Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Đâu là Phàm Thánh - Phần 4

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 11:13 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Đâu là Phàm Thánh - Phần 4

Đâu là Phàm Thánh - Phần 4

Máy Đạo không xa xôi, Quay đầu lại thấy rồi; Thấy ra mau hay chậm, Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ

Đâu là Phàm Thánh - Phần 3

*******

Đạo đã mở rộng thinh các cửa.

Tại sao không sấn sứa cho mau;

Muốn cứu thân còn đợi lúc nào,

1570. Giờ nầy rất hợp câu thiên lý.

Ngàn muôn kiếp chỉ trong một tí,

Giải quyết xong vạn sự đau thương;

Đừng ngại ngần huốt mất chánh đường,

Uổng lắm bớ quê hương già trẻ.

Từ phương xa một lời nhàng nhẹ,

Gởi về nhà gọi kẻ gần xa;

Niềm thân yêu với sự hảo hòa,

Rán chặt buộc cho ra mối đạo.

Phật chẳng dụng . mưu lừa đảo.

1580. Đừng hiểu sai lời bảo chơn sư;

Đọc cho rành giảng kệ thi thư,

Sẽ được biết thật hư ngành ngọn.

Việc đời đã bi ly thỏn mỏn,

Còn chi đâu chẳng sớm tu chơn;

Khi khắp cùng nổi cuộc băng sơn,

Ngày ấy vái Phật Thần khó cứu.

Rán lo mau có phù Linh thứu,

Cứu chơn tu và cứu thiện nhơn;

Già trẻ nên cố gắng tinh thần,

1590. Để gặp được Phật thân hóa hiện.

Ngày chung kết không còn xa viễn,

Hăng hái lên chớ biếng lúc nào;

Nơi xa ngàn cất tiếng kêu gào,

Là cũng bởi thấy câu bách cận.

Không trách cứ cũng không hờn giận,

Lại cũng không nói bỡn với ai.

Rán tin vào để sửa chiều mai.

Vừng nhật nguyệt khai bừng rõmặt.

Đạo khi đắc chỉ trong nhứt khắc,

1600. Nhưng công tu phải rắc gieo lâu;

Do nơi mình chớ chẳng do đâu,

Thành bại ở nơi câu quyết chẳng.

Quyết thì được chẳng thì không đặng,

Đạo hay đời cũng vẫn thế thôi;

Khá nghiệm suy cho kỹ người ôi!

Đừng đổ lỗi cho người nào cả.

Giống nào thì tự nhiên nấy quả,

Dây bí không thể trổ trái bầu;

Việc tại mình mình phải lo âu,

1610. Ấy là kẻ biết câu cội rễ.

Có một hôm trong người bễ nghễ,

Nằm trở trăn không thể ngủ yên;

Rồi bỗng nhiên Phật hiện đến liền,

Rằng con có biết nguyên nhân ấy.

Trong ngũ tạng một điều chuyển sái,

Toàn châu thân bại hoại không an;

Sự tu hành cũng giống một tràng,

Một trong sáu căn không thanh tịnh.

Thì cả thảy đều không an định,

1620. Tất nhiên là huệ tánh khó sanh;

Thế cho nên phải được trọn lành,

Quả mới chín và danh mới toại.

Sâu vô cùng nhiệm không ranh giới,

Càng nghiệm lâu càng thấy hay thay;

Cứ như vầy hành đạo chiều mai,

Chắc chắn được đủ đầy công quả.

Hỡi lớn nhỏ rán nung chí cả,

Làm cho nên mới hả tấm lòng;

Tuy đó đây cách biển ngăn sông,

1630. Khi gió thuận thì không xa xắc.

Gần năm năm mặt không thấy mặt,

Nhưng mà lòng buộc chặt với lòng;

Sự thương yêu pha lẫn cay nồng,

Chữ bạc bội vẫn không hề có.

Sau trước chỉ một lòng gắn bó.

Làm cho nhau đây đó một niềm;

Không theo tuồng thay áo đổi xiêm,

Xin đồng đạo chớ quên tình ấy.

Dù sống thác gìn câu sơn hải,

1640. Tiền dễ làm nhơn ngãi khó mua;

Rán chịu cho qua lúc chát chua,

Rồi sẽ đến thời cơ hạnh phúc.

Có lao khổ mới dầy công đức,

Không nhọc nhằn đâu được quả cao;

Sự cam go của một người nào,

Đây còn nhớ trời cao đâu bỏ.

Khá sốt sắng ớ người lớn nhỏ,

Nên thương đây chớ bỏ đường tu;

Nơi xứ ngoài đây vẫn công phu,

1650. Người trong nước khá âu sùng bái,

Nếu đây chẳng vì câu thương hải,

Đâu réo kêu trai gái làm gì!

Và cũng không ở hải ngoại chi,

Bỏ mẹ yếu quên đi phụng dưỡng.

Muốn Phật giáo khắp nơi vang hưởng,

Riêng thân nầy nào tưởng chi đâu;

Vì muôn dân trên mặt địa cầu,

Đành bỏ mẹ quạnh hiu trong nước.

Cám thương mẹ rất là vô phước,

1660. Có một con không được cậy nhờ;

Lúc lạnh nồng vắng trẻ quạt hơ,

Khi ươn yếu ai lo thang thuốc.

Tội bất hiếu của con khó chuộc,

Xin mẹ tha con được hưởng nhờ;

Thảng như chưa sớm gặp thời cơ,

Mẹ con chắc là chưa thể gặp.

Cúi xin mẹ lòng từ rán lấp,

Hiến thân con cho khắp người ta;

Noi gương lành của Phật Thích-Ca,

1670. Thí tất cả dù là con cái.

Mẹ ơi trẻ nào đâu bạc ngãi,

Vì đạo mầu đành phải lánh đi;

Gần năm năm lòng luống ai bi,

Nơi hải ngoại chẳng chi vui cả.

Nhiều đêm nước mắt con xối xả,

Nhớ mẹ già nhớ cả xóm làng;

Càng nhớ càng hột lụy chứa chan,

Muốn về sớm hầu bên cạnh mẹ.

Và gần gũi đạo đồng già trẻ,

1680. Cho phỉ lòng cách rẽ mấy năm;

Nhưng mẹ ơi! Vì chữ thậm thâm,

Con chưa thể trở chơn sớm được.

Con vẫn biết mẹ già trong nước,

Quá nhớ con thành giấc chiêm bao;

Vì thương con mẹ đã phát đau,

Nước mắt mẹ đã trào mấy lượt.

Cúi xin mẹ rán dằn cho được,

Khi nhớ con đến trước Phật đài;

Ngồi kiết dà rồi chắp hai tay,

1690. Mắt ngó thẳng vào ngay sống mũi.

Thở đều đều không ngừng không vội,

Định tâm thần dẹp mối lo âu;

Niệm A Di Đà Phật một câu,

Niệm nhiều ít mau lâu tùy sức.

Khi xong rồi cúi đầu lạy Phật,

Cầu ơn trên xuống đức từ bi;

Độ dân lành khỏi cuộc tai nguy,

Cứu sanh chúng qua kỳ lọc lựa.

Đâu đó sớm dứt ngòi binh lửa,

1700. Cả Bắc Nam được trở hòa bình;

Mẹ ơi! Vì còn cảnh điêu linh,

Nên cần phải cầu xin Phật độ.

Nếu tất cả người đều hối ngộ.

Dầu không cầu Phật độ cũng an;

Nhưng buồn vì lắm kẻ tham gian,

Thành ra mới họa tràn khắp chốn.

Một lợi ích mà muôn hại tổn,

Nhưng ít người để bụng xét xem;

Biết bùn lầy là chỗ luốc lem,

1710. Mà vẫn cứ đua chen đến mãi.

Chữ tang điền với câu thương hải,

Kẻ trí ngu xét lại thử nào;

Há nỡ lòng giết hại lẫn nhau,

Rồi mình cũng chun vào quan quách,

Kiếp sống tạm nên tìm đủ cách,

Giúp đỡ nhau chớ sát hại nhau;

Đạo làm người rán hiểu chút nào,

Nên nghĩ đến đồng bào đồng loại.

Không như Phật đầy lòng bác-ái,

1720. Cũng bằng người rộng r.i ở ăn;

Chớ tập theo những tánh khó khăn,

Hãy tha thứ kẻ lầm biết hối.

Đây xin khuyên trẻ già quê nội,

Đoàn kết nhau mở lối sống còn;

Càng rẽ chia càng dễ tiêu mòn,

Gây thêm khổ chớ không ích lợi.

Khi gặp phải thời cơ đưa tới,

Thiếu kết liên là mối hại to;

Một người dù có giỏi sức lo,

1730. Cũng không thể cất cho nổi gánh.

Chớ cậy tài cũng đừng ỷ mạnh,

Phải hợp hòa nhiều cánh mới nên;

Gạch một viên chẳng cất thành đền,

Xin già trẻ chớ quên thống hợp.

Đạo vẫn thế đời càng ăn khớp,

Kể từ nay đến rốt sự đời;

Còn biết bao cuộc diện đổi dời,

Không tính trước đến rồi khó tính.

Vui cùng hưởng khổ cùng nhau gánh,

1740. Bỏ tánh tình lánh nặng tìm không;

Thương nhau như cha đẻ một lòng,

Vậy mới gọi người trong Phật giáo.

Dù có gặp muôn ngàn trận bão,

Tình thương yêu hòa hảo không lay;

Nhờ kết liên qua cuộc nàn tai,

Không tương ái đâu tài thoát khổ.

Lời đây nhắc khá suy tột chỗ,

Đừng để như nước đổ lá môn;

Tiếng nói đây nói tận tâm hồn.

1750. Không phải chỉ nói trên chót lưỡi,

Thấy đạo đức nơi người rũ rượi;

Đem lời mầu để tưới cho xanh,

Phật từng khuyên dạy giữa đêm thanh.

Đây quyền biến kết thành từ loại,

Đâu phàm, Thánh đâu là phải trái;

Kể rõ ra từ cái thiệt hư;

Cho người nhà có dạ tưởng tư,

Xét nghiệm kỹ để tu cho chính.

Phật dạy rằng : ‘hữu lai hữu thỉnh’,

1760. Có tâm nguyền Phật đến chẳng không;

Nơi quê nhà lớn nhỏ đạo đồng,

Khuyên hãy rán thành lòng cung thỉnh.

Ngày nào thấy hào quang tụ đỉnh,

Ấy là ngày Phật đến chứng minh;

Rất diệu mầu tột bực siêu linh,

Không còn phép nào trên nữa được.

Thân gầy ốm tưởng đâu vô phước,

Nào hay xưa đã được lắm duyên;

Nên bên tai thường có lời truyền,

1770. Mới biết sự diệu huyền hy hữu.

Đồng đạo rán cùng đây thành tựu,

Phải dầy công bình trụ tâm linh;

Một lòng thành theo đúng kệ kinh,

Thắng phục các tâm tình sai siển.

Chẳng để lạc vào nơi tà kiến,

Sáu trần không, chớ quyến vào tâm;

Lặng lẽ lòng như nước bình ngâm,

Gương trong mấy là tâm trong mấy.

Chẳng một vật nào không soi thấy,

1780. Nhưng vẫn không vướng lấy vật nào;

Việc thế gian dù một mảy hào,

Cũng không bị điều nào trói buộc.

Cùng Bồ Tát đồng hàng quyến thuộc,

Sống trong trần luôn được tự do;

Thường đỡ chân bằng sáu chiếc đò,

Ta bà khổ vớt cho hết khổ.

Ôi! Lòng thương chúng sanh vô số,

Ai cũng thương chẳng có ghét ai;

Giúp được thì sẵn dạ giúp ngay,

1790. Không sợ khổ chẳng nài khó nhọc.

Thương đời hơn thương người đồng tộc,

Lòng hy sinh đến phút cuối cùng;

Đối với người thật rất tận trung,

Xưa nay vẫn thỉ chung không đổi.

Tấm lòng nầy nếu ai hiểu nổi,

Cùng Phật Tiên một lối chung đi;

Ở trong hàng đại giác đại bi,

Lúc nào cũng dễ qui cõi Phật.

Làm hay nói chẳng sai sự thật,

1800. Từ việc chi cũng rất công minh;

Đáng nêu gương cho khắp chúng sinh,

Học theo đấy để nên người tốt.

Rán mà nghe lời đây đã thốt,

Rồi biện phân xấu tốt ra sao;

Chẳng thêu thùa cũng chẳng pha màu,

Vì sự thật vì câu đạo nghĩa.

Muốn lớn nhỏ đạo tâm trau trỉa,

Không để cho miệng thế gièm pha;

Đúng đạo mầu của Phật Thích Ca,

1810. Cứu sanh chúng gọi là kỳ chót,

Cuộc biến chuyển không ai thoát lọt,

Kẻ sống trong thời cuộc nầy đây;

Đều bị guồng vật chất cuốn quay,

Rồi quên mất đường ngay nẻo thẳng.

Lòng mến sự đời ngày thêm nặng,

Ý lo tu lần vắng nơi tâm;

Vui một hồi khổ não muôn năm,

Cứ chịu kiếp luân trầm mãi mãi,

Biết chừng nào người đồng tu cải,

1820. Cho cạn đi khổ hải nầy đây;

Không còn người nào bị họa tai,

Khắp trần thế sầu mây tan cả.

Ai cũng được sống đời thong thả,

Nam Bắc không một kẻ khốn nàn;

Cảnh nầy chưa hiện đến thế gian,

Người Phật tử chưa an tâm niệm.

Học chữ tín cho lòng thâm nhiễm,

Mới làm nên các chuyện cao xa;

Chớ thêu thùa sơn phết ngoài da,

1830. Miệng nói vậy làm ra thì khác.

Một lần dối muôn lần lừa gạt!

Nói quen mồm chụp bắt quen tay;

Rán mà nghe cho kỹ bớ ai!

Không tin tất không hay thành thật.

Vì người quá nói năng sai thất,

Nên giữa nhau đã mất lòng tin;

Tin nếu không thì lắm bất bình,

Luôn có sự bất lành xảy đến.

Không tin nhau làm sao có mến,

1840. Một phút ngờ đem đến muôn đau;

Khắp trẻ già đã nghĩ thế nào?

Mà chẳng chịu tin nhau như một.

Có thể nói lòng tin là cột,

Cột nếu không nhà cất sao nên;

Xin quê nhà nam nữ chớ quên,

Muốn hòa hảo phải nên chữ tín.

Có rời rạt rán làm liền dính,

Kết thành bè để đến kia sông;

Chỉ nhứt thời vỡ cuộc Tây Đông,

1850. Khắp Nam Bắc trời long đất lở.

Khá thương nhau khá lo giúp đỡ,

Vui cùng chia có khổ cùng cam;

Giữ một niềm thân hữu thiền lam.

Phật dạy thế rán làm như thế,

Ngày lập hội danh vang bốn bể,

Đáng hiền nhơn xứng kẻ nêu gương;

Mắt thấy hoa, mũi ngát mùi hương,

Đâu chẳng có kiết tường vân phủ.

Người rán thức chớ nên mê ngủ,

1860. Việc gần bên nào có xa chi;

Tuy mỏi chơn cũng rán bước đi,

Chớ chán ngán ngồi lỳ một chỗ.

Người chịu khổ thì ta cũng khổ,

Khổ ngày nay mai có sướng vui;

Vui lâu dài chịu khổ một hồi,

Sự hơn kém khác thôi muôn bực.

Xin già trẻ vui lòng chịu cực,

Ngày hoàn ca là lúc ăn chơi;

Chớ trách sao lâu lắc cơ Trời,

1870. Cuộc lọc lựa vô hồi khăn khó.

Hai quyển sổ cái đen cái đỏ,

Trừ cấn nhau phước nhỏ tội to;

Việc kiếp nầy lẫn cả kiếp xưa,

Cân qua lại cho vừa đâu dễ.

Lúc nào cũng muốn nuôi dương thế,

Đâu muốn đem hủy phế cho tiêu;

Đến khi nào không thể chắt chiu,

Chừng ấy mới đành tiêu một cuộc.

Kẻ leo lên còn người lại tuột,

1880. Đang còn hồi thi cuộc bớ ai;

Cứ lo tu đừng nệ vắn dài,

Sự khi tới tới ngay khỏi nói.

Đây sở dĩ dùng lời kêu gọi,

Là muốn cho mau tới đấy ư!

Người xôn xao việc chẳng chần chờ,

Lòng trời vốn theo người khá nhớ!

Người muốn phải trời đâu bỏ dở,

Nhiều người thành tâm sẽ nên mau;

Khắp xóm làng một niệm như nhau,

1890. Tất là việc muốn sao được vậy.

Phật bảo rằng máy huyền không thấy.

Nhưng nào đâu phải cái không ngơ;

Việc ngàn xưa hay việc hiện giờ,

Không thể sót lọt qua một mảy.

Mắt Thánh chẳng việc chi không thấy,

Tai thần lời phải quấy đều nghe;

Khuyên bá gia hãy nhớ kiêng dè,

Làm chi cũng xét ra tội phước.

Đừng để bị hùm tha ma rước,

1900. Rán xứng người đứng trước muôn dân;

Không được làm đến bậc Phật Thần,

Cũng rán được làm dân thượng cổ.

Làm con phải nhớ ơn tông tổ,

Đừng quên câu báo bổ sanh thành;

Nếu con hiền sẽ gặp cha lành,

Chớ để hổ trước tình phụ tử.

Hỡi đồng đạo trẻ già trong xứ,

Nhớ lo xong hai chữ hiếu trung;

Nghĩa cao dầy nguyện đáp đến cùng,

1910. Lòng son sắt thỉ chung như nhứt.

Dầu sao cũng ôm gìn đạo đức,

Sống thác luôn theo Phật đến cùng;

Mặc cho đời ghen tỵ hành hung,

Người Phật tử vẫn lòng kiên cố.

Ngày nào chưa qua nơi Tịnh độ,

Nguyện không rời khỏi ngõPhật môn;

Tiếng chuông lành cứ mãi giục nôn,

Tỉnh thức khắp chúng dân thế giới.

Đồng đạo ơi từ đây sắp tới,

1920. Sẽ đổi thay nhiều lối gay go;

Chữ hòa bình ai cũng hô to,

Lòng tư kỷ làm cho biến cuộc.

Trò chơi khéo nhiều lời trau chuốc,

Để dễ bề mưu cuộc trá gian;

Miệng nói hòa lòng chẳng muốn an,

Vì thế khắp địa hoàn còn khổ.

Chớ ngó thấy ổn yên vài chỗ,

Mà vội cho đâu đó thanh bình;

Đường đạo tâm bỏ lòng không gìn,

1930. Ngày chung cuộc linh đinh sóng vỗ.

Phật Ngài có một đêm giông tố,

Hiện bên màn nói lộ ra rằng;

Con ơi! Nghe câu chuyện Đường Tăng.

Bị yêu quái chận ngăn biết mấy.

Biết bao cuộc đất bằng sóng dậy,

Dễ làm cho biến cải chơn tâm;

Nhưng mà lòng Tam Tạng Đường tăng,

Trước sau vẫn một đàng đi tới.

Nếu chẳng được một lòng cứng cỏi,

1940. Thì làm sao thắng nổi yêu ma;

Cảnh Tây phương Phật cũng khó qua,

Mong gì gặp Di Đà Phật Tổ.

Ăn miếng thịt sống ngàn năm thọ,

Lời yêu tinh lớn nhỏ đồn vang;

Vì thế nên gặp lắm tai nàn,

Xưa đã thế nay càng hơn nữa.

Con hãy rán truông qua nước lửa,

Chớ cho thua hồi thuở Đường tăng;

Giữ thân đừng để bị yêu ăn,

1950. Quyết cho được ngồi thoàn Bát Nhã.

Con chịu khó đem lời truyền hóa,

Nhắc nhở cho tất cả đều nghe;

Để hiểu đời mỏng mẻo tợ the,

Lo tu niệm cho ra người đạo.

Ngày chung cuộc được ngồi sen báu,

Xem Phật Tiên truyền giáo phép mầu;

Rất gớm ghê khi cuộc đáo đầu,

Khổ chi sánh mưa dầu nắng lửa.

Việc đôi ba, còn năm bảy nữa.

1960. Con rán khuyên lớn nhỏ đừng quên;

Không Phật Tiên khó thể độ nên,

Sức người chỉ nằm trên quả đất.

Tài cán mấy cũng là nhơn vật,

Còn nằm trong bộ luật tuần hoàn;

Vùng vẫy sao cho khỏi tử thần,

Đâu như Phật kim thân bất hoại.

Những tiến bộ ở trong tai hại,

Càng dễ làm thế giới tan tành;

Chế tử nhiều ít kẻ chế sanh,

1970. Xem đây cũng ngọn ngành được biết.

Tự tay chúng tréo dây oan nghiệt,

Thì đầu vào thắt chết lấy thân.

Trong khắc kỳ hết cựu ra tân,

Con rán nhớ khuyên dân tỉnh thức.

Lời của Phật nói ra vừa dứt,

Hóa hào quang bay mất liền khi;

Để lại mùi thơm ngát vân vi,

Ta ngơ ngẩn dường như ngây ngủ.

Lời của Phật muôn lần hấp thụ,

1980. Lòng biết ơn khó tỏ sao cùng;

Quyết noi gương cho vẹn thỉ chung,

Hầu đáp lại ơn trong muôn một.

Nhiều lúc Phật bảo đời sắp rốt,

Giục lòng như lửa đốt muôn vừng;

Muốn tung bay lên tận chín từng,

Kêu vang vội khắp dân được tỉnh.

Nơi hải ngoại không hề lơ lỉnh,

Ngày như đêm mưu tính không ngưng;

Làm sao mau cứu được muôn dân,

1990. Khỏi thiên nạn khỏi luôn nhân nạn.

Ai cũng biết theo đường chánh đáng,

Bỏ lợi riêng theo hẳn lợi chung;

Không một ai có dạ hành hung,

Đều ăn ở khoan dung đại độ.

Tai không nghe lời ai thô lỗ,

Mắt chẳng trông thấy chỗ bại tồi;

Người thương người như mẹ con côi,

Khắp Nam Bắc không người thù oán.

Kẻ thiếu ăn cho ăn bất hạn,

2000. Người tả tơi giúp đặng ấm lành;

Dạy cho nhau thông sự học hành,

Chẳng hề có ai khinh ai cả.

Thương nhau tợ ruột rà một dạ,

Hiệp lực nhau hưng hóa nước nhà;

Nào ruộng đồng đường xá mở ra,

Làm cho cả quốc gia phồn thạnh.

Ai cũng được ấm no lành mạnh.

Không ai còn sống cảnh nghèo nàn;

Ở quê nhà hãy khá lo toan,

2010. Cho mọi việc như đang mới nói.

Dù mai mốt đổi đời thượng cõi,

Nay cũng không nhịn đói được ư;

Nên phải cần lo việc sanh cư,

Đúng bổn phận con người tại thế.

Nếu người biết cùng nhau tương tế,

Tất sẽ không tội lệ với nhau;

Dù tạo tành cảnh vật thế nào,

Cũng không khiến cho nhau phải khổ.

Sống hiện tại nên khuyên tại chỗ,

2020. Không ngoài câu tế độ tử sanh;

Xin trẻ già quê nội hiểu rành,

Liệu lấy việc tu hành cho chính.

Bát chánh đạo là đường nhập Thánh,

Rán làm theo sẽ đặng siêu phàm;

Việc hồng trần cũng chớ nên ham,

Ấy là kẻ biết làm việc Phật.

Đây nhiều lúc vừa thiu thỉu giấc,

Tai vừa nghe mấy bực đờn cầm;

Tiếng thanh tao với điệu bổng trầm,

2030. Pha lẫn pháp thậm thâm vi diệu.

Có thơ rằng: “nhàn nhàn liu liu,

Đã vô ngn còn thiu vô biên;

Huyn không còn có cái trên huyn,

Niết bàn đó và Tiên Pht đó”.

Hỡi đồng đạo lắng tai nghe rõ,

Bài thơ vừa nói đó ra sao;

Trong tiếng đờn lời kệ pha vào,

Mầu nhiệm kể làm sao cho hết.

Rán mà tu chớ chờ đến chết;

2040. Nay không lo thì việc ô hô!

Nằm trên gò nằm mãi đến khô,

Chết như thế sao cho người sáng.

Mắt khi thấy được vầng sao rạng,

Cố lóc cho ra đặng bờ sông;

Thế mới là cá biết hóa long,

Kẻ thiện chí há không xem đấy.

Khá bước tới chớ nên dừng lại,

Mức ăn thua đã thấy gần rồi;

Đây không buông đó chớ bỏ trôi,

2050. Hẹn nhau gặp tại nơi ước nguyện.

Mọi việc đã không ngừng biến chuyển,

Sự tu hiền cũng tiến cho mau;

Da trời xanh chẳng đổi thật màu;

Trái tim đỏ trước sau một sắc.

Cùng nhau rán tu cho quả đắc,

Để đổi ra cảnh vật tốt lành;

Khiến cho nhiều thế giới chung quanh,

Được thông cảm niệm lành lui tới.

Cõi lành có cõi lành chơi với,

2060. Nước không ngăn nước nối một dòng;

Chừng canh tân khắp cõi trần hồng,

Có Tiên Phật đại đồng lai tựu.

Người tất cả đều là bạn hữu,

Cảnh an vui không thiếu vật chi;

Sự khổ lao của kẻ tu trì,

Được đền đáp lại khi nầy đấy.

Đâu phàm Thánh ngày kia sẽ thấy,

Thật cả hai thế giới khác nhau;

Một bên thì đầy sự khổ đau,

2070. Một bên rất dồi dào sung sướng.

Đâu đáng bỏ còn đâu đáng hưởng,

Không nói người cũng lượng được ư;

Rán tu đi sẽ rõ thực hư,

Chừng ấy việc đúng như lời nói.

Còn biết bao nhiêu lời Phật gọi,

Lần lượt đây sẽ nói ra thêm;

Đến khi nào biển lặng sóng êm,

Đây mới chịu bút nghiên tạm gác.

Ngày nào chúng sanh chưa giải thoát,

2080. Ngọn bút nầy chưa gác được đâu;

Khấn Phật Ngài luôn chỉ lời mầu,

Cho đây tỏ rành câu đạo pháp.

Vách trắng ngà tựa ai bôi sáp,

Đèn điện soi như nhấp sao giăng;

Nằm vắt tay lên trán nghĩ rằng:

Không vì đạo đâu nằm đây nhỉ?

Một thân với một lòng đạo lý,

Ngày chí đêm lo nghĩ sự đời;

Tuy là nay ở chốn xa vời,

2090. Vẫn đi lại khắp nơi truyền giáo.

Cũng nhờ mượn lấy câu chánh đạo,

An ủi khi thảm não xác thân;

Chỗ bùn lầy lăn lóc chẳng cần,

Nơi nào cũng để chân đến cả.

Miễn giúp được người đời sửa dạ,

Xác phàm nầy còn xá chi đâu;

Dù chết đi cũng chẳng lo âu,

Huống là sự khổ lao lăn lóc.

Mắt chẳng nhắm thường đêm trằn trọc,

2100. Lòng cứ lo mãi cuộc bể dâu;

Biết làm sao khắp chúng địa cầu,

Đồng một ý theo câu Phật giáo.

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 158
  • Hôm nay: 52915
  • Tháng hiện tại: 365805
  • Tổng lượt truy cập: 59805822

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile