Nó phi đao rất nhanh như chớp,
Muôn người trong nháy mắt giết xong;
Ngày nầy sẽ có chẳng không,
Chúng sanh chớ có đem lòng dễ ngươi.
Hãy liên kết khắp nơi như một,
Làm hiền nhân chưởng hột phước duyên;
Nắm tay mở rộng cửa thiền,
A-Di-ĐÀ-Phật niệm liền trong tâm.
Lão ấu thảy đồng làm việc Phật,
Dẹp tà tâm chứa đức từ bi;
Đến ngày biến đổi Nguơn kỳ,
1092. Yêu ma sẽ chẳng làm gì được đâu.
Phép tà đem đối đầu với Phật,
Như lửa kia đem nước tát vào;
Càng làm cho lửa tắt mau,
Hại chi được Phật hùng hào luống công.
Vậy con nhớ khuyên trong sanh chúng,
Đừng để cho ngày lụn tháng qua;
Mau tu chớ hẹn tuổi già,
Đến khi mãn cuộc thì là hết trông.
Chim sa lưới khó mong vùng vẫy,
Cá mắc câu cựa quậy sao ra;
Chớ rằng thế cuộc còn xa,
1104. Thình lình việc tới liệu mà sao kham.
Phật cũng chẳng luận đàm xa xắc,
Nói ngay điều trước mắt mà nghe;
Thân người như sắt trên đe,
Búa Trời nhật nguyệt đánh đè ngày đêm.
Qua một phút chết thêm một phút,
Cứ đi lần đến lúc tắt hơi;
Đâu ngày nào được nghỉ ngơi,
Nếu người hẹn mốt hẹn mơi là lầm.
Chết bất đắc đâu kham niệm Phật,
Già lảng tâm đạo đức sao xong;
Chi bằng trong lúc sự không,
1116. Trì tâm niệm Phật gia công tu hiền.
Không gây cuộc oan khiên mai hậu,
Tránh xa câu nghiệp báo bất lành;
Sớm hôm ăn ở sạch thanh,
Cho lòng giữa Phật cùng mình không xa.
Đời hễ giàu ở nhà cao quí,
Nghèo sống nơi dơ dáy thấp thoi;
Tu hành cũng giống thế thôi,
Huệ sâu đức lớn được ngồi phẩm cao.
Việc tu niệm càng lâu càng quí,
Trải nhiều năm cây cội càng to;
Đừng sờn những lúc gây go,
1128. Không người uốn nắn sao cho nên hình.
Huống lại kẻ làm lành thì ít,
Đứa hung hăng gian ác thì nhiều;
Cố nhiên phải bị ghẹo trêu,
Nếu không chịu nổi phải xiêu theo người
Thiếu đại lực ắt trôi việc lớn.
Không đại hùng khó thắng nguy nan,
Tu như lọc cát tìm vàng;
Việc đâu phải dễ chớ toan ngã lòng.
Trên đồi cao sen không thể mọc,
Sống an nhàn khó học chữ tu.
Sự đời tập nhiễm từ lâu,
1140. Chỉ trong tức khắc dễ đâu bỏ liền.
Việc đã nhớ muốn quên rất khó,
Tập thì mau từ bỏ phải lâu,
Rừng già cây cối lợp đầu,
Chỉ trong một bữa dễ đâu phá rồi.
Những kẻ đã trau giồi đạo đức,
Thảng như chưa sáng được cõi lòng;
Nghĩ rằng còn thiếu đức công,
ráng bồi cho đến huệ thông mới vừa.
Hết sớm lại kế trưa rồi tối,
Ngày giờ luôn thúc hối quần linh,
Mau toan về cõi bất sinh;
1152. Kẻo thần chết đến bên mình hết trông.
Tiếc thì giờ đến không muốn ngủ,
Mê tu hành đến bữa quên ăn;
Chỉ trong một xác làm Tăng,
Đủ siêu tam giới được thăng Liên-đài.
Nếu có kẻ nhanh tay hơn nữa,
Trong nhứt thời bụi rửa sạch không;
Tức là sen được trổ bông,
Tên đề rõ rệt Phật đồng ngợi khen.
Chúng cõi hạ như đèn tim lụn,
Tu như vầy sẽ đúng cách hơn;
Cần nên nhẹ bước nhanh chơn,
1164. Mới mong kịp chuyến đò cơn cuối cùng.
Lần nầy nếu người không hành đạo,
Muôn kiếp sau khổ não vô cùng;
Sanh vào trong cõi mông-lung,
Ngu mê như thú ở rừng hoang-vu.
Không gặp Phật không nghe được pháp,
Đạo không thông việc phước càng mê;
Nạn tai hứng chịu trăm bề,
Biết ngày nào được dựa kề Lạc-bang.
Nay sanh chúng tuy mang thống khổ,
Được nghe lời dạy dỗ kệ kinh;
Khác nào bịnh gặp thuốc linh,
1176. Trong tai-họa có phước lành ẩn nương.
Không nhận đó là đường tồn tại,
Thì Phật đây còn phải nói sao?
Con nên khuyên chúng tu mau;
Đừng chờ nổi cuộc ba đào mới lo.
Muốn qua sông gặp đò đến rước,
Chớ chần chờ hãy bước xuống đi;
Xưa kia đã lắm diên-trì,
Mới trôi lần đến thời kỳ nầy đây.
Từng chịu cuộc tà tây khảo thí,
Bận lắm trò huê mỹ mê hồn;
Há không lấy đó làm khôn,
1188. Muốn cho giải thoát hãy nôn tu hành.
Chốn dạ đài hồn linh tông tổ;
Trông cháu con lớn nhỏ làm hiền,
Hầu lây hưởng chút phước duyên,
Khỏi vòng lao lý thoát miền trầm luân.
Hơn nữa cũng sắp gần Long-Hội,
Các Phật Tiên khắp cõi lập thành;
Ban ơn cho kẻ hiền lành,
Muốn mình cũng được nên danh trong hàng.
Phận con cháu nên toan cho vẹn,
Rán độ mình độ đến tổ tông;
Tu cho đắc quả thành công,
1200. Để làm tông tổ nơi lòng được vui
Nầy con khi thức dậy rồi,
Nhớ đem lời ấy khuyên người đừng quên;
Người đã biết ơn đền nghĩa trả,
Làm việc nào lại há không nên;
Nuôi trong lòng một chữ bền,
Mọi điều chi cũng làm nên như thường.
Việc chi nếu nửa đường lại bỏ,
Dù là điều rất nhỏ cũng hư;
Tu hành cũng giống thế ư,
1210. Không đi đến cuối thì người ra ma.
Lỗi tại người há là tại đạo,
Đừng trách than chớ nhạo không linh;
Linh không thì cũng tại mình,
Gương lau sạch bụi tức hình soi ra.
Biển cứ động thì là nước đục,
Tâm không bình huệ tức không sanh;
Đường bên tay phải Phật hành,
Ngõ nằm phía trái chúng sanh đi hoài.
Đi đến chết mấy thây cũng vậy,
Không bao giờ được thấy Phật đâu;
Hiền lành Phật dạy từ câu
1222. Chúng sanh không chịu lo âu nửa lời.
Khác tư tưởng khác nơi hành động,
Người Niết - Bàn kẻ móng thế gian;
Càng đau đớn khúc đoạn tràng,
Biết chừng nào được hiệp đàng với nhau.
Đoạn nầy khiến ta nhào ra khóc
Cảm Phật ân rồi trách người đời,
Cứ say đắm việc ăn chơi;
Không lòng tin tưởng theo lời từ bi.
Bị tất cả lưới nghi ám ảnh,
Làm tinh thần đạo hạnh nhược suy;
Chẳng gìn ngũ giới tam qui,
1234. Cang thường luân lý bỏ đi không cần,
Chôn thiện tánh trong rừng mê muội,
Lấp đạo căn dưới bụi trần ai;
Riêng thân đã bị đọa đầy,
Còn làm Đức Phật nhiều ngày thương lo.
Nghiệp mê chúng đã to như núi,
Đức huệ con kém cỏi ít oi;
E khuyên họ chẳng nghe lời,
Nhờ ơn Phật lực khiến đời phát tâm.
Phật chận lời liền ngâm bài kệ:
Nước thấm qua cac vật.
Trời soi khắp vạn loai.
Giống gặp mưa liền phát.
Đời loạn đạo nên khai.
Định châu trong được nước.
Sức gió thổi tan mây.
Sắt cứng không đương lửa.
Thú khiếp sư tử oai.
Thuyền không đi trên lộ.
Nên gạo chịu người xay.
Thuốc dùng cho kẻ bịnh.
Đuốc không rọi ban ngày.
Chớ e trời không mọc.
Trong hột có lá cây.
Kệ nghe qua lòng nầy hớn hở,
Như kẻ mù được mở mắt ra;
Thế là trong Phật có ta,
1261. Trong ta có Phật thế mà không hay.
Nghĩ rồi ta chắp tay lạy Phật,
Lòng vô cùng cảm đức của Ngài;
Nguyện đem cái xác mọn nầy,
Gánh đau sầu cứu mê say cho đời.
Đến khi nào hết người khổ não,
Ta mới vui lòng đáo Tây-phang;
Ngày nào còn kẻ khốn nàn,
Ta còn ở thế mở đàng từ bi,
Lời nguyện nầy bỏ đi muôn xác;
Cũng không quên xin Phật chứng miêng,
Hay thay ! Con khéo phát nguyền,
1273. Con cùng sanh chúng lành duyên từ nầy.
Họ nhờ con dứt dây oan nghiệt,
Con do người công đức rộng sâu;
Nhiều người khao khát từ lâu,
Con đem nước tịnh trong bầu nầy đây.
Mau cho họ kẻo dày công đợi,
Sớm chừng nào ích lợi chừng ni;
Cơ duyên nay đã đến kỳ,
Càng không nên để diên trì phút nao.
Huống lại khắp trần lao hiện tại,
Thứ gọi tên là Nội-Ngã-Ma;
Khắp trong thế giới Ta-bà,
1285. Nơi nào nó cũng cửa nhà dựng lên.
Nó rất thích sống trên người thế,
Chỉ biết mình không kể tới ai;
Nó hay bắt vật các loài,
Dù thân thích cũng không hay ân cần.
Tự tạo lấy cho thân riêng hưởng,
Không biết màng tư tưởng lợi tha;
Nó dùng đủ phép yêu ma,
Xây thành đắp lũy gần xa khắp cùng.
Nó ham muốn vốn không bờ bến,
Nghĩ cho thân nghĩ đến vợ con;
Nó không giờ phút ngừng chơn.
1297. Bào hao lo liệu tảo tần ngày đêm,
Nó thường muốn sống êm trên gấm,
Dùng đủ phương xâm chiếm của người,
Kẻ đau khóc, nó vui cười,
Ăn xương uống máu của người rất ưa.
Nó yêu mến không chừa một việc,
Thường mưu mô cướp giết loài người;
Chúng sanh thế kỷ hai mươi,
Cũng vì tại nó chịu đời đắng cay.
Hóa đủ hạng gái trai già trẻ,
Giả vua quan giả kẻ thường dân;
Nhà giàu nó cũng ẩn thân,
1309. Kẻ nghèo nó cũng đến gần không chê.
Thấy của cải nó mê nó đắm,
Mưu lấy đi cho đặng mới thôi;
Ma nào có chút vị ngôi,
Lòng tham ác lại gấp mười thường ma.
Người bị nó trầy da phỏng trán,
Nó khiến sai bất hạng người nào;
Một khi bị nó nhập vào,
Điều chi nó bảo cũng nhào ra đi.
Nó muốn được kẻ qu. người bái,
Thường bày mưu tạo lấy oai danh;
Nó ưa thích việc sát sanh,
1321. Thường đi chiếm lũy phá thành đối phương.
Nó muốn ai cũng nhường nhịn nó,
Hay thét gầm như hổ rừng hoang;
Nó khi được sự giàu sang,
Bắt người nghèo khó làm hàng tớ tôi.
Kẻ trên nó nó soi nó bói,
Hạng dưới tay đánh chửi lung-lăng;
Nhỏ nhoi hơn lũ ruồi lằng,
Món chi nó cũng uống ăn không chừa.
Thấy ai tạm muối dưa nó nhạo,
Bảo rằng không có đạo Phật Tiên.
Dại gì lại phải làm hiền,
1333. Bị người hiếp đáp quí quyền không ngơ.
Nó khuyên hãy theo phò bên nó,
Chẳng những là giàu có cao sang;
Nào là nhiều bạc nhiều vàng,
Còn thêm nhiều thiếp nhiều nàng giúp vui.
Có ca nhạc làm nguôi cơn thảm,
Sẵn rượu ngon rửa đặng lòng sầu;
Hơi nào móng việc đâu đâu,
Nên lo ngay cuộc sang giàu là hơn.
Lũ nó cứ khuyên lơn như thế,
Còn bày ra đủ kế gạt người,
Nó làm cho khắp cõi đời;
1345. Không còn ai biết tu thời mới ưng.
Nó có tánh chê Thần ghét Phật,
Nó thường hay phá phách Tăng đồ;
Giả làm trai đẹp gái tơ,
Khiến cho Tăng chúng ni cô mê hồn.
Khi đã bị thần hôn quỉ ám,
Bỗng trở nên trí loạn tâm mê;
Từ bi lộn ngỏ quên về,
Nghiêng đàng tục lụy theo bề thế gian.
Tự rút nhịp cầu sang Tịnh-độ,
Giong ruổi theo ác lộ tinh ma;
Đạo mầu càng lúc càng xa,
Hết mong cứu vớt như là trứng ung.
Hạng Tăng đồ còn không tránh nổi,
Người thường nhơn chống chọi sao ra;
Dễ làm con cháu quỉ ma,
1357. Càng suy nghĩ tới thì là càng thương.
Kẻ quan quyền lạc đường chúng nó,
Sẽ gây nên tai khổ muôn dân;
Người thường bị nó vấn chân,
Tự làm con vật thiêu thân của mình.
Nó vốn là không hình không bóng,
Lấy xác thân người sống làm thân;
Nếu không dùng chú Hội Thần,
Thì là không thể biệt phân được nào.
Xác người bị nó vào làm chủ,
Sẽ trở nên làm đủ tội mê;
Hết còn biết sự khen chê,
1369. Cứ làm sao được ngỏa nguê ý mình.
Không còn biết đến tình bác ái,
Chẳng cần nghe đạo nghĩa ai phân;
Tội nào cũng buộc vào thân,
Càng làm càng bắt tinh thần say sưa.
Rán ngừa nó như ngừa kẻ địch,
Ngày những đêm thường xét trong tâm;
Nếu như thấy bóng sai lầm,
Mau ngăn lại chớ cho thâm nhập vào.
Lòng tinh tấn giồi trau đạo hạnh,
Cách ở ăn đúng đắn luật nghi;
Việc làm nào cũng nghĩ suy,
1381. Tránh cho khỏi phạm những gì xấu xa;
Trong tâm niệm Di-Đà không dứt,
Miệng nói lời đạo đức thẳng ngay;
Thuyết tà không để vào tai,
Sự mê dù nhỏ cũng hay ngăn trừ
Tập lòng biết thương người hơn của,
Lo ích chung vui bỏ lợi riêng,
Dùng tiền không bị mê tiền;
Cảnh giàu sang chẳng làm điên tâm hồn.
Hữu tình chẳng bị chôn trong sắc,
Có danh không tự đắc lấy danh;
Áo đời tạm mặc vào mình,
1393. Để làm lợi ích nhơn sanh xa gần.
Xác phàm tục tinh thần Bồ-Tát,
Đò luôn đưa bến giác không ngưng;
Sống cho khắp cả chúng dân,
Mỗi điều là mỗi vị nhân mà làm,
Tham nhưng chẳng giống tham thường tục,
Dục mà không phải dục phàm tinh;
Tham nhiều của giúp nhơn sanh,
Tham cho ai cũng ấm lành áo cơm.
Tham đến đỗi điều nhân dù nhỏ,
Cũng vui làm không bỏ trôi qua;
Dục sao cho cõi Ta-bà,
1405. Trở nên Cực-Lạc nhà nhà an cư.
Dục cho mọi người trừ nghiệp dữ,
Lấp xong đường sanh tử luân hồi;
Chừng nào việc ấy thành rồi,
Thì tham dục mới chịu thôi trong lòng.
Được ý niệm sạch trong như thế,
Không bao giờ lầm kế quỉ ma;
Con dùng đạo huệ cao xa,
Độ cho chúng trở nên nhà thiện lương.
Kẻ hiểu đạo soi gương tiến đạo,
Người còn mê được tháo lưới mê;
Mùi thiền thơm nực dường huê,
1417. Trên vui tánh Phật dưới xuê lòng người.
Yêu quái hết dể ngươi khuấy rối,
Tinh tà không cơ hội phá phanh;
Chỉ đem công đức hiền lành,
Đủ làm tà phép tan tành liền khi.
Tà không thể hại gì được chánh,
Như nước càng đập mạnh càng văng;
Khi người hữu đức hữu căn,
Luôn luôn có ánh hào quang khắp mình.
Làm cho mắt tà tinh bị chóa,
Không thể gì xông phá lại gần;
Lúc nào cũng bảo vẹn thân,
1429. Được an thể xác tinh thần cũng an.
Ngược lại kẻ lòng gian tánh xấu,
Dễ làm nơi cơ cấu cho ma;
Khác nào trộm muốn vào nhà
Được người hở cửa tức là vào ngay.
Lộ không kẻ vãng lai dòm ngó,
Tức nhiên là cây cỏ mọc lên;
Trong lòng cứ mãi bỏ quên,
Các điều ác dục nó liền sanh ra.
Rễ chưa mọc diệt đà dễ diệt,
Châm gốc rồi muốn tiệt khó khăn;
Làm sao đừng để ăn năn,
1441. Khỏi đường sanh tử sánh bằng Thần Tiên.
Người thường hay lòng quên ý thức,
Lầm lỗi rồi mới sực nhớ ra;
Chừng ni đã muộn thay là,
Chi bằng xét trước rồi mà làm sau.
Việc nào phải thì mau bước tới,
Điều quấy thì lo thối cho nhanh;
Lo cho thân tộc được lành,
Cũng không quên giúp dân tình hiền lương.
Mở cho mình rộng đường sanh sống,
Lại cũng lo giúp vốn người nghèo;
Gặp ai mắc phải nạn eo,
1453. Ra tay giúp đỡ tùy theo sức mình.
Kẻ lỗi phạm mở tình tha thứ,
Người dốt thời dạy chữ cho thông;
Xử phân rất mực bình công,
Từ ngoài việc chúng đến trong nhà mình.
Trọng lễ phép biết gìn phong hóa,
Không chửi thề không cả rầy la;
Mỗi lời mỗi tiếng nói ra,
Vừa là êm dịu vừa là thẳng ngay.
Giàu sang cũng chẳng hay nịnh bợ,
Nghèo hèn không ruồng bỏ khinh khi;
Ai khen cũng chẳng vui gì,
1465. Ai chê cũng chẳng lấy chi làm phiền.
Gặp người có đức hiền thì học,
Thấy ai còn hung ác thì khuyên;
Tuy là sống chốn đảo điên,
Mà lòng vẫn được lặng yên như thường.
Chẳng bị kẻ buộc vương tội ác,
Thường được làm chủ các việc đời,
Vào ra trong chốn ăn chơi;
Như trăng thu nọ lội bơi trong hồ.
Trăng không bị nhiễm-ô trong nước,
Nước chẳng cầm giữ được bóng trăng;
Tự do đi lại ngày hằng,
1477. Không phiền ai đón ai ngăn được mình.
Sắc chi cũng không chinh được mắt,
Mắt tự do ngắm vật trong ngoài;
Đẹp không vọng niệm mê say,
Xấu không khởi ý chê bai gớm nhờm.
Tiếng chi cũng không làm tai mến,
Tai tự do nghe tiếng dở hay;
Dở không buồn ghét nơi tai,
Hay không buộc phải chuyển lay trong lòng,
Mùi chi cũng chẳng lung được mũi,
Mũi tự do để ngửi các mùi;
Thơm không làm nảy ý vui,
1489. Hôi không thể khiến cho khơi lòng buồn.
Vị chi cũng chẳng sờn được lưỡi,
Lưỡi tự do nếm thử các vì;
Ngon không làm mến ưa chi,
Dở không sanh khởi ý gì chán chê.
Cọ đụng chẳng làm mê thân xác,
Thân tự do đụng các lạnh nồng;
Lạnh nồng không nhiễm được lòng,
Cứng mềm cũng chẳng trói tròng nơi tâm.
Vật chi cũng không làm động ý,
Ý tự do xử trí vật danh;
Giàu nghèo ưa ghét chẳng sanh,
1501. Có không cũng chẳng khiến tình chấp nê.
Cảnh không thể làm mê tâm ý,
Ý tự-do tự trị lấy mình;
Trong sanh tử, vượt tử sanh,
Tuy mang xác tục mà tình Thần Tiên.
Đoạn nầy rất diệu huyền vô tận,
Người Hạ Nguơn nếu đặng dịp nghe,
Sẽ là tỉnh được giấc mê;
Bỏ điều hung ác theo bề thiện lương.
Ta nghĩ thế không lường mừng rỡ,
Như chim lồng được mở cho ra;
Tay liền chắp trước Phật- Đà,
1513. Vừa nghiêng mình lạy vừa là cám ơn.
Nếu Phật chẳng hóa thân dạy dỗ,
Đời khó mong giác ngộ đạo mầu;
Cứ vui theo việc đâu đâu,
Càng đào hố tội lỗi sâu thêm nhiều
Núi dù có bao nhiêu sức nặng,
Cũng không so kịp đặng Phật ơn,
Con nguyền giữ dạ keo sơn,
Đem lời Phật thuyết tỏ phân cho đời.
Bày đạo lý giữa thời hỗn loạn,
Cố nhiên là nhiều đoạn gay-go;
Cúi xin Phật trợ giúp cho,
1525. Khiến an được khách mà đò cũng an.
Phật chận lời bảo rằng chớ ngại,
Phật ban thêm cho gậy Kim-Cang;
Gặp khi yêu quái đón đàng,
Hãy mau lấy gậy đánh tan tức thì.
Gậy chẳng những trị vì yêu quái,
Còn ngăn luôn được loại thú rừng;
Huống là kẻ bạo thường nhân,
Gậy nầy có sức đương ngăn dễ dàng.
Vậy trong lúc lên đàng giảng kệ,
Con nhớ mang chớ để rời xa;
Từ gần cho đến chỗ xa,
1537. Gậy nầy có thể phi ra như thường.
Sắt đá chẳng hề đương kịp nó,
Nó vào trong lửa đỏ như không;
Đập tan núi hóa thành đồng,
Cứng không chi sánh dẻo không gì bằng.
Thảng gặp vật trở ngăn nguy biến,
Dùng gậy nầy linh hiển phi thường;
Yêu tinh chẳng những không đương,
Đến như tà giáo cũng luôn khuất tùng.
Lúc ngủ thức cũng không rời nó,
Quỉ ma không dám mó lại gần;
Đây là gậy phép hộ thân,
1549. Con nên gìn lấy cho cần đừng quên.
Gậy nầy chẳng những riêng con hưởng,
Khi phổ-thông tư tưởng Phật- Đà;
Thảng như gặp kẻ mù lòa,
Gậy nầy con khá đem ra dắt người.
Kẻ già yếu đứng ngồi khó mỏi,
Dùng gậy nầy chống chỏi đỡ nâng;
Hoặc là gặp kẻ què chân,
Con mau dùng lấy gậy thần dẫn đi.
Lúc ăn uống hay khi tiểu tiện,
Hữu sự là dùng đến tự nhiên;
Nơi nào cũng khỏi cữ kiêng,
1561. Như là nước rửa không phiền sạch dơ.
Nhà đạo sĩ không nhờ có gậy,
Chẳng bao giờ tự tại được đâu;
Vậy con chớ dạ lo âu,
Luôn luôn có gậy theo hầu bên con.
Nhận lấy gậy lòng son hớn hở,
Hơn người nghèo được số bạc to;
Thế là ta bớt nỗi lo,
Sớm hôm được có gậy phò bên ta.
Giữa cõi thế nhiều ma với quỉ,
Có gậy nầy ắt trị được ngay,
Ta liền cúi lạy Phật Ngài,
1573. Ơn nầy muôn kiếp không phai được nào.
Từ mặt Phật có hào quang sáng,
Chiếu vào ta rồi phán lời rằng:
Trong đời có lắm ác tăng,
Thấy con có gậy lòng hằng sanh ghen;
Đợi gặp lúc tối đèn tắt lửa,
Hoặc trong khi hớ cửa trống chưn,
Nó vào trộm mất không chừng,
Con nên cẩn thận chớ đừng lẵng lơ.
Kẻ ác tăng đang cơ hưng thạnh,
Mượn cửa thiền làm cảnh giàu sang;
Tục lòng chẳng kém thế gian,
1585. Cũng ưa rượu thịt cũng đàng bướm ong.
Mượn chuỗi hột lòe trong bá tánh,
Đắp cà sa khoé mánh thập phương;
Tùng phe tụ phái lắm đường,
Chúng làm ngược cả kỷ cương nhà thiền.
Tội của chúng ghi đen cả sách,
Ngày rốt đời đủ cách phạt răn;
Chuỗi kia hóa lại xích thằng,
Ngày đêm không ngớt trói trăng nơi mình.
Cà sa nọ đổi thành áo sắt.
Giờ phút nào cũng mặc vào thân,
Thịt xương đau nhức không ngần;
1597. Chịu cho đến lúc tiêu lần đi thôi,
Mang lốt Phật nói lời tà ác,
Miệng trở nên lửa khạc phun ra,
Mắt thì đỏ tợ huyết dà,
Hình hài xấu xí hơn là quỉ yêu.
Thống khổ biết bao nhiêu mà kể,
Thêm uống ăn nhơ uế tanh hôi;
Thấp hèn hơn loại lằng ruồi,
Ai trông cũng bắt trề môi gớm nhờm.
Kẻ dối tu cứ ôm lòng ác,
Con khuyên cho họ giác điều nầy,
Xin đừng mượn tiếng Phương Tây;
1609. Gạt lừa thiên hạ để xây mộng đời.
Hãy ăn ở đúng lời Phật dạy,
Cần trọng tôn luật giái nhà thiền;
Xét chưa dứt đặng trần duyên,
Nên ra ngoài thế chớ nên ở chùa.
Điều nầy khiến ta ngờ liền hỏi?
Ví có người đã lỗi ăn năn,
Sẽ còn được phép làm tăng;
Hay là vẫn loại khỏi hàng thiền gia.
Phật rằng nếu ai mà phạm tội,
Nếu thật lòng cải hối bỏ đi,
Thì là tội nọ còn chi,
1621. Ví như gió lặng tức thì sóng yên.
Từ trong tâm khởi lên hung dữ,
Cũng do tâm sanh sự hiền lành;
Bổn tâm vốn thật không hình,
Bởi duyên theo cảnh sanh tình nọ kia.
Duyên theo ác chịu bề lao khổ,
Duyên theo lành được có phước ân;
Dữ lành nếu chẳng biết phân,
Khác nào cây cỏ thức thần đều không.
Vậy con nhớ khuyên trong sanh chúng,
Lỡ phạm rồi thì cũng ăn năn;
Làm cho bên thiện càng tăng,
1633. Còn bên hung ác ngày càng giảm đi.
Phật ngóng đợi ai qui cửa đạo,
Để ghi tên nơi bảo Liên-Trì;
Để ngày Long-Hội mở thi,
Sẽ cùng các Phật đồng qui một đường.
Mã an toàn:
Tháng GiêngNgày mồng một, vía Đức Phật Di Lặc Tháng HaiNgày mồng tám, vía Đức Phật Thích Ca xuất giaNgày rằm,vía Đức Phật Thích Ca nhập diệtNgày 19,vía Đức Quán Thế Âm Bồ tátNgày 21,vía Đức Phổ Hiền Bồ tát Tháng BaNgày 19,vía Đức Chuẩn Đề Bồ tát Tháng TưNgày mồng bốn,vía Đức Văn Thù Bồ tátNgày...
Ý kiến bạn đọc