Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Kho Báu Nhà Thiền - Phần Một

Đăng lúc: Thứ tư - 16/05/2012 11:36 - Người đăng bài viết: Thiền Lâm
Hình Thiền

Hình Thiền

Kho Báu Nhà Thiền

Thiền sư Văn Thủ

Dịch giả: Ðịnh Huệ

- - -o0o- - -

Mục lục


Phần Một

Tựa của Lương Tài Nguyên Minh

Bạt của Huệ Tuần

Chương 1

Lòng tin quyết định

Chương 2

Sanh tử là việc lớn

Chương 3

Chẳng phạm phép tắc Phật Tổ

Chương 4  

Lòng hổ thẹn

Chương 5

Chọn Thầy lựa bạn

Chương 6  

Tin nhận đúng như thật

Chương 7

Học ngôn hạnh người xưa

Phần Hai

Chương 8

Dụng tâm trong lúc bệnh

Chương 9

Phân biện tà chánh

Chương 10

Học giải là bệnh

Chương 11

Tu tập tọa thiền

Chương 12

Kiến tánh minh tâm

Chương 13

Công phu thoại đầu làm chủ yếu

Chương 14

Tham thẳng tắt một đường

Chương 15

Phương tiện Tổ sư từ bi chỉ dạy

Chương 16

Con đường hướng thượng

Phần Ba

Chương 17

Lãnh hội chỗ tâm yếu

Chương 18

Kiến địa cạn sâu

Chương 19

 Ngộ bất tất hiềm tri giải

Chương 20

Biện câu khách chủ

Chương 21

Công phu thực tiễn

Chương 22

Nơi hoàn toàn thôi nghỉ

 

Tựa

 

Ðạo vốn vô ngôn; do ngôn mà hiển đạo, thế nên có mạn lục, có bảo huấn, có bút ngữ, có võ khố.

Nay đây, có Hòa thượng Văn Thủ, tự Nhất Ty (1607 – 1648) người nước Nhật Bản, lúc đầu ở ẩn nơi Tây Cương thuộc đất Lạc Tây, về sau Ngài về núi Ðan mai danh ẩn tích. Nhưng các hàng xuất gia khắp chốn hải hồ tìm đến bên Ngài kết am tranh tu học số đông không kể xiết. Rốt cuộc, danh Ngài thấu đến cửu trùng, vua thỉnh Ngài trụ trì hai chùa Pháp Thường và Linh Nguyên, ban hiệu là Ðịnh Huệ Minh Quang Phật ÐảnhQuốc Sư. Những khi nhàn rỗi, Ngài xem lại gương xưa góp nhặt những di ngôn, vãng hạnh của Phật Tổ và thêm vào đó lời phẩm bình biên tập lại thành bộ Truy Môn Bảo Tạng Tập (trong bản dịch nầy tạm lấy nhan đề là Kho Báu Nhà Thiền). Bộ sách nầy thật là cây đuốc huệ trong đường tăm tối, là thuốc hay cho người bệnh, chẳng những lợi cho người đương thời mà cũng là tiếp độ kẻ hậu côn, thật không có gì hơn vậy.

Than ôi! Vào niên hiệu Bảo Vĩnh vì ảnh hưởng thời cuộc nên đâu có khắc bản và muốn lưu hành trong đời cũng không làm sao được.Ngày gần đây, có một vị Tăng phát tâm khắc lại tập này để rộng truyền bá lưu thông, lúc khởi công có nhờ tôi viết bài tựa. Từ chối không được, tôi đành phải quên mình kiến thức hẹp hòi mà viết vài lời quê kệch để ở đầu sách. Các vị tham huyền thừa sức xem qua bộ sách nầy hết lòng khâm phục, mỗi chữ mỗi lời quả biết là cốt tủy của Quốc sư vậy.

Ở đây, phải chăng do ngôn mà hiển đạo? Vậy thì, mở rộng kho báu lấy ra của báu nhà mình là đây vậy. Tuy nhiên, chìa vàng khóa ngọc nay về tay ai, chớ nói Tân La tại Hải Ðông!

Tiền Hoa Nhạc, Lương Tài Nguyên Minh

Cẩn soạn                  

 

---o0o---

Chương 1


Học đạo cần phải sanh lòng tin quyết định

 

Phật dạy:

Lòng tin là gốc đạo; là mẹ các công đức, nuôi lớn hết thảy các pháp lành, dứt trừ lưới nghi, ra khỏi dòng ái, mở bày đạo Vô Thượng Niết bàn.

Lại nói: Lòng tin hay tăng trưởng trí công đức. Lòng tin hay đưa người đến địa vị Như Lai.

Kinh nói: Lòng tin hay dứt hẳn gốc phiền não.

Lại bảo: Lòng tin có khả năng làm cho người mau chứng được môn Giải thoát.

Hòa thượng Cao Phong Diệu nói:

Bậc thượng như Phật như Tổ vượt lên bờ bên kia, chuyển bánh xe pháp lớn nhiếp vật lợi sanh, không có một vị nào chẳng do từ trong một chữ TIN nầy nên chẳng thành Thánh đạo, lại bị rơi vào địa ngục.

Hoa Nghiêm Quán nói:

Có tin mà không hiểu thì tăng trưởng vô minh. Có hiểu mà không tin thì thêm lớn tà kiến. Tin hiểu thông suốt mới là gốc của sự tu hành.

Lại nói: Có lòng tin mà không tin pháp giới thì lòng tin ấy là tà.

Thiền sư Ðại Hụê nói:  

Ðủ chánh tín, lập chánh chí, đấy là nền tảng để thành Phật làm Tổ.

 

Ngài Xá Lợi Phất nói:

Dùng lòng tin được vào, chứ chẳng phải do phần trí của tôi.

 

Luận Trí Ðộ nói:

Phật dạy, nếu người có lòng tin thì có thể vào trong biển pháp lớn của ta, có thể được quả Sa môn, không uổng cạo tóc, nhuộm áo. Nếu người không có lòng tin thì không thể vào biển pháp lớn của ta, như cây khô chẳng sanh hoa quả, chẳng đắc quả Sa môn, dẫu có cạo tóc, nhuộm áo, đọc các kinh điển, có khả năng hỏi, có khả năng đáp đi nữa, ở trong Phật pháp cũng chỉ vô ích không được chi cả. Do vì nghĩa này nên trong Phật pháp trước hết phải lấy lòng tin làm căn bản.

 

Kinh nói: Biển lớn Phật pháp do lòng tin mà vào được.

 

---o0o---

Chương 2


Học đạo cần phải tin được sanh tử là việc lớn

 

Quốc sư Vô Nghiệp nói:

Chỉ vì cơm ăn áo mặc mà dối Hiền lừa Thánh, cầu được thí chủ mang cơm áo đến; bậc có con mắt trí hụê biết được tâm người, coi đó như ăn máu mủ, rồi phải đền trả lại cho người.

Lại nói: Lúc lâm chung còn một mảy lông tình phàm lượng thánh chẳng hết, một mảy trần chưa quên thì theo niệm thọ sanh năm ấm nặng nhẹ như vào thai lừa bụng ngựa, cho đến chốn địa ngục một phen vào lò lửa vạc sôi thì những điều ghi nhớ, ức tưởng, kiến giải, trí hụê từ trước nhất thời đều mất hết, y như trước trở lại làm thân con muỗi con kiến.

(1) Người học Phật ngày nay lấy sự tích tập học hỏi nhiều ngày làm công phu, chẳng ra ngoài tám chữ: “ghi nhớ, ức tưởng, kiến giải, trí hụê.” Những thứ này nếu như nhất thời mất đi thì lấy cái gì đối địch với sanh tử? Người học Phật chân chánh đâu chẳng lo lắng ư!

Thiền sư Ðại Hụê nói:

Như tôi lúc chưa ngủ, điều Phật ngợi khen thì y theo đó mà làm, điều Phật quở trách tôi chẳng dám phạm. Trước kia y chỉ nơi thầy, tự thực hiện công phu được chút sở đắc thì lúc tỉnh thức đều được thọ dụng. Song đến lúc lên giường mơ màng nửa thức nửa ngủ thì làm chủ tể không được, mộng thấy được vàng bạc thì trong mộng mừng rỡ vô hạn, mộng thấy người dùng dao gậy bức hiếp và các cảnh giới dữ dằn thì trong mộng sợ hãi kinh hoàng. Tôi tự nghĩ: Thân nầy hãy còn, chỉ có ngủ mà làm chủ không được, huống là khi đất, nước, lửa, gió phân tán, các thứ khổ bừng dậy làm sao chẳng bị lôi kéo, nghĩ đến đây mới bắt đầu lo lắng.

Ngài Diệu Hỷ (2) từ năm hai mươi đến năm ba mươi sáu tuổi trong lòng ôm một mối nghi lớn. Một hôm, bỗng nhờ một lời nói của Thiền sư Viên Ngộ, ngài mới được an ổn, bởi vì ngài có lòng sợ sanh tử rất thiết tha, lúc chẳng rõ pháp đối địch với sanh tử, ngài không chịu thôi nghỉ. Người học đạo ngày nay ban đầu không có chánh niệm sợ sanh tử, chỉ đem tâm chí thô thiển tham thiền học đạo, mới được chút ít kiến giải đã cho là đủ. Than ôi! Cổ kim khác nhau là chổ này vậỵ.

Sách Nhân Thiên Bảo Giám chép:

Thiền sư Trí ở núi Vân Cái, Hồ Nam, ban đêm ngồi trong phương trượng bỗng nghe mùi cháy khét và tiếng gông xiềng, liền thấy có một người mang gong có lửa, ngọn lửa còn cháy bập bùng không dứt, cái đuôi gong tựa vào then cửa.

Trí kinh sợ hỏi:

- Ông là ai mà phải khổ sở thế này?

Người mang gông đáp:

- Tôi tên Thủ Ngung, trước kia trụ ở núi này, vì không biết nên tôi đem vật đàn việt cúng chúng tăng ra tạo tăng đường mà nay tôi phải chịu cái khổ nàỵ

Trí hỏi:

- Làm thế nào để được khỏi ?

Ngung đáp:

- Xin ông vì tôi thiết trai cúng dường chúng tăng bằng giá tăng đường thì tôi có thể khỏị

Trí đem của cải mình bồi thường đúng như lời Ngung nói. Một đêm, nằm mộng thấy Ngung đến nói: “Nhờ sức của thầy, tôi được khỏi khổ địa ngục sanh vào trời người, ba đời sau tôi sẽ được làm tăng”.

Ngày nay cái then cửa hãy còn vết cháỵ

Thanh Quy

Con Vương Kinh Công tên là Phương hay làm điều bất thiện. Sau khi Phương chết, Kinh Công bỗng thấy Phương mang xiềng sắt đứng tựa cửa. Nhân đó, Kinh Công mới sửa nhà thành chùa để truy tiến phước cho Phương ở cõi âm.

Danh Thần Ngôn Hạnh Lục


Thiền sư Sơn Am Thứ Trung nói:

Ngài Nghĩa Ðoạn Nhai ở núi Thiên Mục, Hàng Châu, gặp ngài Cao Phong nhận được y chỉ, người quy hướng rất đông. Sau khi chết, Nhai báo mộng sanh vào nhà họ Tề ở Ngô Hưng; về sau làm tăng tên Thoại Ứng tự Bảo Ðàm, từ nhỏ đến lớn mỗi ngày thọ người lễ bái cúng dường, Lúc tôi ngụ ở Thiên Giới, ngẫu nhiên Bảo Ðàm cũng ở đó, sống với nhau một thời gian khá lâu, tôi quan sát hành vi của ông ấy thấy cũng trung bình như người thường không khác.

Tiền thân thật là người phi thường sao lại liền quên điều đã tu tập đời trước như thế! Người xưa nói: “Thanh văn còn mờ tối lúc xuất thai, Bồ Tát còn u mê khi cách ấm”. Thế nên, người tu hành há chẳng thận trọng ư!

Sơn Am Tạp Lục

 

Lại nói:

Niên hiệu Hồng Vô, mùa đông năm Canh Tuất, Ðiền Tử Trung từ Phụng Hóa đến thăm tôi ở Thái Bạch, cùng ở chung với nhau một thời gian khá lâu. Một hôm, tôi nói: “Kinh Kim Cang Bát Nhã, cõi Diêm La khen đó là kinh công đức, cho nên người đời tiến công thường hay đọc tụng kinh này”.

Tử Trung bèn thệ thọ trì kinh ấy suốt đời.

Một hôm, nhằm ngày giỗ mẹ, Tử Trung phát tâm tụng kinh này một trăm biến để tiến vong. Buổi sáng, vừa ngồi dậy trên giường mới tụng được chín biến, thấy quỷ tốt dắt một bà lão mang gông đến quỳ trước giường, đầu tóc che mặt, nhìn kỹ mới biết là vong mẫu. Tử Trung bối rối chẳng phải biết làm sao, chốc lát quỷ tốt dẫn đi như là muốn mở gong. Lúc đó, Tử Trung khóc lớn, hận không tụng kinh và hỏi han mẹ kịp thời. Tôi nói: “Công đức kinh này rất lớn, chẳng thể thí dụ được, nên Tử Trung phát tâm trì tụng thì liền thầm cảm được cõi âm khiến cho mẹ con được gặp nhau để cởi sự khổ não. Ô hô!  To tát thay!”.

Sơn Am Tạp Lục

 

Thiền sư Huyền Sa Bị nói:

Ngày nay nếu chẳng được liễu đạt thì sáng mai vào thai lừa bụng kéo cày chở nặng hàm thiết mang yên cối xay mài giã, nấu đốt trong nước sôi lửa bỏng không phải là dễ chịu, phải nên sợ hãi!

 

Tôn  giả Cưu Ma Ða La nói:

Quả thiện ác có ba thời. Kẻ phàm phu chỉ thấy người nhân từ yểu mạng, kẻ hung bạo sống lâu, kẻ ác nghịch gặp điều lành, người trung nghĩa mắc điều dữ, bèn cho rằng không có nhân quả tội phước, mà chẳng biết rằng nhân quả theo nhau như bóng theo hình, như vang theo tiếng không sai một mảy, dẫu cho trải qua trăm nghìn muôn kiếp cũng chẳng tiêu mòn.

 

Kinh nói:

Giả sử trải qua trăm nghìn kiếp, nghiệp tạo tác cũng chẳng mất. Lúc nhân duyên hội ngộ thì quả báo đến phải tự chịu.

 

Quốc sư Vô Nghiệp nói: Than ôi! Ðược thân người như đất dính móng tay, mất thân người như đất khắp quả đất. Thật đau đớn thay!

 

---o0o---

Chương 3


Học đạo cần phải chẳng phạm phép tắc của Phật Tổ

 

Trí Luận nói:

Học tập sách sở bên ngoài Phật pháp như cầm dao cắt bùn, bùn không đứt mà dao bị cùn lụt. Lại như gió ánh mặt trời khiến cho mắt người ta bị tối.

Tăng lữ ngày nay chưa hiểu được nửa bổn kinh, một quyển lục, mà lại tập tành thơ văn và học các sách vở bên ngoài, thật đáng xót thương! Tuy nhiên bậc cao tăng thuở xưa học thông các môn bên ngoài, rành các sách vở , chẳng có ý gì khác hơn là xô dẹp ngọai đạo, trợ giúp cho sự giáo hóa của đạo Phật mà thôi. Vì vậy, đuổi bọn nho cuộc kiến, dẹp bọn tục sĩ thiên chấp để thành người hộ pháp cho cả trong lẫn ngoài là sự lão thông ấy vậy. Như Ðại Ðiện đối với Hàn Dũ, Minh Giáo đối với Âu Dương, đều là loại người này, há đồng với các ông Tăng tầm thường ngày nay khoe khoang tài năng, tham danh cầu lợi ư!

Xin thưa cùng hàng đạo lưu là, vật chứa có giới hạn, tuổi đời có số lượng, hãy giữ gìn dao chớ có cắt bùn, chớ đọc các sách thơ văn ngoại điển, nếu may mắn có gặp được văn tự của Phật Tổ, công phu nếu có sức thừa thì nên xem các lời dạy ấy.

Thiền sư Trí Giác nói:

Nếu chẳng bỏ dâm thì dứt hết thảy hạt giống thanh tịnh. Nếu chẳng bỏ rượu thì dứt hết thảy hạt giống trí huệ. Nếu chẳng bỏ trộm cắp thì dứt hết thảy hạt giống phước đức. Nếu chẳng bỏ ăn thịt thì dứt hết thảy hạt giống từ bi.

Như nay người học thiền đối với dâm dục, trộm cắp, rượu thịt này, mà thật suốt một đời không phạm, cũng đủ để gọi là gieo hạt giống Phật. Ngoài ra, các lỗi lầm vi tế khác cũng được dứt hết, bởi vì không phạm bốn điều kể trên là điều kiện thuận lợi khiến cho người ta thường học đạo vô tâm vậy.

Kinh Lăng Nghiêm nói:

Tâm dâm chẳng trừ thì trần lao không thể nào ra được, nếu dẫu có đa trí, thiền định hiện tiền mà nếu chẳng dứt tâm dâm ắt rơi vào đường ma. Nếu người chẳng dứt tâm dâm mà tu thiền định thì như nấu cát muốn thành cơm, trãi qua trăm nghìn kiếp chỉ được gọi cát nóng. Ông dùng thân dâm cầu diệu quả Phật, dẫu được diệu ngộ cũng là dâm căn, căn bản thành dâm, luân chuyển tam đồ ắt chẳng ra được. Phải làm cho động cơ dâm của thân tâm đều dứt, tánh dứt cũng không thì đối với Phật bồ đề mới có hy vọng.

Kinh Công Ðức Viên Mãn nói:

Tỳ kheo đời mạt pháp dâm dục lẫy lừng ngày đêm, đến nỗi phạm đến trẻ nhỏ, bên ngoài tương tự như Tăng, nội tâm như ngoại đạo. Tuy nam nữ riêng có khác mà nghiệp nhân sở niệm cũng chỉ là một.

Cận cố đến nay, đệ tử thiền môn cho việc phạm nam sắc(đồng tính luyến ái nam) là thường. Thói quen theo thế tục lâu ngày thành tệ, không còn biết đó là quấy, thậm chí có người đã nhận danh dự “trí thức” mà cũng không kiêng sợ. Sao họ lại lầm lẫn điên cuồng như thế?

Thiết nghĩ: Họ đắm nhiễm nam sắc, sợi dây thân ái, tật đố ràng buộc còn hơn người trần tục đam mê nữ sắc. Phàm Sa môn lấy đại sự của Phật Tổ làm niệm thì đâu còn thì giờ mà đam mê thị dục của chốn trần tục! Trong hội của Sơn tăng tôi, chẳng cho lỡ miệng nói ra một câu chuyện đời, hà huống cùng với Sa di nhỏ tuổi nói đùa giỡn cợt.
 

---o0o---

Chương 4


Học đạo cần phải sanh lòng hổ thẹn

 

Trong Văn Thích Nạn, Thủ tọa Hy Nhan nói:

Xuất gia làm Tăng đâu phải là việc nhỏ, chẳng phải để cầu sự an ổn thảnh thơi, chẳng phải để cầu sự no ấm, chẳng phải để cầu danh lợi, mà vì sanh tử, vì chúng sanh, vì dứt phiền não, ra khỏi bể tam giới, nối huệ mạng Phật. Ngày nay cách Phật đã xa, chánh pháp suy đồi, ngươi đâu dám làm càn như vậy ư!

Kinh Bảo Lương nói: “Tỳ kheo chẳng tu pháp Tỳ kheo, cả đại thiên không có chỗ phun nước miếng…” Mang tấm thân sáu thước mà không có trí huệ, Phật gọi là “si Tăng” (ông Tăng ngu si). Có ba tấc lưỡi mà không thuyết pháp được, Phật gọi là” á dương Tăng” (ông Tăng câm như dê). Tợ Tăng mà chẳng phải Tăng, tợ tục mà chẳng phải tục, Phật gọi đó là “điểu thử Tăng” (ông Tăng chim chuột),  cũng gọi là cư sĩ trọc.

Hòa thượng Lại Am Xu nói:

Kinh Lăng nghiêm chép: Thế nào là kẻ mượn y phục ta bán đứng Như Lai, tạo các thứ nghiệp? nếu người chẳng dùng giới nhiếp tâm thì dù chổ hiểu biết có ngang với Phật Tổ cũng chưa khỏi bán đứng Như Lai. Tạo các thứ nghiệp, huống là kẻ tầm thường ư!

Ngài Cao Am trụ ở Vân Cư, mỗi khi thấy người xuất gia vào thất Ngài mà chẳng khế được cơ, Ngài liền nắm áo người ấy mà nghiêm sắc mặt trách: “Cha mẹ nuôi dưỡng thân ông, thầy bạn tạo thành chí ông; ông không bị sự đói lạnh bức bách, không bị sự nhọc nhằn lính tráng. Thế mà ông chẳng tinh tấn cho thành đạo nghiệp, ngày sau có mặt mũi nào nhìn cha mẹ, thầy bạn”. Nghe lời này, có người rơi lệ. Hiệu lệnh của Ngài nghiêm khắc như thế.

Thiền Môn Bảo Huấn

 

Pháp lệnh của cổ nhân cảm người đến thế. Sư Tăng ngày xưa chí thành cầu đạo như vậy.  Ngày nay tuy đã hơn năm trăm năm sau, nếu có vị sư nào chân thật học đạo, đọc đến lời ấy đâu khỏi chẳng chạnh lòng!

Hòa thượng Vân Phong duyệt, tiểu tham lược nói:

Ðâu chẳng thấy trong kinh nói: “Thà lấy sắt nóng quấn thân, chẳng thọ y phục của người tín tâm; thà lấy nước đồng sôi đổ vào miệng, chẳng thọ thức ăn của người tín tâm…”.  Nếu Thượng tọa được như vầy: Biến đất đai thành vàng ròng, khuấy nước sông dài làm tô lạc thì Thượng tọa mới xứng đáng nhận của cúng dường. Bằng chưa được như thế thì cho đến giọt nước tấc tơ cũng phải mang lông đội sừng kéo cày trả nợ cho người.

 

---o0o---

Chương 5


Học đạo cần phải chọn Thầy lựa bạn

 

Tiên Thánh nói:

Thà có thể phá giới như núi Tu Di, chứ không nên để tà sư huân một tà niệm nhỏ như hạt cải vào trong tàng thức, như đổ dầu vào bùn hẳn không thể lấy ra được.

Ðại Huệ Thư

 

Phật dạy:

Nếu các chúng sanh tuy tìm bạn lành  mà gặp người tà kiến chưa được chánh ngộ, đây gọi là chúng tánh ngoại đạo, lỗi của tà sư chẳng phải lỗi của chúng sanh.

Kinh Viên Giác   

 

Thiền sư Viên Ngộ nói:

Học đạo trước tiên phải chọn thầy, đã được bậc thiện tri thức chân chánh có đủ mắt hụê rồi thì phải y chỉ theo để quyết trạch việc lớn sanh tử.

Tâm Tiếu

 

Ngài Chí Công nói:

Chẳng gặp bậc minh sư xuất thế, uổng uống thuốc đại thừa.

Truyền Tâm Pháp Yếu

 

Kinh Thi Ca Việt nói:

Ðệ tử hầu Thầy có năm việc:

1.      Phải cung kính thầy.

2.      Phải biết ơn thầy.

3.      Phải vâng lời thầy dạy.

4.      Phải nghĩ nhớ mãi đến thầy.

5.      Phải tán thán thầy khi thầy vắng mặt.

Thích Thị Yếu Lãm

 

Thiền sư Quy Sơn Hựu nói:

Sanh ta ra là cha mẹ, thành đạt ta là bạn hữu. Gần gũi bạn lành như đi trong sương móc, tuy không ướt áo mà luôn luôn nhuận thấm. Học theo kẻ ác, thêm sự thấy biết ác, ngày đêm tạo ác, hiện tại chịu quả báo, sau khi chết bị trầm luân.

 

Hòa thượng Trạm Ðường bảo ngài Diệu Hỷ:

Cuối đời tượng pháp, Tỳ kheo phần nhiều bên ngoài chạy theo vật, bên trong chẳng minh tâm, dẫu có làm việc rộng lớn cũng không phải là cứu cánh. Bởi vì chỗ nương tựa hèn kém nên mới như thế, như con nhặn bám vào đuôi trâu chỉ đi được vài bước, nếu nó bám vào đuôi ngựa giỏi thì có thể lướt gió đi xa một ngày ngàn dặm, đó là do chỗ nương tựa thù thắng. Thế nên, người học ở phải chọn nơi, đi phải lựa bạn, mới có thể xa bọn tà ngụy, gần người trung chánh để nghe được lời chân chánh vậy.

Thiền Môn Bảo Huấn

 

Kinh Nhân Quả nói:

Bạn hữu có ba sắc thái cần phải có:

1.      Thấy lỗi liền can gián.

2.      Thấy có việc tốt, sanh lòng tùy hỷ.

3.      Gặp tai nạn, khổ sở không bỏ nhau.

 

Luật Tứ Phần nói:

Ðủ bảy sắc thái sau đây mới thành bạn thân:

1.      Việc khó làm hay làm.

2.      Việc khó cho hay cho.

3.      Việc khó nhẫn hay nhẫn.

4.      Việc kín đáo nói cho nhau biết.

5.      Che chở cho nhau.

6.      Gặp khổ chẳng bỏ nhau.

7.      Nghèo nàn chẳng khinh nhau.

 

Kinh Thi Ca Việt nói:

1.      Thấy bạn làm ác, kéo đến chỗ vắng can ngăn.

2.      Có việc khẩn cấp phải mau đến cứu hộ.

3.      Có việc riêng tư không nói cho người khác nghe.

4.      Thường kính trọng lẫn nhau.

5.      Có việc tốt, phải nhiều ít chia cho nhau.

Thích Thị Yếu Lãm.

 

Bậc thiện tri thức khó được gặp gỡ, ví như từ trên cõi trời Phạm Thiên ném một hạt cải xuống ghim trên đầu một mũi kim ở hạ giới còn dễ hơn gặp minh sư bạn đạo. Ðược nghe chánh pháp rất khó, như chín mươi sáu phái ngoại đạo ở Tây Thiên (Ấn Ðộ) đều cầu xuất ly, song vì gặp phải tà sư nên trái lại bị chìm trong sanh tử.

Tông cảnh Lục

 

---o0o---

Chương 6


Học đạo cần phải nhận đúng như thật

 

Lục Tổ, một hôm bảo chúng:

Tự tâm các ông là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài ra không một vật có thể kiến lập, đều là bản tâm sanh ra muôn pháp, cho nên kinh nói: “Tâm sanh các pháp sanh, tâm diệt các pháp diệt”. Nếu muốn thành tựu chủng trí cần phải đạt được Nhất tướng tam muội và Nhất hạnh tam muội. Nếu ở tất cả chổ mà không trụ tướng, ở trong tướng ấy chẳng sanh thương ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ đến sự lợi ích, thành hoại v. v…, an nhàn, điềm tĩnh, rỗng rang đạm bạc, đó gọi là Nhất tướng tam muội. Nếu tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm thuần nhất trực tâm, chẳng động đạo tràng liền thành Tịnh độ, đó gọi là Nhất hạng tam muội.

Tăng hỏi Thiền sư Bá Trượng:

- Thế nào là pháp yếu Ðại thừa đốn ngộ?

Sư đáp:

- Các ông trước dứt các duyên, bặt hết muôn việc, hết thảy các pháp thiện cùng bất thiện, thế gian cùng xuất thế gian, chớ có ghi nhớ, chớ có nghĩ tưởng, buông xả thân tâm cho nó tự tại, tâm như gỗ đá không còn phân biệt, tâm không dấy niệm, đất tâm không trống không thì mặt trời trí hụê tự hiện. Chỉ cần dứt hết thảy phan duyên tham, sân, ái thủ, tình chấp cấu tịnh sạch hết, đối với ngũ dục, bát phong chẳng động, chẳng bị cái thấy, nghe, hay, biết ràng buộc, chẳng bị các cảnh làm mê lầm thì tự nhiên đầy đủ thần thông diệu dụng, đó là người giải thoát.

Ðối với tất cả cảnh, tâm không loạn không tịnh, không nhiếp, không tán, vượt qua tất cả thanh sắc, không có vướng mắc, gọi đó là Ðạo nhân.

Lại bảo: Luận về người học đạo, nếu gặp các thứ khổ vui, vừa lòng hay trái ý, tâm vẫn không lui sụt, chẳng màng tới danh tiếng, lợi dưỡng, áo cơm, chẳng ham công đức lợi ích, chẳng bị pháp thế gian làm vướng bận, không thân, không ái, khổ vui chẳng bận lòng, áo xấu che thân, cơm hẩm đỡ dạ, ngây ngây như ngu như điếc, mới có chút phần tương ưng. Nếu ở trong tâm học nhiều tri giải, cầu phước, cầu trí đều là sanh tử, đối với lý nào có ích gì? Trái lại, bị gió tri giải thổi trôi vào trong biển sanh tử.

Lại nói: Ba thừa giáo dùng để trị các bệnh tham, sân… Nay đây, niệm niệm nếu có các bệnh tham, sân … thì trước tiên cần phải trị nó mà chẳng cần tìm cầu nghĩa cú, tri giải; tri giải thuộc về tham, tham biến thành bệnh. Nay chỉ cần lìa tất cả các pháp có, không, cũng lìa cả cái lìa, thấu qua ba câu thì tự nhiên cùng Phật không khác, đã tự là Phật, lo gì Phật không biết thuyết pháp! chỉ e chẳng phải Phật nên bị các pháp có, không ràng buộc chẳng được tự do, vì lý chưa lập mà trước đã có phước trí, bị phước trí lôi đi như kẻ hèn sai khiến người sang; chẳng bằng trước lập lý rồi sau hãy có phước trí.

Hội Nguyên

 

Mã Ðại sư nói:

Ðạo chẳng cần tu, chỉ cần đừng ô nhiễm. Cái gì là ô nhiễm? Hễ có tâm sanh tử, tạo tác, hướng về đều là ô nhiễm. Nếu muốn lãnh hội ngay đạo nầy thì tâm bình thường là đạo. Tâm bình thường là tâm không tạo tác, không thị phi, không thủ xả, không đoạn thường, không phàm, không thánh. Kinh nói “Chẳng phải hạnh phàm phu, chẳng phải hạnh Hiền Thánh, ấy là hạnh Bồ Tát”. Nay chỉ cần đi đứng ngồi nằm ứng cơ nhiếp vật thảy đều là đạo.

Truyền Ðăng Lục

 

Hòa thượng Hoàng Bá dạy:

Nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều chẳng cần học, chỉ cần học sự không mong cầu, không dính mắc. Tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị tám muôn bốn ngàn phiền não chỉ là môn giáo hóa nhiếp dẫn.

Lại bảo: Chỉ cần tùy duyên tiêu nghiệp cũ, đừng tạo thêm nghiệp mới nữa.

Hòa thượng Ðức Sơn thượng đường dạy:

Nếu ở nơi mình vô sự thì chớ có vọng cầu, vọng cầu mà được thì cũng chẳng phải được. Ông chỉ vô sự ở nơi tâm, vô tâm ở nơi sự thì rỗng mà linh, không mà diệu. Nếu trên đầu lông cho nói gốc ngọn đều là tự dối. Sao vậy? Vì một mảy may hệ niệm là nghiệp nhân của tam đồ, chớp mắt tình sanh là gong xiềng muôn kiếp. Danh thánh, hiệu phàm đều là tiếng rỗng, tướng đẹp hình xấu đều là sắc huyễn, ông muốn cầu nó mà được không hệ lụy chăng! Hay chán nó để thành ra họa lớn? Rốt cuộc chỉ vô ích mà thôi.

Hội Nguyên

 

Hòa thượng Lâm Tế nói:

Ðã khởi niệm rồi chớ nối tiếp, chưa khởi niệm thì chẳng nên khởi, còn quý hơn ông mười năm hành cước.

 

Thiền sư Viên Ngộ nói:

Chỉ cần một niệm không sanh, để cho thong thả; vừa có thị phi, thị ngã, đắc thất chớ đi theo nó; ấy là suốt ngày lẫn đêm đích thân tham học với thiện tri thức chân chánh của nhà mình, lo gì việc nầy chẳng xong! Cần nhất là phải tự khán .

Tâm Yếu

 

Hòa tượng Tuyết  Ðường Hạnh nói:

Ta thường nói cới các huynh đệ là chẳng cần leo lên cơ cảnh khác. Cái gì gọi là cơ cảnh? Phật là cơ cảnh, pháp là cơ cảnh huống chi các việc văn chương tạp nhạp ư? Nếu giữ được nhàn nhàn thì tự nhiên rỗng mà linh, lặng mà diệu, như trái bầu thả trên mặt nước thênh thênh không bị ràng buộc, đụng đến liền động chuyển, thật là đại tự tại vậy.

Thập Di Lục

Hòa thượng Lại An dạy chúng:

Các ông đến An nầy tìm cầu cái gì? Nếu muốn làm Phật thì các ông tự là Phật, lại trốn nhà bỏ đi như hươu khát nước đuổi theo bóng nắng thì đến lúc nào mới được tương ưng? Các ông muốn làm Phật, chỉ cần không có các thứ tâm chúng sanh điên đảo phan duyên, vọng tưởng ác giác, dục vọng bẩn thỉu thì đó là tâm chánh giác Phật đầu tiên của ông, còn phải hướng đến chỗ nào nữa mà tìm !

 

---o0o---

CHƯƠNG 7


Học đạo cần phải biết học lấy ngôn hạnh của người xưa

 

Thiền sư Viên Ngộ nói:

Phật đạo thênh thênh, phải siêng năng cực khổ lâu ngày mới có thể thành tựu được. Ðệ tử Tổ sư chặt tay đứng dưới tuyết, lưng mang đá giã gạo, gánh lúa, đẩy xe, làm vườn, nấu cơm, khai phá ruộng nương, bố thí nước trà, gánh đất, kéo cối đều là lập chí đoạn tuyệt thế tục, mãi mãi tự cường thì mới có thể viên thành sự nghiệp. Do đó, nói: Chưa có một pháp nào từ trong sự lười biếng giải đãi sanh.

Tâm Yếu

 

Thiền sư Viên Ngộ nói:

Tăng sĩ phải thống thiết với việc sanh tử, lo tiêu diệt sự chướng ngại của tri kiến tri giải, chứng triệt để cái nhân duyên lớn mà Phật Tổ đã truyền trao, chớ ham danh tiếng, hãy lui về chỗ chân thật đợi hạnh giải đạo đức đầy đủ, càng mai danh ẩn tích lại càng được người biết đến, các vị Thánh và Thiên long sẽ khen ngợi người này.

 

Ngài Hoàng Long nói:

Người chưa thấy tánh chẳng nên an nhiên khoanh ay bắt chước không làm, không tu.

Minh Xu Hội Yếu       

 

Hòa thượng Ngũ Tổ Diễn nói:

Ngày nay người học đạo ở chốn tòng lâm thanh danh không nổi bật, chẳng được người tin tưởng, bởi vì giới hạnh không trong sạch, con người chẳng đứng đắn. Hoặc như vì cầu danh tiếng, lợi dưỡng mà phô trương cái vẻ hào nhoáng bên ngoài bèn bị bậc thức giả chê cười, cho nên cái lý yếu diệu bị ngăn che, tuy có đạo đức như Phật Tổ mà vẫn bị người nghe thấy nghi ngờ chẳng tin. Các ông sau này nếu có làm Trụ trì hãy lấy đây để tự cố gắng.

 

Diễn Tổ nói:

Cổ nhân thích nghe lỗi mình, mừng chỗ mình làm được điều lành, thường bao dung kẻ hãm hại mình, hậu đại kẻ ẩn chứa điều ác đối với mình, khiêm nhường để chơi với bạn, siêng năng để giúp đỡ chúng, chẳng vì sự được mất mà sanh hài lòng, nên ánh sáng rực rỡ chiếu khắp cả xưa nay vậy.

 

Thiền sư Tung Nhạc Nguyên Khuê nói:

Phải có tâm vì chúng sanh mà không có tâm nghĩ đến thân mình.

Hội Nguyên

 

Tăng sĩ hằng ngày dụng tâm đều không qua việc này.

 

Hòa thượng Ðại Giác Liễn nói:

Họa hoạn chứa ở chỗ sâu kín, phát ra tứ chỗ khinh suất.

 

Hòa thượng Quy Sơn nói:

Cử chỉ động tịnh nên theo bậc thượng lưu, chớ nên bắt chước theo bọn quê hèn.

 

Châu Hối Anh hỏi ngài Hối Ðường:

Người quân tử chẳng may có chút lỗi nhỏ mà có người nghe thấy, họ liền chỉ ra, còn kẻ tiểu nhân suốt ngày tạo ác mà chẳng bị cho là lỗi. Tại sao vậy?

 

Ngài Hối Ðường đáp:

Ðức của người quân tử ví như ngọc tốt, nếu bên trong có tỳ vết liền thất lộ ra bên ngoài, cho nên người thấy, họ cho rằng lạ chẳng thể không chỉ ra. Còn kẻ tiểu nhân hằng ngày làm các việc đều ác nên đâu cần phải nói.

 

Hòa thượng Hoàng Long Nam nói:

Tổn mình thì lợi người, lợi mình thì tổn người, cho nên sự được mất đâu có dễ gì cân nhắc!

 

Ngài Hoàng Long nói:

Cái học của Thánh hiền không phải vội vàng hấp tấp mà có thể thành được, mà cần phải tích lũy. Sự cần thiết của tích lũy là chuyên cần, ngăn dứt thị hiếu, tu hành chớ lười mỏi, về sau mở rộng đến chỗ đầy đủ mới có thể cùng tận được cái huyền diệu của thiên hạ.

 

Anh Thiệu Võ nói:

Vật lớn nhanh thì ắt gãy sớm, công chóng thành thì ắt dễ hoại. Chẳng nghĩ đến kế lâu dài mà thành công vội đều chẳng phải cái tư cách vĩ đại trường cửu. Ngày xưa, thị giả Mai ban đêm ngồi mãi không nằm, dùng gỗ tròn làm gối, vừa ngủ thì gối động, giận mình tỉnh dậy ngồi yên như cũ, và cho đó là sự thường. Hoặc có người nói là dụng tâm thái quá. Mai đáp: “Tôi đối với Bát nhã duyên phận mỏng manh; nếu chẳng khắc khổ gắng chí thì e những quen mê lầm mống khởi”.

Thiền Môn Bảo Huấn

 

Hòa thượng Thủy An Nhất nói:

Xưa, các ngài Ðại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Long Nha kết bạn với nhau cùng đến tham vấn ngài Phần Dương. Ðất Hà Ðông lạnh lắm, mọi người đều sợ, chỉ có Từ Minh là người có chí học đạo ngày đêm không lười mỏi, ban đêm ngồi thiền buồn ngủ bèn lấy dùi tự đâm vào thân và than rằng: “Cổ nhân vì việc lớn sanh tử mà không ăn, không ngủ; ta là hạng người nào mà lại dám phóng túng buông lung? Lúc sống thì vô ích, khi chết không để tiếng tăm về sau, ấy là tự bỏ mình vậy”.

Ngày Từ Minh giã từ, Phần Dương than rằng: “Sở Viên nay đi, đạo của ta theo y về phương Ðông vậy.”

 

Hòa thượng Linh Nguyên Thanh nói:

Bậc Tiên triết nói: Học đạo mà ngộ được đạo là khó, đã ngộ rồi gìn giữ được là khó, đã gìn giữ được mà làm được đó mới là khó. Nay đương khi làm thì sự khó khăn còn hơn ngộ và gìn giữ, bởi vì ngộ và gìn giữ chỉ cần tinh tấn cố gắng nơi bản thân mà thôi, còn làm thì phải có tâm bình đẳng thề đến chết luôn luôn lấy việc tổn mình lợi người làm nhiệm vụ. Nếu tâm không bình đẳng, thệ nguyện không kiên cố thì sự tổn ích sẽ đảo lộn, bèn rơi vào hạng thầy chạy theo dòng thế tục, ấy là điều đáng sợ vậy!

 

Ngài Linh Nguyên bảo Viên Ngộ:

Tăng sĩ dầu có tư cách kiến đạo mà nếu chẳng qua giai đoạn khắc khổ trui rèn thì đến khi phát dụng ắt thô bạo, chẳng những không bổ ích cho giáo môn mà còn e chuốc lấy cái họa nhục nhã nữa!

 

Hòa thượng Viên Ngộ nói:

Làm người ai không lỗi. Có lỗi mà hay sửa chữa, đó là điều lành lớn vậy! Xưa nay đều khen người biết sửa lỗi là bậc hiền, chứ không lấy người không lỗi cho là đẹp, cho nên việc làm của con người từ bậc thượng trí cho đến kẻ hạ ngu không ai tránh khỏi lầm lỗi, chỉ có người trí mới hay sửa lỗi làm lành, còn kẻ ngu phần nhiều hay che giấu lỗi lầm, tô điểm điều quấy. Sửa lỗi làm lành thì đức mỗi ngày một sáng, ấy gọi là quân tử. Còn trang sức lỗi lầm thì ác càng thêm nhiều, đây gọi là kẻ tiểu nhân. Thế nên, thấy việc nghĩa bỏ qua là chuyện thường tình; thấy điều lành vui theo là chỗ chuộng của bậc hiền đức. Vậy mong ông hãy được ý quên lời là hơn vậy!

 

Ngài Viên Ngộ bảo Phật Giám:

Sư ông Bạch Vân mỗi khi hành động cân nhắc một việc gì đều căn cứ theo xưa. Sư ông thường nói: “Làm việc mà chẳng căn cứ theo người xưa thì không phải phép. Tôi biết nhiều về ngôn hạnh của người xưa là để thành tựu cái chí của mình, nhưng chẳng phải tôi đặc biệt hiếu cổ, mà bởi vì người đời nay chẳng đủ phép tắc để cho tôi bắt chước”.

 

Hòa thượng Bạch Vân Ðoan nói:

Thủ đạo an bần là bổn phận của tăng sĩ. Người vì sự khốn cùng hay hiển đạt mà ý chí tiêu tan hay dời đổi thì chưa đủ tư cách học đạo vậy.

 

Hòa thượng Phật Giám Cần bảo Phật Ðăng Tuân:

Bậc cao thượng chẳng lấy danh vị làm vinh, người đạt lý chẳng bị sự ép ngặt làm khốn, còn như vì mang ơn mà ra sức báo đáp, thấy lợi lộc mà trung thành, đều là chỗ làm của những kẻ trung hạ.

 

Ngài Phật Giám nói:

Nếu chẳng lo vì đạo thì tâm tiết tháo chẳng cao xa, xử thân thường nhàn hạ thì dụng chí không lớn. Cổ nhân đã nếm đủ mùi gian lao hiểm trở rồi mới hưởng được sự an vui suốt đời. Bởi vì việc khó khăn thì chí mới sắc bén, khắc khổ thì lo nghĩ mới sâu xa, mới có thể chuyển họa thành phước, chuyển vật làm đạo được. Tôi thấy người học đạo phần nhiều chạy theo vật dục mà quên đạo, trái với chỗ sáng mà vào chỗ tối, trang sức chỗ bất tài của mình để dối gạt người, tự cho mình là người trí, cưỡng ép người làm cái việc không thể làm nổi rồi khinh người rồi cho rằng mình cao. Làm như vậy là để dối người mà chẳng biết có bậc tiên giác chẳng thể dới được; làm như vậy là để che đậy người mà chẳng biết có cái công luận chẳng thể che đậy. Cho nên, kẻ tự cho mình là cao thì người lại cho là thấp.

Hòa Thượng Phật Nhãn Viễn nói:

Người ở chốn tòng lâm, lời nói việc làm, cử chỉ động tịnh trước phải trù liệu rồi sau mới làm, chớ nên hấp tấp. Hoặc tự mình không thể quyết đoán được thì nên thưa bậc kỳ cựu, rộng hỏi bậc tiên hiền để mở rộng sự thấy nghe, bổ túc vào chỗ thiếu sót, làm sáng tỏ chổ tối tăm, đâu nên làm khí thế hư ngụy khoe khoang để bày ra chổ xấu của mình! Nếu như trước có lỡ làm một việc sơ thất thì về sau có làm trăm điều hay cũng không cứu cãn được.

Hòa thượng Linh Nguyên nói:

Phàm người hằng ngày soi lại vào bên trong phần nhiều có thể sáng tỏ được, vừa theo sự việc chạy ra bên ngoài liền trái với viên dung, mất đi phát thể. Cho nên, người muốn nghĩ đến nhiệm vụ nối dòng Phật Tổ chỉ dạy dẫn đến kẻ hậu học thường phải tự kiểm trách.

Hòa thượng Tuyết Ðường Hạnh nói:

Người học đạo mà khí thắng chí là tiểu nhân, chí thắng khí là người ngay thẳng, khí cùng chí ngang nhau là hiền thánh đắc đạo. Người cứng cõi chẳng nghe theo lời khuyên răn can gián, đó là cái khí khiến như thế. Người ngay thẳng bị ép buộc làm việc bất thiện thà chết chứ không hai lòng, đó là cái chí nó đưa đến như thế vậy.

Hòa thượng Thảo Ðường Thanh nói:

Ngọn lửa cháy lan cả đồng nội phát sanh từ một đốm lửa nhỏ bé, thế nước lở núi tích chứa từ những giọt nhỏ li ti. Giọt nước thì nhỏ, chỉ một nắm đất có thể lấp ngay được, nhưng đến lúc thế đã mạnh thì nó làm trôi cả gỗ đá, san phẳng cả gò nổng. Ðốm lửa thì nhỏ, một gáo nước có thể dập tắt, nhưng đến lúc thế mạnh thì nó thiêu hủy cả thành ấp, đốt cháy cả núi rừng. Như vậy, nếu đem so sánh với nước ái dục, với lửa sân hận đâu có khác chi!

Ngài Thảo Ðường Thanh nói:

Người học đạo lập thân cần phải chánh đáng, đừng để cho người ta bàn trộm. Nếu một khi bị lời dị nghị thì trọn đời không thể lập thân được.

Hòa thượng Hối Ðường Tâm nói:

Ở trong chúng đông người, người hiền kẻ ác chung lộn, hóa môn rộng lớn, trong đó không dung thân sơ, chỉ tại thiếu sự chọn lọc. Ví như có người tài đức được mọi người ngưỡng mộ thì chẳng nên vì cái điều mình giận mà thưa thớt qua lại với người ấy. Nếu như người kiến thức tầm thường mọi người đều ghét bỏ thì cũng chẳng nên lấy cái điều mình thích mà gần gũi. Như thế thì người hiền tự tiến lên, kẻ ác tự rút lui thì tòng lâm được an ổn vậy.

Hòa thượng Tự Ðắc Huy nói:

Tăng sĩ nếu thật tình muốn hướng về con đường chân chánh thì dầu ngu cũng dùng được, còn nếu ôm lòng tà vạy thì dầu trí rốt cuộc cũng là hại. Ðại khái là người ở chốn lâm hạ tâm chí bất chánh thì dẫu có tài năng đi nữa cũng không thể lập thân được.

Hòa thượng Giản Ðường Cơ sáng suốt, điềm tĩnh, từ bi đối với chúng sanh, tăng sĩ nào có chút lỗi lầm, ngài che chở bảo hộ để thành cái đức của họ. Ngài thường nói: Con người ai mà không có lỗi lầm, biết sửa lỗi lầm là tốt đẹp.

Thiền sư Ðại Hụê nói:

Người học đạo, ngày tháng trôi suông chỉ vì cứ lo kiểm điểm công phu của người khác. Nếu như thường tự kiểm điểm thì đạo nghiệp chóng thành. Hoặc mừng, hoặc giận, hoặc tĩnh lặng, hoặc náo động đều là lúc để cho ta tự kiểm điểm cả.

Ngài Ðại Hụê nói:

Nghịch cảnh dễ phá, thuận cảnh khó phá, gặp nghịch cảnh chỉ cần tốn một chữ NHẪN, định tĩnh giây lát liền qua mất. Gặp thuận cảnh không có chỗ cho ông lẫn tránh, như nam châm gặp sắt, hai thứ tự nhiên đến hợp nhau làm thành một chỗ. 

 
( Còn tiếp )

Tác giả bài viết: Thiền sư Văn Thủ - Dịch giả: Ðịnh Huệ
Nguồn tin: vnthuquan.net
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Cách gởi bài viết về Ban Biên Tập

Nội quy đăng bài viết :Bài viết trước khi đăng phải hội đủ các điều sau :- Thứ nhất : Trang web chỉ có một mục đích đó là Hoằng Dương Phật Pháp- Thứ hai : Nội dung thuần tuý chỉ có quan điểm, kinh điển, Luật, Luận chính thống của Nhà Phật- Thứ ba : không liên quan bất...

Thống kê

  • Đang truy cập: 36
  • Khách viếng thăm: 35
  • Máy chủ tìm kiếm: 1
  • Hôm nay: 3425
  • Tháng hiện tại: 203756
  • Tổng lượt truy cập: 59643773

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile