Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

KINH ĐẠI BẢO TÍCH - 10. Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn

Đăng lúc: Thứ năm - 05/09/2013 15:22 - Người đăng bài viết: Diệu Thành
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật câu hộI vớI tám trăm đạI Tỳ Kheo và bốn muôn hai ngàn đạI Bồ Tát.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ÐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

X
PHÁP HỘI
VĂN THÙ SƯ LỢI PHỔ MÔN
THỨ MƯỜI

(Hán Bộ trọn quyển thứ 29)
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

    Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở thành Vương Xá trong núi Kỳ Xà Quật câu hộI vớI tám trăm đạI Tỳ Kheo và bốn muôn hai ngàn đạI Bồ Tát.

    Bấy giờ có Bồ Tát tên Vô Cấu Tạng cùng chúng Bồ Tát chín muôn hai ngàn cung kính vây quanh từ hư không đến.

    Ðức Thế Tôn liền bảo đạI chúng rằng chư Bồ tát ấy được Phổ Hoa Như Lai ở thế giớI Biến Thanh Tịnh Hạnh khuyến cáo đến thế giớI Ta Bà nầy để được nghe ta giảng dạy pháp môn Phổ Nhập Bất Tư Nghị.Chư Bồ Tát khác cụng sẽ đến họp.

    Ðức Thế Tôn tuyên bố xong ,các chúng Bồ Tát đông vô lượng vô biên ở cõi khác và cõi nầy đều đến núi Kỳ Xà Quật đảnh lễ chưn Phật rồi ngồI qua một phía.

    Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát tay cầm hoa sen thất bửu ngàn cánh đến chỗ đức Như Lai đầu mặt lạy chưn Phật mà bạch rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Ðức Phổ Hoa Như Lai ở thế giớI Biến Thanh Tịnh Hạnh sai tôi mang hoa báu nầy dâng đức Thế Tôn.Ngài ân cần thăm hỏI đức Thế Tôn vô lượng ít bịnh í não khỏe mạnh an vui”.

    Bạch xong, Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát liềnbay lên hư không ngồI kiết gìa.

    Ngài Văn Thù Sư LợI Bồ Tát rờI chỗ ngồI trịch y vai hữu quỳ gốI hữu cung kính chắp tay mà bạch đức Phật rằng : “ Bạch đức Thế Tôn ! Tôi nhớ thuở xưa đã từng nghe đức Phổ đăng Phật nói pháp môn Phổ Nhập Bất Tư Nghị.Lúc ấy tôi được tám ngàn bốn trăm ức na do tha tam muộI,lạI biết được bảy mươi bảy mươi bảy muôn ức na do tha tam muội.

    Lành thay đức Thế Tôn ! Mong đức Thế Tôn xót thương vì chư Bồ Tát mà dạy pháp môn ấy”.

    Ðức Phật phán : “ Nầy Văn Thù Sư LợI ! Nay ông lắng nghe khéo suy nghĩ,ta sẽ nói cho”.

    Ngài Văn Thù Sư LợI Bồ Tát bạch rằng : “ Vâng ! Bạch đức Thế Tôn ! Tôi xin được nghe”.

    Ðức Phật dạy : “Nầy Văn Thù Sư LợI ! Nếu chư Bồ Tát muốn học pháp ấy thì phảI tu tập các môn tam uội. Ðó là sắc tướng tam muộI, thanh tướng tam muộI, hương tướng tam muộI, vị tướng tam muộI, xúc tướng tam muộI, ý giớI tam muộI, nam tướng tam muộI, nữ tướng tam muộI, đồng nam tường tam muộI, đồng nữ tướng tam muộI, thiên tướng tam muộI, long tướng tam muộI,dạ xoa tường tam muộI, càn thát bà tướng tam muộI, a tu la tướng tam muộI, ca lâu la tướng tam muộI, khẩn na la tướng tam muộI, ma hầu la già tướng tam muộI, địa ngục tướng tam muộI, súc sanh tướng tam muộI, diêm ma la giớI tam muộI, tham tướng tam muộI, sân tướng tam muộI, si tướng tam muộI,bất thiện pháp tam muộI, thiện pháp tam muộI, hữu vi tam muộI, vô vi tam muội.

    Nầy Văn Thù Sư LợI ! Nơi các tam muộI ấy,nếu chư Bồ Tát khéo thông đạt thì đã là tu học pháp ấy.

    Nầy Văn Thù Sư LợI ! hế Nào gọI là sắc tướng tam muội ?

    Quán sắc như đống bọt
    Nó không có chắc thiệt
    Vì chẳng nắm giữ được
    Ðó tên sắc tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là thanh tướng tam muội?

    Quán thanh như âm vang
    Tánh nó bất khả đắc
    Các pháp cũng như vậy
    Không tướng không sai biệt
    Biết rõ đều tịch tịnh
    Ðó tên thanh tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là hương tướng tam muội?

    Dầu là trăm ngàn kiếp
    Thường ngửI các thứ hương
    Như biển nạp các dòng
    Mà không hề chán đủ
    Hương ấy nếu là thiệt
    Lẽ ra phảI đầy đủ
    Chỉ có danh tự gỉa
    Kỳ thiệt bất khả đắc
    Mũi cũng vô sở hữu
    Biết rõ tánh không tịch
    Ðó tên hương tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là vị tướng tam muội ?

    LưỡI kia chỗ nếm biết
    Mặn chua các thứ vị
    Ðều từ các duyên sanh
    Tánh nó vô sở hữu
    Nếu biết được như vậy
    Nhơn duyên hòa hiệp khởI
    Biết nghĩa bất tư nghị
    Ðó tên vị tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là xúc tướng tam muội?

    Xức chỉ có danh tự
    Tánh nó bất khả đắc
    Mịn trơn ấm các pháp
    Ðều từ các duyên sanh
    Nếu biết được xúc tánh
    Nhơn duyên hòa hiệp khởI
    Rốt ráo vô sở hữu
    Ðó tên xúc tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là ý giớI tướng tam muộI?

    Dầu hợp cả ÐạI Thiên
    Vô lượng các chúng sanh
    Nhứt tâm đồng suy tìm
    Ý GiớI bất khả đắc
    Chẳng ở trong hay ngoài
    Cũng chẳng thể tu tập
    Chỉ dùnd những gỉa danh
    GọI là có các tướng
    Dường như là huyễn hóa
    Không trụ không xứ sở
    Biết rõ nó tánh không
    Ðó tên ý tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là nam tướng tam muội ?

    Tự cho mình nam tử
    Thấy kia là nữ nhơn
    Do tâm phân biệt nầy
    Mà sanh lòng ái dục
    Lòng dục vô sở hữu
    Tâm tướng bất khả đắc
    Do vì vọng phân biệt
    Nơi thân tưởng là nam
    Trong ấy không thiệt nam
    Ta nói như dương diệm
    Biết nam tướng là không
    Ðó tên nam tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là nữ tướng tam muội ?

    Tứ đạI gỉa làm nữ
    Trong ấy vô sở hữu
    Lòng phàm phu mê hoặc
    Nắm lấy cho là thiệt
    Nữ nhơn như huyễn hóa
    Người ngu chẳng biết được
    Vì vọng thấy nữ tướng
    Mà sanh lòng nhiễm trước
    Ví như huyễn hóa nữ
    Mà chẳng thiệt nữ nhơn
    Kẻ vô trí mê hoặc
    Bèn sanh tưởng ái dục
    Biết rõ như vậy rồi
    Tất cả nữ không tướng
    Tướng nữ đều vắng bặt
    Ðó tên nữ tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là đồng nam tướng tam muội ?

    Như cây không rễ nhánh
    Thì chẳng có được hoa
    Vì đã chẳng có hoa
    Nên trái cũng chẳng sanh
    Do không có nữ nhơn
    Ðồng nam cũng chẳng có
    Tùy ở ngườI phân biệt
    Gỉa gọI tên như vậy
    Biết rõ nữ nhơn ấy
    Và đồng nam chẳng có
    Quan sát dược như vậy
    Là đồng nam tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là đồng nữ tướng tam muộI ?

    Như chặt cây đa la
    Trọn chẳng còn sống lại
    Ðâu có người trí huệ
    Cầu trái hột trong ấy
    Nếu ai biết rõ được 
    Các pháp là vô sanh
    Chẳng nên khởi phân biệt
    Ðồng nữ là năng sanh
    Lại như hột lúa cháy
    Mầm lúa chẳng còn sanh
    Ðồng nữ cũng như vậy
    Là đồng nữ tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào gọi là thiên tướng tam muội ?

    Nhơn tính tâm thanh tịnh
    Và do các nghiệp lành
     Thọ thắng báo chư Thiện
    Thân đoan chánh xinh đẹp
    Các cung điện trân bửu
    Chẳng phảI do xây dựng
    Hoa đẹp mạn đà la
    Cũng không ngưới gieo trồng
    Bất tư nghị như vậy
    Ðều do sức nghiệp lành
    Hiện được các thứ tướng
    Như lưu ly trong sạch
    Thân đẹp xinh như vậy
    Và các cung điện thảy
    Ðều từ hư vọng sanh
    Ðó tên thiên tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào gọI là lonf tướng tam muộI ?

    Thọ lấy thân loài rồng
    Do chẳng tu hạnh nhẫn
    NổI mây tuôn mưa lớn
    Ðầy khắp Diêm Phù Ðề
    Chẳng từ thuở trước sau
    Cũng chẳng ở chặng giữa
    Mà hay tuôn nước mưa
    LạI chảy về biển cả
    Các loài rồng như vậy
    Huân tập tánh sai biệt
    KhởI lên các thứ nghiệp
    Nghiệp cũng không có sanh
    Tất cả chẳng chơn thiệt
    Kẻ ngu cho là có
    Biết rõ được như vậy
    Ðó là long tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là dạ xoa tướng tam muội ?

    Là thân đại dạ xoa
    Từ nơi tự tâm khởi
    Trong ấy không có thiệt
    Vọng sanh sự khủng bố 
    Cũng không có lòng sợ
    Mà sanh lòng kinh sợ
    Vì quán phap chẳng thiệt
    Vô tướng vô sở đắc
    Chỗ không vô tịch tịnh
    Hiện tướng dạ xoa ấy
    Biết hư vọng như vậy
    Là dạ xoa tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là càn thát bà tướng tam muội ?

    Họ thiệt không có tướng
    Danh ngôn giả bịa đặt
    Biết tướng là chẳng tướng
    Là càn thát tam muội

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là a tu la tướng tam muội ?

    Ấn định tướng tu la
    Tướng ấy vốn vô sanh
    Vô sanh nên vô diệt
    Là tu la tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là ca lâu la tướng tam muội ?

    Lấy vô thân làm thân
    Danh tự giả bịa đặt
    Danh tướng vô sở hữu
    Là ca lâu tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là khẩn na la tướng tam muội ?

    Pháp vô tác làm tác
    Gọi là khẩn na la
    Biết đó là vô sanh
    Khẩn na la tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là ma hầu la gìa tướng tam muội ?

    Kia do nơi danh tự
    Theo thế tục an lập
    Trong ấy không có pháp
    Mà vọng khởI phân biệt
    Biết rõ phân biệt ấy
    Tự tánh vô sở hữu
    Vì tướng ấy tịch tịnh
    Ma hầu la tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là địa ngục tướng tam muội ?

    Ðiạ ngục không vô tướng
    Tánh ấy rất thanh tịnh
    Trong ấy không tác giả
    Do Tự phân biệt sanh
    Lúc ta ngồI đạo tràng
    Biết tướng vô sanh nầy
    Vì vô tướng vô sanh
    Tánh ấy như hư không
    Tướng ấy đều tịch tịnh
      Là điạ ngục tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư ợi i Thế nào là súc sanh tướng tam muội ? 

    Như mây hiện hình sắc
    Trong ấy không có thiệt
    Làm cho ngườI vô trí
    Nơi ấy sanh mê hoặc
    Nơi loài súc sanh kia
    Thọ lấy các thứ thân
    Như mây trong hư không
    Hiện ra các sắc tượng
    Biết rõ nghiệp như huyễn
    Chẳng sanh lòng mê hoặc
    Tướng ấy vốn tịch tịnh
    Là súc sanh tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là diêm ma la giới tướng tam muội ?

    Gây tạo thuần nghiệp ác
    Và tạo các nghiệp tạp
    Lưu chuyển cõi Diêm La
    Thọ lấy các sự khổ
    Thiệt không cõi Diêm La 
    Cững không người lưu chuyển
    Tự tánh vốn vô sanh
    Các khổ dường cảnh mộng
    Nếu quán được như vậy
    Diêm ma la tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là tham tướng tam muội ?

    Tham từ phân biệt sanh 
    Phân biệt cũng chẳng có
    Vô sanh cũng vô tướng
    Trụ xứ bất khả đắc
    Tham tánh như hư không
    Cũng không có kiến lập
    Phàm phu vọng phân biệt 
    Do đó sanh tham nhiễm
    Pháp tánh vốn vô nhiễm
    Thanh tịnh như hu không
    Tìm cầu khắp mườI phương
    Tánh nó bất khả đắc
    Vì chẳng biết tánh không
    Thấy tham sanh lòng sợ
    Không có sợ sanh sợ
    Ở đâu đươc an vui
    Ví như kẻ ngu si
    Sợ sệt cõi hư không
    Vì sợ mà rong chạy
    Lánh không chẳng muốn thấy
    Hư không khắp tất cả
    Chỗ nào rờI nó được
    Vì kẻ ngu mê hoặc
    Sanh điên đảo phân biệt
    Tham vốn không tự tánh
    Vọng sanh tâm nhàm lìa
    Như ngườI muốn lánh không
    Trọn không thoát khỏI được
    Các pháp tánh tự lìa
    Dường như là Niết bàn
    Chư Phật trong ba đờI
    Biết tham tánh là không
    Ở trong cảnh giớI ấy
    Chưa lúc nào bỏ lìa 
    NgườI kinh sợ nơi tham
    Suy gẫm cầu giảI thoát
    Tham tự tánh như vậy
    Rốt ráo thường thanh tịnh
    Lúc ta chứng Bồ đề
    Rõ thấu đều bình đẳng
    Nếu chấp tham là có
    Sẽ bỏ lìa nơi tham 
    Do hư vọng phân biệt
    Mà nói bỏ lìa tham
    Ðây là tâm phân biệt 
    Thìệt không gì để bỏ
    Tánh nó bất khả đắc
    Cũng không có diệt hoại
    Trong bình đẳng thiệt tế
    Không giảI thoát phân biệt
    Nếu giảI thoát nơi tham
    Nơi không cũng giảI thoát
    Hư không cùng vớI tham
    Vô tận vô sai biệt
    Nếu ai thấy sai biệt
    Phật bảo phải bỏ rời
    Tham thiệt không có sanh
    Vọng khởI sanh phân biệt 
    Tham ấy bổn tánh không
    Chỉ có danh tự giả
    Chẳng nên do giả danh
    Mà sanh lòng chấp trước
    Vì biết tham không nhiễm
    Thì là rốt ráo không
    Chẳng do diệt hoạI tham
    Mà được nơi giảI thoát
    Pháp tham ở Phật pháp
    Bình đẳng tức Niết Bàn
    NgườI trí phảI nên biết
    Rõ tham tịch tịnh rồI
    Nhập vào cõi tịch tịnh
    Ðó tên tham tam muội.

    LạI nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào là sân tướng tam muộI ?

    Do nhơn duyên hư vọng
    Mà khởI lòng giận dữ
    Không ngã chấp làm ngã
    Và do tiếng thô ác
    KhởI lòng sân quá mạnh
    Dường như là á độc
    Âm thanh và giận dữ
    Rốt ráo vô sở hữu
    Như Dùi gỗ ra lửa
    Cần nhờ sức các duyên
    Nếu duyên chẳng hòa hiệp
    Thì lửa chẳng sanh được
    Âm thanh chẳng đẹp ý
    Rốt ráo vô sở hữu
    Biết thanh tánh là không
    Sân cũng chẳng còn sanh
    Sân chẳng ở nơi thanh
    Cũng chẳng ở trong thân
    Nhơn duyên hòa hiệp khởI
    RờI duyên chẳng sanh được
    Như nhơn sữa làm duyên
    Hòa hiệp sanh tô lạc
    Sân tự tánh không khởI
    Nhơn nơi tiếng thô ác 
    NgườI ngu chẳng biết được
    Nhiệt não tự đốt cháy
    PhảI nên biết như vầy
    Rốt ráo vô sở hữu
    Sân tánh vốn tịch tịnh
    Chỉ có nơi giả danh
    Giận dữ tức thiệt tế
    BởI nương chơn như khởI
    Biết rõ như pháp giớI
    Thì gọI sân tam muộI

    Lạy nầy Văn Thù Sư LợI ! Thế nào là si tướng tam muộI ?

    Vô minh thể tánh không
    Vốn tự không sanh khởi
    Trong ấy không chút pháp 
    Mà nói được là si
    Phàm phu nơi vô si
    Hư vọng sanh lòng si
    Nơi vô trước sanh trước
    Dường như gút hư không
    Lạ thay cho kẻ ngu
    Chẳng nên làm mà làm
    Các pháp đều chẳng có
    Do nhiễm phân biệt sanh
    Như muốn lấy hư không
    An trí ở một chỗ
    Dầu trảI ngàn muôn kiếp
    Không hề tích tụ được
    Kẻ ngu từ hồI nào
    TrảI bất tư nghị kiếp
    Vọng khởI gút ngu si
    Mà không chút phần tăng
    Như người lấy hư không
    Không bao giờ tăng giảm
    Nhóm ngu si nhiều kiếp
    Không tăng giảm cũng vậy
    Lại như ống bễ kia
    Rút gió không hạn lượng
    Ngu si mê dục lạc
    Không lúc nào chán đủ
    Si ấy vô sở hữu
    Không căn không trụ xứ
    Vì căn chẳng phải có
    Cũng không si để tận
    Bởi vì si vô tận
    Biên tế bất khả đắc
    Thế nên các chúng sanh 
    Ta chẳng thể làm tận
    Dầu ta trong một ngày
    Ðộ được cõi Ðại Thiên
    Có bao nhiêu chúng sanh
    Ðều khiến nhập Niết Bàn
    Trải qua bất tư nghì
    Vô lượng ngàn muôn kiếp
    Ngày ngày độ như vậy
    Chúng sanh giới chẳng tận
    Si giới chúng sanh giới
    Cả hai đều vô tướng
    Nó đều như huyễn hoá
    Nên chẳng làm tận được
    Si tánh với Phật tánh
    Bình đẳng không sai khác
    Nếu phân biệt nơi Phật
    Người ấy ở ngu si
    Si và Nhứt thiết trí
    Tánh đều bất khả đắc
    Nhưng các chúng sanh ấy
    VớI si đều bình đẳng
    Chúng sanh bất tư nghị
    Si cũng bất tư nghị
    Do vì bất tư nghị
    Chẳng nên khởI phân biệt
    Tâm tư duy như vậy
    Suy lường bất khả đắc
    Si cũng chẳng thể lường
    Vì nó không biên tế
    Ðã không có biên tế
    Từ đâu mà sanh được
    Vì tự tánh vô sanh
    Tướng cũng bất khả đắc
    Biết si không có tướng
    Quán Phật cũng như vậy
    PhảI nên biết như vậy
    Tất cả pháp không hai
    Tánh si vốn tịch tịnh
    Chỉ có danh tự giả
    Lúc ta chứng Bồ đề
    Cũng rõ si bình đẳng
    Quán sát được như vậy
    Gọi là si tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là bất tiện tam muội ?

    Biết tham sân si ấy
    Tất cả các phiền não
    Có bao nhiêu hành tướng
    Hư vọng không chơn thiệt
    Quan sát được như vậy
    Là bất thiện tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là thiện pháp tam muội ?

    Các ông phải nên biết
    Những người sở thích thiện
    Tâm niệm đều sai khác
    Ðều đồng nơi một hạnh
    Dùng một tướng xuất ly
    Mà biết rõ tất cả
    Vì thảy đều tịch tịnh
    Gọi là thiện tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là hữu vi tam muội ?

    Các ông phải nên biết 
    Tất cả pháp hữu vi
    Chẳng phải sở tạo tác
    Cũng không cân lường được
    Ta biết rõ các hành
    Tánh nó không chứa họp
    Tất cả đều tịch tịnh
    Gọi hữu vi tam muội.

    Lại nầy Văn Thù Sư Lợi ! Thế nào là vô vi tam muội ?

    Tánh vô vi tịch tịnh
    Trong ấy không sở trước
    Cũng lạI chẳng xuất ly
    Chỉ có danh tự giả
    Vì chúng sanh chấp trước
    Mà nói danh tự ấy
    Biết rõ được như vậy
    Là vô vi tam muội ».

    Lúc đức Thế Tôn nói kệ bất tư nghị vi diệu như vậy,có chín muôn hai ngàn Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn.Ba muôn sáu ngàn Tỳ Kheo dứt hết phiền não tâm được giải thóat.Bảy mươi hao muôn ức na do tha chư Thiên, sáu ngàn Tỳ Kheo Ni,một trăm tám mươi muôn ưu Bà Tắc,hai ngàn hai trăm Ưu Bà Di đều phát tâm Vô thượng Bồ đề.

    Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch rằng : «  Bạch đức Thế Tôn ! Mong đức Thế Tôn vì chư Bồ Tát mà diễn nói danh tự của các môn tam muội.Làm cho ngườI nghe các căn thông lợI được trí huệ sáng đốI vớI các pháp, chẳng bị khuất phục bởI những chúng sanh tà kiến, cũng là cho họ chứng được bốn vô ngạI biên tài, nơi một văn tự mà biết được các thứ văn tự,nơi các thứ văn tự .LạI dùng vô biên biện tài và các chúng sanh mà khéo thuyết pháp, cũng làm cho chứng được thậm thâm pháp nhẫn, trong một sát na biết tất cả hành,tất cả hành ấy mỗI hành lạI có vô biên hành tướng đều biết rõ được cả ».

    Ðức Phật dạy : «  Nầy Văn Thù Sư LợI ! Có tam muộI tên Vô biên ly cầu .Nếu Bồ Tát được tam muộI ấy thì hiện được tất cả các sắc thanh tịnh.

    Có tam muội tên Khả úy diện.Bồ Tát được tam muộI ấy có oai quang lớn chói che nhựt nguyệt.

    Có tam muộI tên Xuất diệm quang.Bồ Tát được tam muội ấy thì chói che được ánh sáng của tất cả Ðế Thích và Phạm Thiên.

    Có tam muộI tên Xuất ly.Bồ Tát được tam muội ấy làm cho chúng sanh xuất ly tất cả tham sân si.

    Có tam muộI tên Vô ngạI quang.Bồ Tát được tam muộI ấy thì chiếu sáng được tất cả Phật quốc.

    Có tam muộI tên Vô vong thất.Bồ Tát được tam muội ấy thì thọ trì được giáo pháp của chư Phật nói,và cũng có thể vì người khác mà diễn nói nghĩa Phật pháp.

    Có tam muộI tên Lôi âm.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo có thể hiển thị tất cả ngôn âm lên đến trời Phạm Thiên.

    Có tam muộI tên Hỉ lạc.Bồ Tát được tam muộI ấy có thể làm cho chúng sanh đầy đủ hỉ lạc.

    Có tam muộI tên Hỉ vô yểm.Bồ Tát được tam muộI ấy, có ai thấy nghe Ngài đều không chán đủ.

    Có tam muộI tên Chuyên nhứt cảnh nan tư công đức.Bồ Tát được tam muội ấy có thể thị hiện tất cả thần biến.

    Có tam muộI tên Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo tuyên nói được tất cả ngữ ngôn.Trong một chữ nói tất cả chữ biết tất cả chữ đồng như một chữ.

    Có tam muộI tên Siêu nhứt thiết đà la ni vương.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo biết rõ được các đà la ni.

    Có tam muộI tên Nhứt thiết biện tài trang nghiêm.Bồ Tát được tam muội ấy thì khéo phân biệt được tất cả văn tự và các thứ ngôn âm.

    Có tam muội tên Tích tập nhứt thiết thiện pháp.Bồ  Tát được tam muội ấy có thể làm cho chúng sanh đều nghe tiếng Phật,tiếng Pháp, tiếng Tăng,tiếng Thanh Văn,tiếng Duyên Giác,tiếng Bồ Tát, tiếng Ba la mật.Lúc Bồ Tát trụ tam muội như vậy thì làm cho các chúng sanh nghe tiếng ấy không dứt ».

    Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát bạch rằng : «  Mong đức Thế Tôn gia hộ cho tôi được vô ngại biện tài để nói công đức thù thắng của pháp môn ấy ».

    Ðức Phật nói : «  Lành thay, lành thay ! Tùy ý nguyện của ông ».

    Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát lại bạch rằng : «  Bạch đức Thế Tôn ! Nếu có Bồ Tát nơi pháp môn ấy mà thọ trì đọc tụng không có nghi hoặc, thì nên biết rằng người nầy ở trong thân hiện tại được bốn thứ biện tài là thiệp tật biện tài, quảng đại biện tài,thậm thâm biện tài và vô tận biện tài.Tâm Ngài thường hộ niệm các chúng sanh tùy chỗ tu hành của họ. Người nào sắp thối thất hư hoại, Ngài đều có thể giác ngộ họ cho họ không thối hoại ».

    Ðức Thế Tôn khen : «  Lành thay, lành thay ! Văn Thù Sư Lợi có thể khéo phân biệt được nghĩa ấy.Như người bố thí được báo giàu có lớn, người trì cấm giới quyết định sanh thiên,người có thể thọ trì được kinh điển nầy thì hiện đời được biện tài quết không hư vọng.

    Như ánh sáng mặt trời chiếu ra thì trừ được tối tăm,như Bồ Tát ngồi tòa Bồ đề thành Ðẳng Chánh Giác quyết định không nghi, người thọ trì đọc tụng kinh điển nầy thì hiện đời dược biện tài cũng như vậy.

    Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Nếu có người ở hiện đời muốn cầu biện tài thì nơi kinh điển nầy phải tin ưa thọ trì đọc tụng vì người mà giảng rộng chớ sanh lòng nghi hoặc ».

    Bấy giờ Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát bạch rằng : «  Bạch đức Thế Tôn ! Sau khi đức Phật nhập Niết Bàn ,nơi pháp môn nầy ,nếu chư Bồ Tát tâm không nghi hoặc mà thọ trì đọc tụng rộng giảng thuyết cho người,thì tôi sẽ nhiếp thọ thêm biện tài cho họ ».

    Lúc ấy Ma Vương Ba Tuần lo rầu khổ não rơi lệ đến chỗ đức Phật mà bạch rằng : «  Ngày xưa lúc đức Như Lai chứng Vô thượng Bồ đề , tôi đã lo rầu rồi. Hôm nay Như Lai lại nói pháp môn nầy càng thêm khổ não nhiều như trúng phải tên độc.Nếu chúng sanh nghe  kinh điển nầy quyết định không thối chuyển nơi Vô thượng Bồ đề mà bát Niết Bàn, làm cho thế giới tôi phải trống rỗng.

    Ðức Như Lai Ứng Cúng Ðẳng Chánh Giác hay làm cho tất cả chúng sanh khổ sở đều được an vui. Mong đức Như Lai thương xót chẳng hộ niệm kinh diển nầy cho tôi được an ổn hết lo khổ ».

    Ðức Thế Tôn bảo Ba Tuần rằng : «  Chớ cưu lòng lo khổ.Nơi pháp môn nầy ta chẳng gia hộ.Các chúng sanh cũng chẳng Niết Bàn ».

    Thiên ma Ba Tuần nghe lời nầy vui mừng hết buồn lo liền ẩn mất.

    Ngài Văn thù Sư Lợi Bồ Tát tiến lên bạch rằng : » Có mật ý gì mà đức Thế Tôn hôm nay bảo Ba Tuần rằng Phật chẳng gia hộ pháp môn nầy ? ».

    Ðức Phật phán : «  Nầy Văn Thù Sư Lợi ! Dùng không gia hộ để gia hộ pháp môn này , vì thế nên ta nói với Ba Tuần như vậy.Bởi tất cả pháp bình đẳng thiệt tế đều quy nơi chơn như đồng với pháp giới rời các ngôn thuyết,vì tướng bất nhị nên không có gia hộ.

    Do lời thành thiệt không có hư vọng của ta như vậy có thể làm cho kinh điển nầy rộng lưu truyền tại Diêm Phù Ðề ».

    Phán dạy xong, đức Thế Tôn bảo Ngài A Nan rằng : «  Nầ A Nan ! Kinh nầy tên là Phổ Nhập Bất Tư Nghị Pháp Môn.

    Nếu ai thọ trì được kinh điển nầy là thọ trì tám muôn bốn ngàn pháp môn,hai sự thọ trì ấy đồng nhau không sai khác.Tại sao vậy ? Ví ta ở nơi kinh nầy thông đạt rồi mới có thể vì các chúng sanh mà diễn nói tám muôn bốn ngàn pháp môn.

    Thế nên ,nầy A Nan ! ông phảI khéo hộ trì đọc tụng lưu thông pháp môn nầy chớ để quên mất ».

    Ðức Phật nói kinh nầy rồ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát , Ngài Vô Cấu Tạng Bồ Tát, Tôn giả A Nan và các thế gian Thiên, Nhơn A Tu La v.v… tất cả chúng hội nghe lời đức Phật dạy đều rất vui mừng tin thọ phụng hành.
     
Pháp Hội Văn Thù Sư Lợi Phổ Môn
Thứ Mười 

HẾT

MỤC LỤC


Tác giả bài viết: HT. Thích Trí Tịnh
Nguồn tin: Thư Viện Hoa Sen
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 338
  • Hôm nay: 46601
  • Tháng hiện tại: 432385
  • Tổng lượt truy cập: 84243468

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile