn chuyền cây, không bao giờ dừng nghĩ. Bởi thế, Phật mới dạy rằng:”Tâm viên, mã ý”.

Mặc dù tất cả những cái khổ trên thế gian này được gom lại thành tam khổ, nhưng đây chỉ là nói một cách tổng quát mà thôi. Bởi vì khổ thì có nhiều cách khổ, nhưng cái khổ này thì không giống cái khổ kia được. Vì mỗi cái khổ mang đặc tính riêng tư của nó, nên chúng ta có thể đem tất cả cái khổ trên đời nầy chia ra làm tám loại và gọi nó là “bát khổ”. Bát khổ thì gồm có: sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm thạnh khổ.

1)   Sanh khổ: Khi chúng ta còn là thai nhi trong bào thai của người mẹ, thì tình thức đã được phát sinh trong ta và cũng bởi cái tình thức này mà thai nhi có thể thu nhận những cử động cảm xúc. Trong 9 tháng 10 ngày, thai nhi bị giam hãm trong cảnh tối tăm, chật hẹp, thì làm sao mà gọi là sung sướng cho được. Đó là chưa kể khi người mẹ ăn thức nóng vào, thì thai nhi cảm thấy như bị ai nung đốt. Còn khi người mẹ ăn thức lạnh vào, thì thai nhi cảm thấy như đang ở trong băng giá. Mẹ ăn no, thì con bị ép khó bề cựa quậy. Còn mẹ đói khát, thì con long bong lều bều như bay bổng trong không. Đến kỳ sanh sản, thai nhi phải lòn qua ép lại, đau đớn khôn cùng, cho nên khi vừa thoát ra ngoài, thì vội cất tiếng khóc ngay. Bởi mới sinh ra mà đã nếm mùi đau khổ, nên cổ nhân đã có câu:
“Thảo nào lúc mới chôn nhau,
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra”.

2)   Lão khổ: Phàm là con người, thì không một ai có thể thoát khỏi sự chi phối của luật vô thường. Lúc sinh ra, đến khi lớn lên, rồi cũng phải đến lúc già nua. Khi còn trẻ thì tráng kiện bao nhiêu, bây giờ lúc về chiều, thì tinh thần suy kém, thân thể hao mòn, nên phải khổ cả về thân xác lẫn tinh thần. Cho nên:
“Già nua là cảnh điêu tàn,
Cây già cây cổi, người già người si”.
Con người khi mà đã già yếu, thì mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run, ăn chẳng biết ngon, ngủ không thẳng giấc, trí nhớ thì lu mờ, cộng thêm da nhăn, răng rụng. Do đó:
“Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa,
Một thân khô kiệt nghĩ buồn tênh”.
Thêm nữa, càng già thân thể càng suy yếu, thì trí tuệ cũng bị lu mờ, nên mới sanh ra lú lẫn, nhớ trước quên sau, tinh thần không minh mẫn nên sanh ra chưởi bới lung tung. Thật là quá đau khổ.

3)   Bệnh khổ: Hễ có thân là có bịnh. Mà đã là bệnh, thì cho dù là bệnh nhẹ như đau răng, đau bụng, nhức đầu… còn bệnh nặng như đau gan, đau thận, ung thư…Thảm hại hơn nữa, còn có nhiều căn bệnh ngặt nghèo làm cho bệnh nhân sống dở chết dở. Sống thì đau đớn từng cơn, còn muốn chết thì cũng không thành ước nguyện. Nhớ ngày xưa ở quê nhà, có người sau một trận đau, phải bán nhà trả nợ, đó là chưa kể hễ một khi trong nhà có người đau thì cả gia đình buồn rầu, lo sợ.

4)   Tử khổ: Phàm là con người, thì ai ai cũng tham sống sợ chết. Những người giàu sang, sung sướng, thì họ sợ chết không nói làm chi còn những kẻ sống khổ cực, khốn cùng, đầu tắt mặt tối, mà họ lại càng không muốn diện kiến với Diêm vương. Oái oăm thay, những kẻ vướng lấy những bịnh nan y, hiểm nghèo, mà họ luôn luôn bám víu lấy sự sống và từ chối không muốn gặp gỡ tử thần.
Nhưng ”Nhân sinh tự cổ thùy vô tử?” và câu trả lời vẫn là không. Dầu muốn, dầu không, chưa có một người nào trên thế gian này đã thoát khỏi bàn tay lông lá của tử thần cả.
Người sắp chết, thì tấm thân bấn loạn, nỗi lo cho gia đình con cái thiếu người chăm sóc, nỗi lo cho thân mình đi vào một thế giới cô đơn, vắng lạnh, tương lai thì mù mịt, đen tối. Tâm thì sợ hãi, còn thân thì đau đớn. Trước khi chết, mắt thì trợn ngược, gân thì giựt, bẻ tay, bẻ chân, trông thật đau khổ vô cùng. Khi mà nhắm mắt xuôi tay, thì thân thể cứng đơ, lạnh ngắt. Thế thì chết là khổ.

5)   Ái biệt ly khổ: Không gì đau khổ cho bằng xa cách người mình thân yêu. Còn nhớ sau chiến cuộc 1975, hàng trăm ngàn người đã bỏ nước ra đi, để lại biết bao vợ, con, thân bằng quyến thuộc bên kia bờ đại dương. Chiến tranh đã tạo ra cảnh kẻ bên nầy trông đợi, người bên kia nhớ chờ. Thật là đau lòng xót dạ, bởi thế có người phải thốt rằng:”Thà tử biệt chớ ai nỡ sanh ly”. 
Nhưng có chắc là tử biệt đỡ hơn sanh ly hay không?
Thủa còn ở quê nhà, chiến tranh đã vô tình cướp đi đời sống của những người trai trẻ và để lại rất nhiều cảnh tang tóc thương tâm như những góa phụ bồng con thơ ra thăm mộ chồng. Nếu người nằm xuống mà có ngày trở lại, thì dù có đợi 5 hay 10 năm thì vẫn còn hạnh phúc hơn là ngàn năm vĩnh biệt. Vậy sanh ly hay tử biệt cũng đều chung số phận khổ đau mà thôi.

6)   Cầu bất đắc khổ: Ở đời, hể trèo cao thì té nặng. Hy vọng càng cao, thì thất vọng càng nhiều. Nhưng phàm là con người, thì lúc nào chúng ta cũng muốn làm cái nầy, đoạt cái nọ. Có cái dễ dàng thì chóng thành công, còn cái khó khăn thì chúng ta thất bại. Nghèo thì ta muốn được giàu, xấu thì ta muốn đẹp, ngu si thì muốn thành thông thái, chưa con thì muốn có con. Nhưng thông thường danh vọng vẫn là miếng mồi ngon mà con người thường hay đeo đuổi. Dầu cho cố gắng bằng mọi khả năng, tài trí, dù chánh đáng hay bằng thủ đoạn lưu manh, biết bao anh hùng đã lụy về bả công danh này. Vì thế mà người xưa đã mỉa mai bằng câu:
“Gót danh lợi, bùn pha sắc xám,
Mặt phong trần nắng nám mùi dâu”.
Những người thất vọng về công danh đã nhiều, mà lắm kẻ thất bại về phú quý cũng không phải nhỏ. Muốn làm giàu, nhiều kẻ bất chấp mọi thủ đoạn đê hèn, thâm độc; nay bày chước này, mai vẽ mưu kia miễn sao cho túi được mau đầy. Nếu không may bị bại lộ, thân thì lao tù, còn tài sản bị tịch thu. Còn khổ nào bằng!
Công danh đã khổ, phú quý thì chẳng dễ gì, vậy còn tình duyên thì thế nào?
Tình yêu! Ôi tình yêu!  Tình yêu ở xa như là hạt kim cương, mà đến gần là giọt nước mắt. Trong trường tình ái, thử hỏi có mấy ai được toại nguyện? Ngay cả nhà thơ Hàn Mạc Tử còn phải than thở rằng:
“Người đi một nữa hồn tôi mất,
Một nữa hồn kia bỗng dại khờ” 
  
7)   Oán tắng hội khổ: Thói thường, chúng ta đau khổ khi phải xa lìa người thương yêu, nhưng oái oăm thay, chúng ta chẳng sung sướng gì khi phải chung sống với người mình không ưa, không 
thích. Thật vậy, chính cổ nhân cũng nói:
“Thấy mặt kẻ thù, như kim đâm vào mắt, 
Ở chung với người nghịch, như nếm mật nằm gai”
Khi đã sanh lòng thù nghịch nhau, mà phải sống bên cạnh nhau, thì cũng có ngày xảy ra đại họa.

8)   Ngũ ấm thạnh khổ: Ngũ ấm hay còn được gọi là ngũ uẩn, có nghĩ là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Sắc thì thuộc về thân; còn thọ, tưởng, hành, thức thì thuộc về tâm. Chúng ta đã thấy thân thì khổ vì sinh, lão, bịnh, tử, đói, khát, nóng, lạnh, còn tâm thì giận, buồn, trăm điều phiền lụy. Thân thì vô thường, còn tâm thì vô ngã cho nên ngũ ấm biến đổi quay cuồng làm cho chúng ta đã đau khổ càng thêm khổ đau.
Để cho dễ nhớ chúng ta tạm chia bát khổ làm ba phần là:
·       Khổ về Thân thì có: Sinh, Lão, Bịnh, Tử.
·       Khổ về Tâm thì có: Ái biệt ly khổ, Oán tắng hội khổ, Cầu bất đắc khổ.
·       Khổ cả Thân và Tâm: Ngũ uẩn thạnh khổ.
Trên đây là phần đại cương của bát khổ mà Đức Phật đã đưa ra trong phần Khổ đế. Không phải Đức Phật nói những cái khổ này để chúng sinh tăng thêm nỗi khổ, hay là:
“Thôi thà đừng biết cho xong, 
Biết bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu”dễ nhớ 
Hoặc là:
“Chuyện đời thấy vậy thì hay vậy,
Thà ẩn non cao chẳng biết nghe”.
Nhưng chính Đức Phật muốn cho chúng ta biết rõ những nỗi khổ ở trần gian để biết cách đối phó khi phải đối diện với nó và sau cùng là phải tìm phương pháp nào để tiêu diệt tất cả những cái khổ đả mang lại sự phiền não cho chúng ta bao nhiêu đời bao nhiêu kiếp để xây dựng lại một cuộc sống an vui, tự tại. 


33. Tập đế 
(Sameda Dukkha) (Arising of Suffering)
       
Trong phần Khổ đế, Đức Phật đã cho chúng ta thấy tất cả mọi nỗi khổ trên cõi đời này. Nhưng khác hẳn với triết lý Khổng Mạnh là:”Hữu thân hữu khổ, vô khổ bất thành thân”. Giáo lý của Đức Phật không dạy cho con người muốn trở thành người hữu dụng thì phải chấp nhận chịu khổ và rèn luyện con người trong cảnh khổ để đạt một tương lai sáng rạng. Ở đây Đức Phật muốn cho chúng ta biết đâu là nỗi khổ dầu ở giai cấp nào vẫn lãnh chịu cái khổ như thường. Nghèo thì có nỗi khổ của nghèo, còn giàu sang thì có cái nhức đầu của kẻ phú quý. 
       
Cái khổ nó gắn liến với cuộc sống của chúng ta từ lúc còn trong bụng mẹ cho đến khi chúng ta lìa bỏ cõi đời này. Nhưng không phải khi thấy đời toàn là khổ ải thì chúng ta than trời trách đất, nhậu nhẹt say sưa để quên đi tất cả những nỗi khổ bởi vì càng say thì càng khổ không ích lợi gì. Muốn hết khổ, thì phải tận diệt nó. Nhưng làm sao mà có thể diệt trừ chúng nếu chúng ta không hiểu rõ nguyên nhân nào sinh ra cái khổ. Đây chính là giai đoạn thứ hai mà Đức Phật đã chỉ dạy cho chúng sinh. Vậy Tập đế là bước thứ nhì trong bộ Tứ Diệu Đế cốt tìm nguyên nhân phát sinh ra sự khổ đau.
         
Vậy thế nào là Tập đế?

Tập: là chứa và dồn thêm mỗi ngày một nhiều hơn còn Đế là sự thật vững chắc.
         
Như thế, Tập đế là sự thật vững chắc nói về nguyên nhân của những nỗi khổ đã tích lũy lâu đời, lâu kiếp trong mọi chúng sinh và đây chính là cội rễ của sanh tử luân hồi.
         
Khi Lục căn tiếp xúc với Lục trần thì tâm chúng ta phát sinh ra vọng tưởng. Chính những vọng tưởng này đã gieo vào tâm ta không biết bao nhiêu là phiền não. Đức Phật đã đem tất cả những phiền não này gom lại thành 10 cái chính: tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biến kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.

1)   Tham: có nghĩa là tham lam. Tham là một động lực vô cùng quan trọng bởi vì chính nó là nguyên nhân mà ta phải làm đủ mọi cách để thỏa mãn sự ưa thích của nó. Những thứ như tiền tài, danh lợi, vật chất cao sang, cao lương mỹ vị..là những cội nguồn phát sinh ra lòng tham. Một khi lòng tham đã nổi dậy, thì con người bất chấp mọi thủ đoạn, bày ra trăm mưu ngàn kế để thỏa mãn những dục vọng đó. Mà đã nói tới lòng tham, thì không thể bỏ sót một điều nữa là lòng tham thì vô đáy, thâu góp bao nhiêu cũng không vừa. Có một thì muốn mười, có mười thì muốn trăm. Tham cho mình chưa đủ, còn tham cho cả thân bằng quyến thuộc. Cũng vì tham, mà gia đạo bất hòa và  cũng vì tham, mà nhân loại giết hại lẫn nhau. Nhiều người khi thấy lợi nhỏ thì không tham, nhưng khi thấy lợi lớn thì cũng tối mắt như thường.

2)   Sân: có nghĩa là nóng giận. Khi dục vọng của con người phát sinh thì lòng tham nổi lên, mà nếu chúng ta không thỏa mãn được những tham vọng này thì lòng sân sẽ nổi dậy. Một khi sân đã nổi lên, thì chúng ta trở thành điên cuồng, nói năng hung dữ, mặt mày bừng bừng sát khí. Bởi vì sân làm cho con người mất đi nhân tính nên họ có thể làm bất cứ việc gì trong những giây phút đó. Chính cũng vì cái sân này mà đã làm cho bao người tán gia bại sản, thân danh bại liệt, vào tù ra khám, thân xác tật nguyền, đau đớn. Vì thấy sự nguy hại của nó, mà kinh Hoa Nghiêm nói rằng:” Nhất niệm sanh tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”, có nghĩa là một ý niệm sân hận nổi lên thì cũng như là mở ra trăm ngàn cái nghiệp chướng. Còn đối với người tu Phật, thì cái sân còn tai hại biết bao bởi thế kinh Phật còn chép thêm:”Nhất tinh chi hỏa, năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”, tạm dịch là một đóm lửa giận, có thể đốt hết muôn mẫu rừng công đức.

3)   Si: có nghĩa là si mê, mờ ám. Si chẳng khác nào như là một đám mây đen che lấp lên trên đỉnh trí tuệ của con người. Nếu trí tuệ không còn minh mẫn thì ta đâu còn phân biệt giữa tốt và xấu, chánh với tà và đây là nguyên nhân chính để chúng ta tạo ra lắm điều ác nghiệp. Cũng chính vì si mê mà lòng tham trở thành không đáy. Nhưng nếu trí tuệ của chúng ta còn sáng suốt để thấy cái tai hại của lòng tham thì chúng ta có thể kìm hảm cái tham đó được chứ đâu có nhắm mắt mà làm nô lệ cho nó và để cho nó tự do hoành hành thao túng. Cũng vì si mà lửa sân có cơ hội bừng cháy. Nếu chúng ta còn sáng suốt, thì khi nào chúng ta lại để cho sân tha hồ tung hoành như vậy! Bởi sự quan trọng của chữ si, nên kinh Phật cũng dạy thêm:”Bất uy tham sân khởi, duy khung tự giác trì” có nghĩa là không sợ tham và sân, mà chỉ sợ si mê. Thật vậy, bởi vì một khi tham, sân vừa nổi lên mà chúng ta có đủ trí tuệ sáng suốt để ngăn chận chúng kịp thời thì tham, sân cũng chẳng làm gì được. Giống như khi có ánh sáng mặt trời bừng lên thì bóng tối tất nhiên phải tự tan biến.
Vì sự tai hại trầm trọng của tham, sân, si, cho nên Đức Phật đã gọi chúng là “tam độc”. Chính cái tam độc này cũng còn được gọi là các  căn bản bất thiện bởi vì nó là cội ngưồn để sinh ra ác nghiệp và đưa đẩy con người lún sâu vào sinh tử luân hồi.

4)   Mạn: có nghĩa là ngạo mạn. Khi một người không có đức độ, thuộc hạng tham danh háo sắc, thường phát sinh trong tư tưởng của họ những dục tính như tự nâng mình lên cao và hạ người khác xuống. Họ tự cho mình là quan trọng mà khinh rẽ mọi người. Lúc nào họ cũng tự cao, tự đại, dương dương tự đắc, mục hạ vô nhân, hổn láo với người trên và khinh mạc kẻ dưới.
Vì mang bản tính ngạo mạn như thế nên không ai nói mà họ nghe cho dù là lời hay lẽ thiệt. Do đó họ đã làm nhiều điều sai quấy tạo ra ác nghiệp và dĩ nhiên là trầm luân trong lục đạo luân hồi.

5)   Nghi: có nghĩa là nghi ngờ, không có lòng tin. Những người có lòng nghi ngờ thì khó mà thành công được. Bởi vì từ việc nhỏ đến việc lớn, họ lúc nào cũng không tin tưởng ai cả. Mà một khi đã không tin tưởng, thì không nhất tâm làm việc và như thế làm sao tạo kết quả tốt được. Những người có lòng nghi hoặc là loại người thiếu chân thật và không áp dụng trí tuệ một cách sáng suốt để phân biệt ai là chánh, ai là tà, hoặc đâu là tốt, đâu là xấu. Với tính nghi kỵ này sẽ làm cho người chung quanh của ta bực bội, không thành thật đối đãi với ta và dĩ nhiên tự ta chuốc lấy thêm đau khổ.

6)   Thân kiến:  nhìn nhận cái thân tứ đại là trường tồn bất biến. Vì không thông hiểu luật vô thường, vô ngã nên chúng ta nghĩ rằng trong ta có một cái Ta riêng biệt, chắc chắn và không biến đổi. Bởi vì nó là cái Ta riêng của chính ta, không dính dấp tới người khác nên chúng ta tìm mọi cách để thỏa mãn bất cứ những gì mà cái Ta thích. Chúng ta xây nhà cao cho cái Ta ở, sắm xe đẹp cho cái Ta hưởng thụ, mua món ngon vật lạ cho cái Ta dùng, tranh công dành chức cho cái Ta hãnh diện. Do sự quý trọng và cung phụng cho cái Ta như thế mà chúng ta đã tạo ra không biết bao nhiêu điều tội lỗi, chà đạp lên bao nhiêu cái Ta khác và làm cho họ đau khổ cũng vì cái Ta của ta.

7)   Biện kiến: có nghĩa là lý luận một chiều. Đây là nói về những người có lý luận độc đoán. Họ nghĩ rằng lý luận của họ là đúng nhất bất chấp là lý luận ấy thực sự có đúng hay không. Có hai loại biện kiến thường thấy là:

a)   Thường kiến: là họ lý luận rằng khi chết rồi, cái Ta  vẫn còn tồn tại mãi mãi. Người chết sẽ sanh ra người, còn súc vật chết sẽ trở lại làm súc vật và thánh nhân chết sẽ trở lại làm thánh nhân. Vì tin tưởng như vậy, nên đối với họ, có tu hay không tu cũng như nhau. Họ không sợ tội ác, nên chẳng cần làm thiện. 

b)    Đoạn kiến: đối với nhóm nầy, thì họ nghĩ rằng chết là hết. Một khi chúng ta tắt thở, nhắm mắt xuôi tay thì không còn gì tồn tại nữa. Lúc đó tội cũng không mà phước cũng chẳng còn. Họ luôn luôn tâm niệm rằng:”Tu nhơn đức già đời cũng chết, hung hăng bạo ngược tận số cũng chẳng còn”. Vì tin tưởng như thế, nên luật nhân quả luân hồi đối với họ không còn ý nghĩa gì cả thành thử họ mặc tình làm điều tội lỗi.

8)   Kiến thủ: có nghĩa là cố chấp. Vì chúng ta là phàm phu nên trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta có những hành vi sai quấy và có những ý kiến sai lầm. Nhưng vì cố chấp, chúng ta không dùng trí tuệ sáng suốt để phân minh, mà cứ bảo thủ hành vi, ý kiến của mình. Chúng ta tự cho mình là hay, là giỏi và những người này dễ bị đụng chạm tự ái. Cũng chính bởi tính bướng bỉnh cứng đầu này mà họ đã gây ra nhiều đau khổ.

9)   Giới cấm thủ: có nghĩa là làm theo lời răn cấm của những tà giáo. Những giáo điều này đôi khi thật là vô lý, mê muội nhưng vẫn làm cho một số người lầm tưởng đó là con đường giải thoát cho họ. Chân lý của Đức Phật là phá mê khai ngộ. Nếu dựa vào chân lý này thì người tu sẽ phát sinh ra trí tuệ và trí tuệ là những tia sáng mặt trời để đốt tan những bóng đen mê muội ngõ hầu giúp chúng ta phân biệt đâu là chính, đâu là tà.

10)Tà kiến: có nghĩa là nghe theo tà giáo để làm những việc không chánh đáng và trái với luật nhân quả. Những người có tà kiến thì thường tin vào mê tín dị đoan chẳng hạn như xin xăm, bói quẻ, coi sao, cúng hạn. Mê tín dị đoan và giáo lý nhà Phật không thể nào đồng hóa nhau được. Tại sao? Phật giáo thì lúc nào cũng chủ trương là cuộc đời của chúng ta luôn luôn gắn liền với nghiệp căn và nghiệp quả. Chúng ta là kết quả của căn nghiệp mà chúng ta đã tạo nên. Thành thử xin xăm, bói quẻ hay coi sao, cúng hạn cũng không thay đổi được nghiệp quả mà chúng ta đã tạo ra. 
   
Thử ngẫm nghĩ như thế này: nếu những người bói quẻ, cúng sao có thể thay đổi được số mệnh cho họ thì chính họ đã có cuộc sống sung sướng giàu sang. Do đó họ phải ở nhà lo hưởng thụ chớ ngu gì phải đi ngồi đầu đường xó chợ để kiếm từng đồng, từng cắc. Chính họ mà còn không thể giúp cho họ được thì làm sao họ có thể giúp cho chúng ta? Nếu chúng ta tin vào họ, thì chúng ta chỉ phí thì giờ và làm cho tâm thêm mê muội cũng như làm giàu cho bọn lười biếng nói khoác mà thôi chứ không mang lại kết quả gì cả. Nếu chúng ta muốn cuộc sống hiện tại khá hơn, tương lai thêm tươi sáng, thì chỉ có một con đường duy nhất là tạo cho mình thật nhiều thiện nghiệp, luôn luôn phát tâm Bồ-đề và dĩ nhiên phải tránh xa ác nghiệp.
Tóm lại, trong mười món phiền não trên, thì tác dụng của nó có phần khác nhau. Có thứ thì yếu ớt, nông cạn, dễ dàng trừ khử và có thứ thì sanh cội, sanh rễ khó khăn khử trừ. Đức Phật đã chia tất cả 10 loại phiền não này ra thành hai loại: kiến hoặc và tư hoặc.
         
1)Kiến hoặc: Kiến là sự thấy biết từ bên ngoài vì thế kiến hoặc là những cái sai lầm về mê lý và vọng chấp từ bên ngoài mà thấm vào trong tâm của chúng ta. Do đó một khi con người đã thấu suốt chân lý của Đức Phật thì những mê lầm nầy sẽ từ từ biến mất. 
         
2)Tư hoặc: Tư là phần bên trong tức là tâm tư vì thế tư hoặc là những điên đảo mê lầm đã có sẵn trong tâm thức của con người. Đây là nói đến 4 loại phiền não thuộc loại nặng ký. Chúng nó có khả năng ăn sâu vào tận gốc rễ và rất khó tiêu trừ. Đó là Tham, Sân, Si, Mạn. Tham, Sân, Si, Mạn gắn liền với con người như hình với bóng. Hễ có con người là có nó và mình đi đâu thì nó theo đó. Chúng nó ăn sâu vào trong tiếm thức của chúng ta để sai khiến, đọa đày và bắt chúng ta phải thỏa mãn những dục tính, nhu cầu của nó. Càng nghe lời nó thì chúng ta càng sa vào vòng sanh tử luân hồi bởi những ác nghiệp mà chúng ta đã gây ra. Nhưng cổ nhân cũng có câu:”Cao nhân tắc hữu cao nhân trị” cho nên dù nó có nguy hiểm như thế nào, nhưng nếu chúng ta trì công tu hành  thì bốn món độc kia sẽ bị tiêt trừ. 


34. Diệt đế 
(Nirodha Dukkha) (Cessation of Suffering)
         
 Qua hai phần Khổ đế và Tập đế thì chúng ta đã quen thuộc với đời là biển khổ và nguyên nhân nào đưa đến những cảnh khổ nầy. Nói như thế, không phải Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy đời là biển khổ  để chúng ta nhìn cuộc đời  này toàn là một màu đen âm u ảm đạm và không có chút ánh sáng. Sống như thế thì ích lợi gì? Và chân lý như vậy thì làm sao mà gọi là chân lý tối thượng cho được? Xin trả lời rằng giáo lý nhà Phật là một giáo lý hoàn toàn viên mãn để mang lại hạnh phúc chân thật cho tất cả mọi người. Đứng về phương diện tâm lý thì Đức Phật cho ta thấy rằng: khi đói thì mình mới thấu hiểu được giá trị lúc được no, cũng như kẻ nghèo thì sẽ sung sướng khi được giàu sang và khi đau ốm mới thấy giá trị của lúc còn lành mạnh. Cùng một ý nghĩa đó, Đạo Phật không phải chỉ giới thiệu những cảnh khổ ải, thê lương để gieo vào lòng chúng ta sự chán đời  và tuyệt vọng, mà có mục đích để khai thị cho chúng sinh biết rõ tận căn cơ của mọi sự khổ để tìm phương pháp đạt đến một chân hạnh phúc và chứng được Niết Bàn.
     
Trong thế gian này chúng ta thường thấy có hai hạng người:
1)Hạng người thứ nhất là họ nhìn cuộc sống này với một tư tưởng lạc quan. Họ rất yêu đời bởi vì họ đang hưởng thụ giàu sang phú quý và công danh thành đạt. Cuộc đời này đối với họ thì lúc nào cũng đẹp như bài thơ nên họ không cần phải tu nhân tích đức và lo cho ngày mai. Họ nghĩ rằng với sự giàu có như vậy thì người khác cần đến họ chứ họ chả cần đến ai. Đối với những người nầy thì vật chất, tiền tài và danh vọng đã làm tâm trí của họ bị lu mờ. Họ chỉ thấy ngày nay mà quên đi ngày mai. Họ chỉ biết hiện tại mà không nghĩ gì đến kiếp tương lai. Phật giáo gọi họ là những kẻ không sáng suốt, mê muội. Tai sao thế? Chúng ta thấy trên thế gian nầy có ai giàu sang, quyền thế hơn vua Tần Thủy Hoàng ngày xưa chưa? Vậy vua nhà Tần bây giờ ở đâu? Có lẽ ông ta đã tiêu ma thành cát bụi từ mấy ngàn năm rồi còn đâu nữa mà an hưởng!  Nên nhớ là cuộc đời tạm bợ mà chúng ta đang sống nầy chẳng khác chi là quán trọ chứ đâu phải là nhà. Họ có thể sung sướng ngày nay hoặc là kiếp nầy nhưng ngày mai, kiếp sau thì sao? Họ có thể thoát ra khỏi cảnh ốm đau, già yếu được không? Còn thân tứ đại của họ kéo dài được bao lâu để cho họ an hưởng? Cái sung sướng vật chất tạm bợ có phải là sung sướng chân thật không? Hay là càng giàu thì càng lo! Càng trèo cao thì càng té nặng.
     
2)Còn hạng người thứ hai là loại người thông minh và có trí tuệ sáng suốt. Thật vậy, chỉ có sự thức tỉnh sáng suốt mới cho chúng ta thấy đâu là mê, đâu là thật. Không phá mê thì làm sao mà khai ngộ cho được? Những hạnh phúc trên trần gian nầy đều là sự sung sướng giả tạo. Bởi vì khi vừa mới chớm thấy sung sướng thì chúng ta đã lo lắng bồn chồn, không biết sự sung sướng này sẽ kéo dài bao lâu. Lo lắng là đau khổ chứ ai gọi là sung sướng bao giờ. Thế thì chưa thấy sung sướng mà đau khổ đã hiện lên rồi. Người thông trí tuệ thì biết rằng mọi cấu tạo trên thế gian đều là vô thường bao gồm cả cái thân tứ đại của chúng ta. Một khi đã là vô thường thì làm sao mà tồn tại bất biến mãi mãi cho được. Nay có, mai không, lúc ẩn, lúc hiện biến chuyển quay cuồng theo thời gian. 
        
Vậy đâu là chân hạnh phúc? 
Đây là điểm hay nhất trong toàn bộ giáo lý của Đức Phật vì nó là cứu cánh của chúng sinh khi tu đạo. Thử nghĩ cả đời chúng ta cố gắng tu hành mà cuối cùng không đạt đến chỗ này được thì thực là uổng công phí sức. Cũng như người học sinh cho dầu có học hành cực khổ cách mấy mà không thi đỗ thì chẳng ích lợi gì. Công trình dồi kinh mài sử chẳng khác nào như dã tràng xe cát biển đông mà thôi. Chỉ khi nào chúng ta chứng được chân hạnh phúc thì lúc đó chúng ta mới thật sự đạt được hạnh phúc viên mãn và không còn bị chi phối bởi luật sanh tử luân hồi cũng như không còn phiền não chấp trước đeo đuổi ta nữa.

Vậy thế nào là chân hạnh phúc?
Phật giáo không dạy con người những hạnh phúc tạm bợ nhất thời của thế gian vì chính nó là cội nguồn của biết bao lo âu phiền não và khổ đau sau nầy. Chẳng hạn như chúng ta vừa mới mua một cái nhà thật sang thật đẹp. Ngày tân gia chắc chắn phải là ngày mà gia đình hảnh diện và hạnh phúc. Nhưng cái hạnh phúc nầy kéo dài bao lâu? Vài tháng sau thì chủ nhà phải lo lắng nào là tiền nhà, tiền thuế, tiền bảo hiểm, tiền bảo trì và bao nhiêu món tiền khác liên quan đến căn nhà nầy. Vậy cái hạnh phúc nhất thời trong vài tháng đầu có phải là cội nguồn của biết bao lo lắng buồn phiền của những năm tháng sau nầy. Vì thế hạnh phúc mà đạo Phật nhấn mạnh ở đây chính là sự an lạc, thanh tịnh trong tâm của con người. Đây chính là Niết bàn trong trần thế vậy.

Sau cùng, Diệt đế là chân lý chân thật, chắc chắn và giúp chúng sinh đạt được một hạnh phúc chân thật, viên mãn. Một khi chúng sinh chứng được quả vị nầy thì chúng sinh đó đã chứng được Niết Bàn vậy.
Nhưng trước khi nói về Niết Bàn, chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị tất cả những giai đoạn từ lúc mới bắt đầu tu cho tới khi đạt đến quả vị Bồ-tát, và Phật. Vâng, đây không phải là việc dễ dàng mà đạt được. Nhưng nếu chúng ta cố gắng trì công thì giấc mơ kia một ngày nào đó sẽ biến thành sự thật. Bởi vì ngày xưa Nguyễn Bá Học cũng nói:” Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Hay là:” Không sợ bông hồng kia có quá nhiều gai, mà chỉ sợ trong những gai kia không có một đóa hoa hồng mà thôi”. Thật vậy, Đức Phật đã hiểu rõ sự khó khăn nầy nên Ngài đã chế ra  84,000 pháp môn khác nhau để giúp chúng sinh tùy theo căn cơ và khả năng của mình mà cố gắng tu hành ngõ hầu đạt thành chánh quả. Do đó mới có câu:
“Nắm lấy chuổi tràng trần niệm dứt,
Nghiểm nhiên thành Phật đã từ lâu”.
Vậy chúng ta phải qua những giai đoạn nào?

Tu Gia Hạnh: Đây là giai đoạn khởi đầu trong cuộc đời tu hành của chúng ta. Việc đầu tiên là phải thông qua giáo lý căn bản của đạo Phật  bắt đầu từ luật Nhân quả Luân hồi, thuyết Vô thường Vô ngã, Nghiệp căn và Nghiệp báo, Từ Bi hỷ xả, Bố thí, Trì giới và cuối cùng là Tứ diệu đế. Một khi quý vị đã nắm chắc những điều căn bản đó thì những điều thấy biết sai lầm điên đảo sẽ tan biến mất.Tuy nhiên, muốn trừ bỏ tất cả mọi Kiến hoặc, thì chúng ta phải cần nhiều thì giờ tu tập để loại mọi thành kiến mê lầm của phàm phu mà đến Thánh trí để dự vào vòng Thánh quả.

1) Tu-Đà-Hoàn: Một khi đã qua được giai đoạn đầu thì ý thức của chúng ta đã sáng suốt không còn bị mê lầm nữa. Tuy nhiên thất thức vẫn còn chấp ngã nên chúng ta vẫn còn nằm trong vòng luân hồi sanh tử. Một khi phá được cái chấp ngã thì chúng ta đã chứng được vị Tu-Đa-Hoàn.

2) Tư-Đà-Hàm: Sau khi chứng được quả Tu-Đà-Hoàn ở trên, có nghĩa là chúng ta đã loại được Kiến hoặc nhưng chưa đụng tới Tư hoặc. Tư hoặc là loại nặng ký và gồm có 9 phần (hạ hạ, hạ trung, hạ thượng, trung hạ, trung trung, trung thượng, thượng hạ, thượng trung, thượng thượng). Nếu chúng ta đạt được 6 phần đầu thì quý vị đã chứng được Tu-Đà-Hàm. Đây là quả vị thứ hai trong Thánh văn thừa.

3) A-Na-Hàm: tạm dịch là bất lai, có nghĩa là không trở về cõi dục nữa. Đây là giai đoạn cực kỳ quan trọng của kẻ tu hành bởi vì khi bước qua ngưỡng cửa này thì họ không còn ảnh hưởng của sự sanh tử nữa. Họ sẽ không còn bị tái sanh trừ khi chính họ phát nguyện trở lại cõi nầy để độ sanh. Nếu chúng ta cố gắng đạt 3 phần còn laị của Tư hoặc thí quý vị đã chứng được quả A-Na-Hàm.

4) A-La-Hán: Khi chúng ta đã bỏ được những mê lầm của Kiến hoặc và Tư hoặc thì việc sau cùng là phải cố gắng loại bỏ phần còn lại của mê lầm  là Vi Tế hoặc.
Ø    Đối với Tham vi tế, chúng ta có thể dùng Thiền định để đạt minh Tâm kiến tánh hoặc Niệm Phật cho đến khi nhất Tâm bất loạn để chế phục và tiêu diệt nó.
Ø    Đối với Sân vi tế, đối với loại nầy thì thật khó mà nhận biết được những hiện tượng nhỏ nhặt nầy bởi vì nó chỉ phát hiện dưới hình thức tiềm năng. Chẳng hạn như đôi khi chúng ta cảm thấy chán nản buồn bực mà không hiểu tại sao. Những tình cảm này xuất hiện rất yếu ớt đến nổi chúng ta chỉ có thể cảm nhận nó một cách mơ hồ hoặc là đôi khi không thể nhận biết được. Để trừ Sân vi tế, con người phải phát tâm Bồ-đề, tham thiền hay niệm Phật để làm cho tâm trong lành, hiền hòa. Cố gắng làm cho mọi người được an vui thì tâm của họ sẽ an tịnh.
Ø    Đối với Si vi tế, chúng sinh phải phát huy trí tuệ để giúp cho tâm thanh tịnh bởi vì trí tuệ  lúc nào cũng thắng vô minh.
Khi đã loại bỏ mọi Vi Tế thì chúng sinh đã chứng được quả A-La-hán. Đây là quả vị cao nhất trong Thanh văn thừa. Đến đây, thì quý vị có phước đức hoàn toàn, trí tuệ cao cả, không còn bị phiền não quấy phá, và dĩ nhiên không bị luân hồi sanh tử chi phối nữa. Đối với con người, thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử là một thành công vĩ đại bởi vì họ không bị sống chết, khổ đau, lo buồn và sợ hãi chi phối nữa.
Khi đã chứng được quả vị A-La-hán thì chúng sinh có hai chọn lựa:

1)Nếu chúng sinh thỏa chí với địa vị này mà không muốn phát tâm tu thêm để đạt những quả vị cao hơn thì được gọi là Bất hối tâm đơn A-la-hán.

2)Nếu chúng sinh có lợi căn lợi trí và muốn phát tâm tu luyện thêm chứ không tự mãn ở địa vị đã chứng thì được gọi là Hồi tâm đại A-la-hán.
Thêm một điểm nữa là khi tu luyện, hể chúng ta đoạn trừ mê lầm được chừng nào thì chứng quả đến chừng ấy chớ không phải chờ sanh qua kiếp khác mới chứng được quả kia đâu.
Một khi quý vị chứng được quả Tu-Đa-Hoàn thì chúng sinh có được 5 phép thần thông sau đây:

1)Thiên nhãn thông: là có nhãn lực nhìn thấy khắp muôn loài cùng sự sanh hóa trong thế gian bao la hiện tại.

2)Thiên nhĩ thông: là có nhĩ lực để nghe khắp mọi nơi bao gồm loài người và lòai vật.

3)Tha tâm thông: là có tâm lực biết được tâm niệm sở cấu của kẻ khác.

4)Túc mạng thông: là có trí lực hiểu biết các kiếp trước của mình.

5)Thần tức thông: là có thể thu nhận được thần thông tự tại như ý muốn.

Năm phép thần thông nầy, tuy có phần đặc biệt hơn người thường nhiều nhưng chưa đạt được điểm quan trọng nhất là Lậu Tận Thông. Bởi vì chứng được lậu tận thông sẽ mang đến trí tuệ thông suốt của ba đời. Không còn bị các phiền não làm ngăn cản và thoát ra được cảnh sanh tử luân hồi. Chỉ có những vị A-la-hán mới chứng được quả vị này.
Sau cùng, Đức Phật dạy chúng sanh phải trãi qua 55 quả vị thì mới thành Phật được. Đó là: Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa và sau cùng là Đẳng giác. Song song với 55 quả vị nầy thì chúng sinh còn phải đương đầu với 50 món ma và đây là những điều nguy hiểm nhứt trên đường tu hành.

Chúng ta hiện tại đang sống trong thời mạc pháp thành thử không có gì là lạ khi chúng ta nghe có người tự xưng mình là Bồ-tát nầy hay Quán Thế Âm nọ. Đức Phật khi còn sanh tiền đã nghiêm cấm các đệ tử của Ngài về việc mạo xưng này.

Phật dạy rằng:
”A Nan, chính thật Bồ-tát hay A-la-hán thị hiện, mà còn không cho người biết, tại sao những người phàm phu lại dám mạo nhận xưng mình là Phật, hay Bồ-tát... Cũng như người cùng đinh, mà mạo xưng mình là Đế vương, thì sẽ bị tội tru diệt. A Nan, nếu người tu hành, không đoạn trừ đại vọng ngữ, mà muốn được đạo, thì cũng như người tự cắn cái rún của mình, làm sao mà cắn được”. 
Khi nói về tâm phiền não, tâm ô nhiễm thì có người hỏi: Nếu tâm này (tâm ô nhiễm) bị diệt thì lấy gì để tiếp tục tu hành? Xin thưa: Tâm của chúng ta có hai phần: chơn thể và vọng tưởng. Khi diệt, thì chúng ta chỉ diệt cái tâm “vọng tưởng” mà thôi chớ không phải diệt cái “chơn thể” của tâm. Cũng như vì gió mà làm cho nước nổi sóng. Nếu gió ngừng thì sóng sẽ lặn chớ nước không bị diệt. 
 
Tác giả bài viết: Lê Sỹ Minh Tùng
Nguồn tin: Thư Viện Hoa Sen
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Cách gởi bài viết về Ban Biên Tập

Nội quy đăng bài viết :Bài viết trước khi đăng phải hội đủ các điều sau :- Thứ nhất : Trang web chỉ có một mục đích đó là Hoằng Dương Phật Pháp- Thứ hai : Nội dung thuần tuý chỉ có quan điểm, kinh điển, Luật, Luận chính thống của Nhà Phật- Thứ ba : không liên quan bất...

Thống kê

  • Đang truy cập: 44
  • Khách viếng thăm: 39
  • Máy chủ tìm kiếm: 5
  • Hôm nay: 2245
  • Tháng hiện tại: 1715829
  • Tổng lượt truy cập: 59368762

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile