Nguyền mong thân cận minh sư, quả Bồ Đề một đêm mà chín. Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đâm bông.
Rss Feed

Vạn niên huynh đệ - Phần 4

Đăng lúc: Chủ nhật - 25/12/2011 12:18 - Người đăng bài viết: Tịnh Cường
Vạn niên huynh đệ - Phần 4

Vạn niên huynh đệ - Phần 4

Máy Đạo không xa xôi,Quay đầu lại thấy rồi;Thấy ra mau hay chậm,Là do sức tỉnh hồi. Thanh-Sĩ.

 

Vạn niên huynh đệ 04
****

Chỗ thanh vắng như nơi xao động,
Vẫn xem thường chẳng vọng móng tâm.
A Di Đà Phật nhớ niệm thầm,
Ý hướng Phật hơn tâm hướng thế;
Biết rằng thiện làm không sợ trễ,
Xét là tà chừa để liền khi.
Kinh dạy sao thì vẫn hành y,
Đạo quả sớm muộn gì cũng đắc;
Đạo sĩ ngó ngay ta bảo chắc,
1550. Nếu thành tâm niệm Phật ba ngày.
Cứ niệm liền không hở phút giây,
Chẳng móng việc trần ai một mảy;
Tất được Phật hiện ra chỉ dạy,
Chẳng đúng ta chẳng phải là người.
Lời nầy em nhớ bảo khắp nơi,
Già trẻ khá y lời tu niệm;
Kẻ thật tu Phật đang tìm kiếm,
Nên khi người chí nguyện thành lòng.
Tức thời từ các hướng Tây Đông,
1560. Có chư Phật hóa thân đến chứng;
Lòng còn chút bợn nhơ xen ẩn,
Khó mong g. thấy đặng Phật ngài.
Tâm bợn nhơ như mắt kéo mây,
Không thấy được trời đầy sao tỏ;
Phật Ngài khắp nơi nào cũng có,
Chúng vọng tâm mắt ngó không ra.
Cứ tưởng rằng chỉ có người ta,
Không có Phật mới là gây tội;
Mê lại sống nhằm đời giả dối,
1570. Khiến lòng mê càng tối thêm hơn.
Quen gạt lường hơn việc nghĩa nhơn,
Gặp chuyện phải không cần đếm kể;
Người nầy thế kẻ kia cũng thế,
Lấy kế mà chọi kế không thôi.
Đua sống bằng mọi cách bại tồi,
Do đó khiến cuộc đời thêm rối;
Vật chất tiến tinh thần lại thối,
Lớp ngoài xinh trong lõi xấu đen.
Vẫn không chừa mọi việc đê hèn,
1580. Hiện đang gọi kim tiền thời đại;
Các tệ ấy toàn là chướng ngại,
Làm cho người không thấy Phật Tiên.
Chúng sanh hung còn Phật lại hiền,
Kẻ đi xuống người lên khác lối;
Cố nhiên chẳng bao giờ tương hội,
Hãy cùng đi một lối thử nao.
Chắc chắn là sẽ được gặp nhau;
Người ta có Phật nào không có,
Sắp đến lúc thế gian giũ bỏ.
1590. Chư Phật Tiên càng có thêm nhiều,
Chẳng khác chi ruộng thất bao nhiêu;
Người đi mót càng nhiều chừng nấy,
Gần có cuộc tan thương biến cải.
Nhưng hiền nhơn có mấy ai đâu,
Như thế nầy chừng cuộc đáo đầu;
Sẽ tiêu hết còn đâu mà kể,
Rất thương tiếc cho người dương thế.
Các Phật Tiên mắt để khắp nơi,
Tìm kiếm người lòng dạ tốt tươi;
1600. Độ cho khỏi nạn trời kế cận,
Cũng phương tiện việc tu chỉ dẫn.
Kịp hội thi để chứng đạo trường,
Đường từ bi về cõi Tây Phương;
Có phước đức lên đường Tiên cảnh,
Trung qui Thần, hiếu qui Nhơn Thánh.
Phật Tiên đâu hề rảnh phút nao,
Có người lành bất kể chỗ nào;
Cũng đi tới để âu dìu dắt,
Trong nhà điếm trong trường đổ bác.
1610. Đến như người đổ rác tanh hôi,
Có thiện căn có được tâm hồi;
Phật vẫn đến tận nơi hóa độ.
Miễn sanh chúng được lòng giác ngộ;
Phật đâu nài ở chỗ uế nhơ,
Tâm sạch trong tuy cái thân dơ.
Thân ấy rửa bao giờ cũng dễ,
Thân trong sạch mà tâm nhơ uế;
Muôn đời chưa há dễ rửa ra,
Nên chi dù ở chốn xấu xa.
1620. Có kẻ sạch tâm là Phật đến,
Hóa đủ cách độ người hướng thiện;
Đem thân ra quyền biến mọi phương,
Khiến hung sùng trở lại hiền lương.
Khỏi đày đọa trong đường thống khổ,
Nếu chẳng giúp được người tỉnh ngộ;
Đến tận đời còn có ai đâu,
Nên Phật Ngài đi khắp năm châu.
Dạy sanh chúng đạo mầu được biết,
Đạo hiểu rồi đường tu mài miệt;
1630. Dứt lỗi lầm bỏ việc nhuốc nhơ,
Thuận thời trời hợp máy huyền cơ.
Tất qua khỏi ngày giờ hắc ám,
Tâm Phật có mấy ai thông cảm;
Lo cho đời chẳng hạn ngày đêm,
Biết chừng nào sóng khổ lặng êm.
Để chư Phật ngồi yên một chỗ,
Đôi mắt Đạo sĩ gần ướm đổ;
Ngài ngâm lên bài kệ thiết tha:
1639. Khắp ba ngàn thế giới,
Ở trong cõi Ta bà;
Chúng sanh nầy độ dứt,
Chúng sanh khác sanh ra.
Lòng từ bi vô số,
Kẻ hung ác hằng hà;
Xưa độ nay vẫn độ,
Chúng sanh vẫn còn đa.
Chánh quả dù đã đắc,
Không ngồi an Liên tòa;
Mắt xem đời không nháy,
1650. Tai bên chúng chẳng xa.
Thấy lành thì đến độ,
Nghe nguyện tức chứng qua;
Có thiện duyên liền tới,
Sạch dơ cũng thay là…
Hiện cõi nầy sắp rốt,
Phật ngài càng bôn ba.
Đông Tây duy đạo lý,
Nam Bắc cứu chư gia;
Không phút giờ nào rảnh,
1660. Đáng kính thay! Phật đà!
Nghe kệ khiến lòng ta cảm động,
Nhận cho lời ấy đúng không sai;
Chính thân nầy đã được Phật ngài,
Hóa hiện đến giáo khai nhiều bận.
Từ thuở bé đến khi khôn lớn,
Xác hồn nầy nhờ đấng từ bi;
Nếu không do nơi sức huyền vi,
Thân nầy khó hướng qui cửa Phật.
Bịnh được cứu giấc mê được thức,
1670. Đâu là Tiên đâu tục được tường;
Toàn nhờ ân Đức Phật Tây Phương,
Chịu khổ đến bên giường dạy dỗ.
Phận hèn nầy Phật còn đến độ,
Huống chi người được có đại căn;
Tất Phật ngài gần gũi thường hằng,
Hơn tình mẹ với con khắn khít.
Nghĩ đến đây quá nên cảm kích,
Rồi tự nhiên nước mắt trào ra;
Đạo sĩ bèn vỗ nhẹ vào ta,
1680. Rằng anh chẳng nói ngoa với thế.
Chính em được Phật Ngài độ tế,
Tất không còn chỗ để nghi nan;
E những người chưa thấy mình vàng,
Chưa biết được Phật tâm từ mẫn.
Em cũng khá dùng lời chỉ dẫn,
Giúp trần gian rõ đấng Từ Bi;
Khá lo tu bỏ lối vô nghì,
Để chư Phật bớt đi lo lắng.
Thân mình cũng oan sầu dứt đặng,
1690. Có phải là được vẹn đôi bề;
Cõi hồng trần nhiều nỗi thảm thê,
Nên xa lánh hơn mê nhiễm tới.
Chữ quyền tước với câu phú quới,
Đừng để cho nó lợi dụng mình;
Có tước quyền phú quí hiển vinh,
Nên dùng nó làm lành làm phải.
Được danh thơm lại còn phước đại,
Thí một hai lời lãi chín mười;
Chẳng khác nào cày sạ hợp thời,
Một thúng giống thu hồi nhiều thúng.
1700. Nếu bố thí không lòng lợi dụng,
Được phước hay không cũng mặc tình;
Cũng chẳng cần ai biết đến danh,
Vì thấy khổ động tình giúp đỡ.
Ấy càng được phước nhiều vô số,
Tâm kia cùng Phật có xa chi;
Cứu độ người do tánh từ bi,
Chớ chẳng muốn điều gì tất cả.
Tuy nhiên việc trước kia vẫn trả,
Mặc dù người chẳng dạ mong cầu;
1710. Có gieo thì có trổ không đâu,
Xưa nay vẫn chẳng bao giờ sái.
Chẳng ham danh nhưng danh cứ lại,
Không mong lời lời tới tự nhiên;
Khinh phú quyền nhưng trọng phú quyền,
Cho cả xác lẫn hồn được hưởng,
Ấy lời thật chớ không nói bướng.
Đừng vội cho mâu thuẫn trắng đen,
Luật công bằng nhơn quả tự nhiên;
Không ai có thể làm sai được,
1720. Kẻ dương thế khá suy nhiều lượt.
Coi lời nầy có chắc hay không,
Nếu nhận cho là lẽ chí công;
Nên hành gấp chớ h.ng ngần ngại,
Em nhớ đem chuyện nầy tỏ lại.
Cho người đời xét lấy tu hành,
Khi tu lòng phải được chơn thành;
Để khỏi kiếp hy sinh vô ích,
Trời tối lại còn thêm mắt bịt.
Khách trần gian khó biết lối ra,
1730. Em mau tay dắt đỡ người ta;
Qua gai góc được ra đại lộ,
Phó mặc cái phàm thân lao khổ.
Miễn sao đời tỉnh ngộ là hơn,
Khổ một mình vui cả muôn dân;
Há không lấy làm mừng để chịu,
Chữ gian truân với câu huyền diệu.
Giá so bằng em hiểu hay chăng?
Ra công trồng mới có trái ăn,
Đường xa chẳng bước năng sao tới.
1740. Lúc em đang hai mươi mốt tuổi,
Nơi phòng riêng vào buổi ban trưa,
Thình lýnh nghe ngọn gió phất đưa;
Một cụ lão đầu phơ tóc bạc,
Tướng đẹp đẽ phàm phu khác xác,
Vẻ đoan nghiêm đôi mắt hiền từ;
Nơi tay cầm chiếc gậy ý Như,
Bỗng hiện đến ngay nơi em nghỉ.
Cụ lão vỗ vào em và chỉ,
Trong chăn mền ngọc quí đâu sanh;
1750. Trên đồi khô sen chẳng nứt nanh,
Con há chịu yên mình một góc.
Đập đá cứng mới tìm thấy ngọc,
Vào bùn lầy sẽ bọc nhiều sen;
Nói xong rồi cụ biến đi liền,
Em chưa kịp hỏi thêm chi cả.
Em vừa mừng vừa là buồn bã,
Mừng được lời khuyến hóa bề trên,
Buồn vì chưa một tiếng ơn đền,
Chắc em đã không quên điềm ấy.
1760. Ta thưa rằng thật là có vậy,
Đây dễ quên chuyện ấy bao giờ;
Đang khi đây đôi mắt vừa mơ,
Chíp một cái gió đưa mát mặt.
Thì người cổ đã trông tận mắt,
Lời cao siêu được rót vào tai;
Vừa diûu dàng vừa rất thanh bai,
Từ ấy vẫn đêm ngày kêu hú.
Kẻ lạc lối mau tìm cội cũ,
Hãy chừa đi những thú ăn chơi;
1770. Lo tu hành hương nước chiều mơi,
Cầu Phật độ qua nơi khói lửa.
Cơ tận diệt không bao lâu nữa,
Khuyên chớ nên lần lựa mốt mai;
Hãy đua chen niệm Phật ăn chay,
Ai cũng rán ra tay làm phước.
Nền chánh đạo mấy khi gặp được,
Khi gặp rồi khá bước vào ngay;
Nguyện xả thân tìm thấy Phật Ngài,
Dù lao khổ chớ thay đổi chí.
1780. Rán một kiếp hành chơn đạo lý,
Muôn đời sau khỏi bị trầm luân;
Lại còn xem được cõi Thượng nguơn,
Đúng minh-đức, tân-dân chí-thiện.
Ấy đại lược lời đây đã khuyến,
Từ chỗ gần cho đến chỗ xa;
Đạo sĩ bèn dùng kệ ngâm ra :
1787. Giữa trời đêm tăm tối,
Tiếng trống giục gần xa;
Trẻ ít người thức giấc,
Già nhiều kẻ tỉnh ra.
Gốc được lo chi ngọn,
Con sẽ nối gương cha;
Huống già nhưng lòng trẻ,
Còn trẻ tại tâm già.
Vả lại già hay trẻ,
Cũng là giống người ta;
Độ được thì cứ độ,
Già mấy chớ bỏ qua.
Chứng quả trong giây phút,
1800. Không phải mất đâu xa;
Đến như người sắp chết,
Vẫn tỏ ngộ được là.
Đừng buồn lòng khi thấy,
Trẻ ít tu hơn già.
Ta rằng : Ngài kệ qua đúng lẽ,
Già tu nhiều nhưng trẻ ít tu;
Trẻ có tu chỉ được buổi đầu,
Lần lượt rớt lại sau gần hết.
Làm cho đây lòng buồn chi xiết,
1810. Hạng thiếu niên không biết tu hành;
Tồi tệ trong xã hội càng sanh,
Hại đất nước dân tình cũng hại.
Khổ tương lai khổ ngay hiện tại,
Đạo lu mờ đời lại rối ren;
Người sống trong cái sống tối đen,
Đức hạnh thiếu nhân tình cũng thiếu.
Dắt nhau đến cuộc đời bẩn thiểu,
Trong ngục tù một điệu giống nhau;
Toàn là người tội lỗi hùng hào,
1820. Cảnh rùng rợn không sao tả xiết.
Khiến nhơn loại sớm ngày tiêu diệt,
Cảnh thương tâm nói biết sao cùng;
Càng xét ra càng bắt não nùng,
Muốn phó cả Thiên-Công định xử.
Đạo sĩ rằng : vì đời hung dữ,
Phật mới khuyên em sự dạy đời;
Nếu bằng ai cũng biết tỉnh hồi,
Thì Phật chẳng một lời chỉ giáo.
Phụ lão há chẳng lời dạy bảo,
1830. Đá cứng trong có báu ngọc sanh;
Phải ra công đập đá tan tành,
Mới có thể kiếm tìm được nó.
Chốn bùn lầy có hoa sen trổ,
Muốn hái sen chịu khó bước vào;
Lời ấy theo em đã nghĩ sao?
Không chịu khổ dễ nào được chứng.
Chẳng gần đám hung sùng gian lận,
Thì làm sao độ chúng thiện căn.
Hiện trong tay có Phược Yêu Thằng(4),
1840. Há ngại bước Đường Tăng Tam Tạng.
Thứ sát sanh thứ ham dâm loạn,
Thứ hung hăng lỗ mãng ngang tàn;
Cũng dắt cho đến cõi Tây phang,
Không nỡ bỏ giữa đàng ngơ ngáo.
Đồng tới chỗ và đồng đắc đạo,
Lòng từ bi rốt ráo tận cùng;
Hết khổ nàn tới lúc thung dung
Xưa nay cuộc tuần huờn vẫn thế.
Lao khổ mấy xin em chớ nệ,
1850. Cũng không nên cố để lòng buồn,
Em than thầm nhưng lớn tợ chuông,
Vang động cả chín tầng trời đất.
Nơi sơn đảnh lòng anh quặn thắt,
Lo rằng em sớm gác máy chèo;
Những người đang mỏi dạ trông theo,
Sẽ đứng mãi bến chiều ngơ ngác,
Lui cũng lỡ đến không ai dắt;
Cảnh ấy còn bi đát nào hơn,
Em há không cạn xét xa gần,
1860. Để giúp kẻ còn chân núm níu.
Kẻ mến em không riêng đạo diệu,
Còn mến luôn dáng điệu hình dung,
Bỏ xác nầy tạo xác sau cùng,
Giống mấy họ cũng không tin chắc;
Huống chi nếu khác mày khác mặt,
Lòng họ càng ngờ vực thêm nhiều;
Thì dầu cho em có réo kêu,
Họ cũng chẳng nghe theo cho mấy.
Như thế chỉ luống thân hóa cải,
1870. Không khiến cho quảng đại người tu;
Nếu như em đợi khoảng xa lâu,
Kẻ quen biết khi nào chết hết.
Khi ấy dù khác thân khác nết,
Sẽ không ai phân biệt điều g.;
Nhưng nếu em chờ đến chừng ni,
Sẽ chết hết còn chi mà độ.
Việc tới gấp ở bên cửa sổ,
Chẳng lo mau ngồi đó mà chờ,
Người khát đang sắp chết từ giờ,
1880. Than nước ít bảo chờ mưa xuống.
Người sắp chết khát thì cho uống,
Nước ít nhưng cứu sống được người;
Nếu ngồi chờ mưa xuống tới nơi,
Thì người đã chết rồi hết cứu.
Tài đức đủ hay là không đủ,
Gặp việc lành thì cứ ra tay;
Không dần dà hẹn mốt hẹn mai,
Coi như lửa cháy mày một thứ.
Cứ một mực lòng người như thử,
1890. Mặc cho câu thiên lý thế nào;
Ví dầu thân vạn khổ thiên lao,
Hành thiện chẳng lòng xao ý muốn.
Rán độ kẻ thế gian kẻo muộn,
Nên cùng không một bận nầy thôi;
Chẳng khác chi sắp cuối mùa rồi,
Không xạ gấp ắt trôi tất cả.
Lần thứ chót rán thi công quả,
Trễ qua rồi dễ há kiếm ra;
Chữ Phật Tiên đâu cũng vẫn là
1900. Tìm nhơn thiện để mà tế độ.
Buôn gặp dịp há ngồi chịu lỗ,
Chẳng đua chen cho có đồng lời;
Loạn dân tâm loạn cả thế thời,
Lấy đạo lý giúp đời bình tịnh.
Thấy khổ mới nhiều người sực tỉnh,
Có đau răng thì miệng hả ra,
Bình thường ai gọi Phật về nhà,
Hữu sự lắm người ta khẩn đảo.
Thường cảnh ấy khiến người theo đạo,
1910. An thân mà thọ giáo ít ai;
Phật tử nên thừa lấy dịp này,
Kêu gọi kẻ còn say chưa tỉnh.
Nhân tai ách hoặc nhân khi bịnh,
Để độ cho thiện tín thiểu căn,
Ấy là cơ giáo hóa thường hằng,
Từ xưa các chơn tăng đã dụng.
Trong hoàn cảnh thăng trầm sanh chúng,
Phương tiện đưa vào cổng từ bi,
Mỗi một lần có cuộc biến di,
1920. Chính là mỗi một kỳ đại độ.
Một bát cơm một manh áo bố,
Có thể làm tỉnh ngộ được người,
Không đợi nhiều bạc bảy vàng mười,
Mới bố thí cho người cùng khổ.
Cái nón lá cái tàu mo nhỏ,
Cũng che người được đỡ cơn mưa,
Đâu lựa là có phố lầu to;
Mới giúp kẻ bị mưa trên lộ.
Lúc buồn ngủ được manh chiếu nhỏ,
1930. Mừng hơn thường khi có nệm cao;
Việc đang cần dù nhỏ thế nào,
Cũng sẽ trở nên cao giá trị.
Em há chẳng lấy đây nghiệm nghĩ,
Không còn buồn tài trí thô sơ;
Nên đem lời Phật mách huyền cơ,
Để kêu thúc kẻ ngơ ngẩn chí.
Tuy lao khổ gặp đường đạo lý,
Ấy là điều báu quí vô cùng,
Nếu không lo cho vẹn thủy chung,
1940. Xác tan nát mà hồn cũng mất.
Đem giống gieo khơi trên mặt đất,
Chẳng tưới tăng phân chất bón vào;
Sẽ khô lần cho đến tiêu hao,
Bông trái chẳng khi nào có được.
Phải gắn công vun phân tưới nước,
Nên chăm nom săn sóc thường hoài;
Đủ nắng mưa và đủ tháng ngày,
Có bông trái đâu sai ý muốn.
Chớ muốn sớm cũng đừng than muộn,
1950. Sớm lên thì chiều xuống đâu thôi,
Tạo hóa xưa nay đã định rồi,
Người không thể đổi dời khác được.
Việc thời tiết nếu người đi ngược,
Sự bất thành lại chuốc hại thân,
Hãy bình tâm chớ nóng tánh trần,
Đông khi mãn thì xuân liền tới.
Người có đợi hay là không đợi,
Luật tuần hoàn một lối cứ xây;
Hết đêm rồi thì kế đến ngày,
1960. Không hề đứng dừng ngay lại được.
Mỗi ngày qua người ta mỗi bước,
Cứ bước luôn ai được ngồi an;
Bước ngục môn hoặc bước Thiên đàng,
Người một nẻo cứ toan lo bước.
Càng bước càng thấy gần đến trước,
Khổ hoặc vui đón rước người đi;
Về thiên đàng do bước đạo nghì,
Sa địa ngục tại vì bất nghĩa.
Trong hai phía tự dồn một phía,
1970. Muốn hay không vẫn thế không sai;
Ai cũng đều theo định luật này.
Không ai đứng khỏi ngoài ấy được;
Người khá chọn đường lành để bước,
Hãy mau mau nẻo ác lui chơn.
Đạo sĩ bèn ngâm lớn lên rằng:
Nẻo ác tuy rằng có lợi to,
Cũng nên lui bước chớ nên dò;
Vì là chỉ sướng thân đương tại,
Muôn kiếp sau đây khổ lắm trò.
1980. Lắm trò khổ sở gánh mang vào,
Xưa sướng dường bao nay khổ bao!
Kế xảo được nên danh với lợi,
Chỉ là ăn trước trả về sau.
Về sau phải trả nợ ăn rồi,
Vốn một mà lời đến cả mươi;
Điều ấy cũng cần suy xét tới,
Lợi danh bằng cách ác nên thôi.
1988. Nên thôi nẻo dữ để theo lành,
Lợi chẳng hại người danh chánh danh;
Lợi tại kỳ công danh tại nghĩa,
Danh lợi nầy đâu tội lỗi sanh.
Tội lỗi sanh đem phước đối trừ,
Hư mà sửa mãi chẳng còn hư;
Đừng rằng đã lỡ cho luôn lỡ,
Lỡ lớn ra rồi lấp khó ư!
1996. Khó ư! Khi việc muộn màng rồi,
Việc nhỏ dường bao cũng chẳng xuôi;
Nên sớm tính toan hơn muộn liệu,
Lỗi không thêm lớn việc không trôi.
2000. Không trôi nhờ sớm quyết nơi lòng,
Nhơ bợn nơi tâm rửa sạch trong,
Bóng nguyệt lăng-nhăng vì sóng vỗ;
Khi lòng tịnh được huệ liền thông.
Liền thông rỗng cả cái thân tâm,
Không chỗ vương mang những lỗi lầm;
Lầm lỗi đã gây khi trước đó,
Như là cảnh mộng chẳng lưu âm.
2008. Lưu âm đã chẳng, chẳng lưu hình,
Những lợi những danh với những tình;
Của mộng vẫn là hoàn lại mộng,
Khéo bày trò hát giữa thâu canh.
Thâu canh cảnh khác cảnh ban ngày,
Một trắng một đen cảnh thấy hai;
Cảnh Phật cảnh phàm như thế ấy,
Chán đi hơn để dạ mê say.
Đạo sĩ ngâm xong bài thơ đó,
Ta cúi đầu liền tỏ lời rằng :
Cám ơn Ngài chẳng nại khó khăn,
Vui lòng xuống trần gian chỉ giáo,
2020. Nếu khắp cả nữ nam trong đạo,
Được có Ngài đến bảo như vầy,
Mê dường bao cũng sẽ tỉnh ngay,
Hiệu lực gấp mười đây kêu gọi.
Đạo sĩ liền chận lời và nói :
Đứa bé đôi ba tuổi trên đầu,
Mẹ nó tuy nghèo khó mặc dầu,
Nó vẫn mến đi đâu cũng dính,
Ông phú hộ đến gần bên cạnh,
Bảo nó theo hưởng cảnh giàu sang,
2030. Chớ ở chi với mẹ nghèo nàn,
Cơm chẳng đủ áo quần cũng thiếu,
Đứa nhỏ lắc đầu rằng không chịu,
Nh.n người giàu với điệu ngây thơ;
Vừa không ưa vừa vẻ nghi ngờ,
Liền bỏ chạy về nhà mẹ nó.
Em lấy đây mà suy sẽ rõ,
Không cùng duyên ắt khó gần nhau,
Nếu trái duyên mà chẳng ngại nào,
Các Phật đã độ lâu rồi chớ,
2040. Vì thế mới mượn lời đứa tớ,
Để làm cho nên nợ đôi bên.
Bị cách sông cầu chẳng bắc lên,
Người đang đứng hai bên khó hiệp,
Chúng hạ căn ở đời Mạt kiếp,
Khó hiện thân trực tiếp kêu về,
Nên dùng huyền để cứu người mê.
Như gỗ chẳng kê nề khó trục.
Chúng sanh có được lời kêu thúc,
Mới tỉnh ra đâu trược đâu thanh,
2050. Rồi từ đây mới khởi lòng thành,
Nguyện Phật độ vãng sanh Cực Lạc.
Theo việc thiện bỏ điều hung ác,
Gìn giới răn chay lạc kệ kinh,
Thế đã cùng Phật rấm duyên lành,
Sự hóa độ sẽ không còn ngại.
Miễn cho hột giống kia được rãi,
Có nắng mưa qua lại tự nhiên,
Mượn lấy duyên độ kẻ không duyên,
Cứu gấp chúng sanh miền hạ giới,
2060. Cách độ nầy rất là hợp lối,
Chư Phật Tiên đã khởi khắp nơi,
Muốn bảo cho đứa nhỏ nghe lời,
Nhờ mẹ nó hoặc người thân thích,
Cứu người dưới hố sâu mù mịt.
Không dùng thang đâu kịp cứu ra,
Nếu chẳng dùng đến vật thứ ba,
Khó hàn gắn khó hòa được vật.
Nên cụ lão cũng là Đức Phật,
Mới dạy em cơ mật từ lâu,
2070. Cũng còn nhiều kẻ có duyên sâu,
Được Phật chỉ nhiệm mầu cạn kỹ.
Khắp châu quận cùng là lân lý,
Phật luôn tìm đơn vị nhân duyên,
Để độ người sớm biết tu hiền,
Và cũng chống ngăn luồng ma giáo.

Tác giả bài viết: Thanh sĩ Thích Huệ Duyên
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Giới thiệu

Tổ Truyền Đăng

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni Cách nay 2556 năm 1. TỔ MA HA CA DIẾP Đồng thời đức Phật 2. TỔ A NAN Sanh sau Phật 30 năm 3. Tổ Thương-Na-Hòa-Tu ( Sanakavasa)  Thế kỷ đầu sau Phật Niết-bàn 4. Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)  Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn 5. Tổ...

Thống kê

  • Đang truy cập: 82
  • Khách viếng thăm: 42
  • Máy chủ tìm kiếm: 40
  • Hôm nay: 5937
  • Tháng hiện tại: 1719521
  • Tổng lượt truy cập: 59372454

Tin xem nhiều

Xem bản: Desktop | Mobile