MỤC LỤC
============
Phụng Hoàng Cảnh Sách
Tập 3
Thỉnh Nguyện Tăng
Đoạn 2
Ngày 28-8 Ất Hợi (22-9-1995)
Hôm nay thỉnh nguyện thấy toàn chúng có ít lỗi lầm, đó cũng là một tiến bộ đáng mừng của chúng.
Kế đây tôi nhắc lại câu chuyện hôm rồi mình đã coi trong cuộn phim. Quí vị có nhớ lúc Thái tử ngồi tu dưới cội bồ-đề, tới đoạn thấy có người ở ngoài, rồi Thái tử nắm tay người đó... Nhớ không? Người đó là người nào vậy? Tôi nhắc lại cho quí vị nhớ để biết sự tu hành tới chỗ cứu kính như thế nào.
Trong cuộn phim đó, đạo diễn có sơ suất là đáng lẽ lúc Thái tử ngồi dưới cội bồ-đề thì quân ma kéo tới bao vây, khủng bố Ngài trước, và sau khi chúng tan rồi mới tới mấy cô thiếu nữ đến để dụ dỗ Ngài. Nhưng trong phim lại thấy trước là thiếu nữ cám dỗ rồi sau mới tới quân ma khủng bố. Đó là sai thứ tự trong lịch sử.
Và đây tôi nói rõ cho chúng hiểu. Thái tử tu trải qua bao nhiêu năm gian khổ, gặp mọi hoàn cảnh khắc nghiệt, tới phút cuối cùng ở dưới cội bồ-đề vẫn còn thấy hiện ra những cảnh kinh khủng. Trước hết, ma hiện đủ thứ, nào là đầu trâu mặt ngựa, binh khí đầy dẫy. Chúng tới bao vây Ngài, bảo Ngài phải về, đừng tu nữa, tu không thể nào thành đạo được. Khi ma khủng bố như vậy, Phật dùng cái gì để trị nó? Đó là điều chúng ta phải hiểu cho thật rõ. Gần đây có nhiều người tập tu thiền, hoặc ở thất tu một mình, nghe nói ma phá rồi sợ. Nghĩ mình tu phải có cái gì trị ma, cho nên học thần chú, bùa trị ma, hoặc học bắt ấn trị ma. Đó là cái lối của người tu Phật sau này.
Trở lại đức Phật chúng ta, lúc đó Ngài có tụng chú gì không? Ngài có bắt ấn đánh ma không? - Ngài chỉ lấy định tâm để hàng phục. Dù cho ở bên ngoài có những hình ảnh ghê tởm, kinh khiếp khủng bố mình, nếu chúng ta nhất tâm an định, mặc nó làm gì cũng không sợ, thí chính sự nhất tâm an định làm cho ma không hại mình được, phải tự xấu hổ rút lui. Đó là điều thiết yếu. Bởi vậy chúng ta thấy lúc đó Phật chỉ nhiếp tâm thiền định thôi, chớ không làm gì hết.
Tới đoạn thứ hai là ma nữ. Trong sử ghi lại, lúc ấy có một số mỹ nữ hiện ra, trong đó có người giả Da-du-đà-la, tới nhắc nhở, khêu gợi, tình tứ như thuở nào. Đó là nó muốn làm cho Ngài động tâm. Sự khủng bố của ma tuy có uy lực mạnh nhưng nếu liều chết nhắm mắt lại, tĩnh tâm thì ít động niệm. Tâm dễ động nhất là khi ma dùng mỹ nữ, hiện những người thân yêu của mình nhắc nhở, làm sống dậy những cái ái thuở trước, làm cho tâm dễ xao xuyến, loạn động. Đó là cái thuật rất sâu. Ma khủng bố tưởng như nguy hiểm nhưng chưa phải sâu, sự thử thách sau mới sâu hơn. Cho nên ma nữ tới sau chớ không tới trước.
Bọn ma nữ dùng mọi thuật quyến rũ cốt lôi cuốn tâm Ngài, làm Ngài khởi lòng yêu mến, bị ái nhiễm rồi quên sự tu hành. Lúc đó Ngài dùng cái gì trị? Ngài không nhiếp tâm nữa mà chỉ nói: “Chúng bây là bọn giặc ma giả dối, những hình ảnh hư ảo. Hãy đi, đừng hòng quyến rũ ta!” Ngài nói vậy, chúng xấu hổ bỏ đi hết. Đó là cái gì? Đó là trí tuệ. Cho nên trong kinh A-hàm, Phật thường nói: “Ta dùng cây cung Thiền định và mũi tên Trí tuệ dẹp phá ma quân.” Quí vị nhớ kỹ điều này.
Khi ma khủng bố làm cho mình kinh hoàng thì phải nhiếp tâm thiền định. Khi ma dùng những thứ hấp dẫn để quyến rũ, lường gạt, mình phải sáng lên, thấy rõ sự giả dối, tạm bợ của nó, thấy đúng rồi thì nó tự tan hết. Vậy chúng ta tu theo Phật phải nhớ hai điểm đó để ứng dụng.
Ví dụ bây giờ mấy chú đi đâu gặp các cô thiếu nữ, họ tỏ vẻ quyến luyến, thương yêu, chừng đó nhiếp tâm không nổi thì phải làm sao? Tất nhiên là phải quán rồi. Dùng trí tuệ Bát-nhã quán thân này như huyễn, không có thật, là hư ảo. Phải luôn luôn quán để chặn tâm ái chớ làm thinh không được. Vì vậy cái gì thích hợp với bệnh của mình phải dùng cho đúng, trị nó mới hết, nếu không biết dùng thì bệnh hoài không dứt được. Đó là tôi nói cho thấy hai chặng quan trọng trước.
Kế đến hai chặng sau. Khi Ngài đang ngồi yên tức là qua lần thử thách rồi, bỗng dưng thấy một người là hình ảnh của Ngài ở bên ngoài. Ngài đưa tay nắm người đó. Hai người nắm tay, rồi người ngoài tan đi, khi đó trên đầu Ngài phát hào quang sáng, sáng đó là ngộ đạo. Đây là hình ảnh tượng trưng, chớ sự thật không phải như vậy. Bởi vì khi mình tu, tâm đã thanh tịnh, vượt qua hết những chướng ngại rồi, tới lúc phát tuệ sẽ nhận chân được con người muôn thuở của mình.
Chúng ta đang sống đây ai cũng bám vào thân tứ đại làm thân mình, bám vào suy gẫm tính toán làm tâm mình. Nhưng thực tế hai cái đó biến chuyển vô thường, là thứ bại hoại, không thật. Phật đã nhận chân được lẽ đó nên Ngài mới đi tu. Đi tu là cố tìm cho ra cái chân thật. Chúng ta vì bám vào cái vô thường, sanh diệt, nên thân này hoại, tiếp tục mang thân khác, cứ thế mà trầm luân sanh tử khôn cùng.
Bây giờ muốn thoát khỏi sanh tử không gì hơn là tìm cho ra con người chân thật của mình, con người đó không bị sanh diệt, vô thường chi phối. Cho nên thoát ly sanh tử là gốc của sự tu. Thường ngày mình quán thân này vô thường, quán nhân duyên, quán giả hợp. Thân này do duyên hợp, hợp rồi tan, sanh rồi diệt, không phải thật. Đó là đứng về thân. Còn về nội tâm thì những niệm nghĩ suy, những tính toán là tướng sanh diệt, chợt có, chợt không, không có thật thể.
Vì vậy mình biết rõ ở ngoài là thân, ở trong là tâm, hai thứ này đều là tướng sanh diệt, theo nghiệp để tạo thiện, ác, đi trong luân hồi, cõi lành, cõi dữ mãi mãi khôn cùng. Dù cho sanh lên cõi trời cũng là cảnh sanh diệt. Cho nên đối với Phật, Ngài thấy ở cõi trời vẫn chưa hết khổ, chỉ khi nào dứt được sanh tử mới hết khổ.
Như vậy trong chúng ta, ngoài cái thân sanh diệt và tâm sanh diệt, vẫn còn cái thật thể bất sanh bất diệt. Nhưng chúng ta lâu nay không biết, chỉ biết có hai tướng sanh diệt thôi. Bởi vậy chúng ta ngồi lại tu luôn luôn thấy thân này không thật, nhớ từng hơi thở, từng nhịp tim, từng mạch máu chuyển động không dừng nên mới còn, nếu nó ngừng chuyển động thì chết, chớ không có gì thật hết. Rồi những tâm niệm chợt dấy lên, chợt mất đi cũng không phải thật là mình.
Lặng hết những sanh diệt đó, thể bất sanh bất diệt hiện tiền. Khi chưa lặng cái đó cũng sẵn có, nhưng tại mình mê, chấp cái sanh diệt là mình cho nên quên. Bây giờ hết mê, hết chấp cái sanh diệt thì cái bất sanh bất diệt hiện tiền. Bởi vậy mình tu là cốt nhận ra cái chưa từng sanh diệt đó. Lục tổ Huệ Năng đã nói trắng ra với người đầu tiên hỏi đạo Ngài.
Khi ngài Huệ Minh thưa: “mong cư sĩ vì tôi nói pháp”, Lục Tổ bảo:
- Ông đã vì pháp mà đến đây thì nên dứt sạch mọi duyên chớ sanh một niệm, tôi sẽ vì ông nói.
Huệ Minh im lặng giây lâu. Tổ bảo:
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?
Một câu nói đó đầy đủ vô cùng. Bản lai diện mục tức là mặt thật muôn đời của mình. Nó chỉ hiện ra khi nào tâm nghĩ thiện, nghĩ ác dừng. Thái tử khi ngồi dưới cội bồ-đề, tâm Ngài không bị xao xuyến bởi những cái khủng bố, quyến rũ, tâm an định, tự tại nên con người thật của Ngài hiện ra. Thấy được con người thật gọi là giác ngộ, là thành đạo. Hiểu như vậy mình mới thấy Thiền tông là cốt tủy của đạo Phật chớ không thể nói khác hơn được. Còn nếu không hiểu vậy thì tưởng như nó xa lạ, khác thường.
Như vậy, chuyện tu của chúng ta không phải là chuyện tầm thường thế gian. Người thế gian không biết con người chân thật, bám chặt thân hư dối và tâm vọng tưởng cho là mình, tạo nghiệp đi trong luân hồi. Người tu biết mình có cái chân thật rồi, nghĩ lại thương xót tất cả thế gian đang bị mê muội, kéo lôi trong vòng sanh tử. Vậy nên chúng ta phải làm sao thoát ly sanh tử để cứu giúp họ, đó chính là lòng từ bi. Đây mới là việc lớn, còn tất cả việc thế gian hay việc Phật sự chưa có việc nào lớn hết. Chỉ có việc chính mình giác ngộ, thoát ly sanh tử rồi chỉ dạy cho người giác ngộ, ra khỏi sanh tử mới là việc lớn của người tu.
Khi xem cái gì chúng ta phải hiểu thấu đáo những hình ảnh, thì việc xem của chúng ta mới có giá trị. Nếu chỉ coi cho vui thôi thì không có ích gì. Đây là tôi muốn nói rõ cho tất cả hiểu để ứng dụng tu theo đúng tinh thần của đức Phật.
Giờ tới phần sắp đặt việc chúng. Ngày mai tôi giao cho Thông Bản lãnh đạo một nhóm lên tụng Tam qui, Ngũ giới cho Phật tử. Đây là một việc làm mới trong Thiền viện, cũng có thể mới trong Phật giáo Việt Nam mình, cho nên mấy chú phải cẩn thận một chút. Bởi việc làm này có thể về dưới kia người ta bắt chước làm theo, nên đây là mở đầu quan trọng.
Trước khi tụng tôi sẽ có mặt để nói ít lời cho họ hiểu ý nghĩa. Dạy người khác làm mà họ không biết ý nghĩa thì cũng chỉ gượng làm theo thôi, chớ họ không hiểu, không thích việc đó. Nên tôi cũng nói sơ ý nghĩa cho họ hiểu, rồi bắt đầu tụng. Thâu băng đàng hoàng để về dưới đó cho quí Phật tử biết.
Sở dĩ tôi làm điều này là do hai động cơ thúc đẩy. Thứ nhất là Phật tử của mình thật đông, nhưng qui y xong về họ không biết gì nữa. Làm lễ qui y rồi thì thôi, tưởng như vậy là xong việc, rốt cuộc Phật tử không biết tinh thần tu hành ra sao, tu như thế nào. Nếu ở gần, được quí thầy giảng dạy thường thì biết chút ít, còn những người ở xa như Tân Châu, Hồng Ngự... lên Thường Chiếu qui y, rồi về dưới cả một hai năm không lên lần nào, rồi không biết gì hết.
Thứ hai nữa, gần đây chúng ta thấy ngoài Bắc có nhóm Trúc Lâm; trong Nam, ở thành phố có hai nhóm: Tuệ Tâm và Thái Tuệ, mỗi nhóm cả trăm người. Họ cũng tu theo mình, mỗi tháng hay mỗi tuần họp lại tại chùa tụng kinh, ngồi thiền, nghe băng để tìm hiểu, trao đổi thêm với nhau. Nhưng chúng ta không có chương trình gì để cho họ tu, bởi vậy tôi thấy cũng có trách nhiệm. Khi họ tụ hội lại như vậy, mình phải có một đường lối hướng dẫn cụ thể. Trước hết phải tụng Sám hối, tụng Ngũ giới làm căn bản, rồi sau đó mới tọa thiền, nghe băng, trao đổi ý kiến với nhau, như vậy hay hơn. Do đó tôi mới soạn thảo chương trình này để tụng hằng nửa tháng hay hằng tháng cho tất cả hiểu.
Tôi không chịu tụng có vẻ ê a nhiều, vì tụng giới là một sự khẳng định mạnh mẽ, thệ nguyện mà, thệ không làm cái này, thệ không làm cái kia. Thành ra mình phải tụng rõ ràng, chậm rãi mà cứng rắn chớ không phải yếu ớt. Đó là ý tôi, nói cho quí vị hiểu.
Ngày 13-8 nhuần Ất Hợi (6-10-1995)
Hôm nay thỉnh nguyện, trong toàn chúng chỉ thiểu số có vài lỗi. Những người có lỗi cũng có lý do chánh đáng. Vậy cho thấy rằng tinh thần tu hành trong chúng đã tiến bộ nhiều. Kế đây tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng để cố gắng tiến lên.
Chủ trương của tôi lâu nay là phàm làm việc gì phải có kết quả, chớ tôi không chịu làm chỉ để làm thôi. Cho nên tất cả mọi công tác từ nhỏ tới lớn tôi đều chú ý tạo điều kiện làm sao cho việc làm đó có kết quả, vì tôi chủ trương mình không thể nào bỏ công làm một việc vô ích. Thà không làm, làm thì phải có kết quả tốt.
Hồi còn nhỏ tôi hay nghe các vị lớn tuổi nói: “Phàm nhân bá nghệ hảo tùy thân.” Lại có người nói: “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.” Hai câu đó quí vị thấy nghĩa ngược nhau. Một câu thì nói người có một trăm nghề là cơ hội để tùy thân, tới đâu gặp việc gì mình cũng sống được hết. Câu thứ hai nghĩa là làm một nghề mà chuyên thì sẽ tốt đẹp cho thân mình sau này. Trong hai câu đó, từ lâu rồi tôi đã chọn một câu. Quí vị nghĩ tôi chọn câu nào? Câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, chớ tôi không chịu câu kia.
Tại sao vậy? Bởi vì tôi chủ trương làm cái gì phải làm cho đến nơi đến chốn chớ không thể làm nửa chừng rồi bỏ dở. Mình biết rất nhiều mà không có cái gì giỏi, không có cái gì dùng được thì cái biết đó chỉ tạm bợ thôi, không đưa tới kết quả tốt. Cho nên làm việc gì cũng phải đi tới tột cùng con đường của mình. Nên lúc đi tu tôi có nguyện: “một lần cạo tóc là không bao giờ để tóc lại”, nghĩa là mình đã chọn con đường này rồi thì không thể nào thay đổi ý kiến nữa.
Khi ở trường, tức tại Phật học đường chùa Ấn Quang, có quí thầy học trước tôi hai năm như thầy Bửu Huệ, thầy Thiền Tâm và một số thầy khác nữa. Đến lúc ra trường, hai thầy có nguyện là không làm Phật sự mà xin nhập thất mười năm. Vậy là ra trường rồi quí thầy về quê nhập thất. Tôi thấy nể quá. Ngược lại lớp chúng tôi thì vừa học, vừa đi giảng, làm tứ tung. Cho đến cuối năm 1966 tôi xin nghỉ, nhập thất. Nhớ lại hai thầy nhập thất mười năm mà chưa thấy có gì kỳ đặc, tôi nghĩ mình nhập thất chuyến này chắc cả hai ba chục năm không biết có ra gì không? Nên tôi tuyên bố với Phật tử, tôi nhập thất không có hạn kỳ. Khi nào thấy có gì hay, mới, tôi sẽ mở cửa ra để dạy thêm, bằng không cứ tiếp tục nhập cho đến chết.
Khi nghe tôi tuyên bố như vậy, ai nấy cũng tưởng tôi nhập thất chắc lâu lắm. Không ngờ năm 1968, tức năm Mậu Thân, tôi khởi sự nhập thất từ rằm tháng 4 tới tháng 7, năm đó nhuần hai tháng 7, tới ngày 21 tháng 7 nhuần thì tôi sáng được lý Bát-nhã.
Từ đó tôi mới coi lại tất cả kinh lâu nay học mà còn nghi, đọc tới câu nào hiểu câu ấy rõ ràng, cho nên tôi rất vui, vui luôn cả hai ba ngày. Rồi tôi đem tất cả sách thiền ra đọc. Hồi xưa tôi đọc không hiểu gì hết, bây giờ đọc tới đâu hiểu tới đó. Ngang đây tôi thấy có một con đường mới, cho nên tôi cố gắng tra khảo, nghiên cứu. Khi gặp cuốn Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự của ngài Khuê Phong, tôi càng nắm vững tinh thần Thiền hơn. Sau đó tôi mới tin rằng Thiền tông có thể hiểu và thực hành được. Cho nên tới ngày 8 tháng 12 tôi mở cửa ra. Nhiều người cho rằng: “Tuyên bố dài quá chắc nhập không nổi, ngán nên mở cửa ra sớm.” Nhưng họ không ngờ thời gian nhập thất tuy ngắn mà đã có kết quả.
Khi xét lại tôi mới thấy rõ: trọng tâm sự tu của mình là ở chỗ quyết tâm. Đã không tu thì thôi, nếu tu phải quyết tâm sống chết thì thời gian sẽ rút ngắn hơn rất nhiều, còn tu mà không quyết tâm thì thời gian có thể kéo dài. Bây giờ chúng ta tự kiểm điểm lại, nhiều người xem tu như là cái nghề vậy, cứ làm những chuyện bình thường như đi cúng, tụng kinh rồi thôi, chớ không quyết tâm tu hành sống chết. Vì vậy suốt cả đời tu rất lâu mà không có kết quả.
Bởi vậy tôi muốn trong chúng làm việc phải có quyết tâm. Việc gì mà quyết tâm cũng đều có kết quả tốt. Sống trong cuộc đời này, trên mọi lĩnh vực, người nào làm việc gì mà không quyết tâm, chỉ làm cầm chừng lấy có thì khó mà tiến nổi. Việc tu hành của chúng ta do chúng ta chọn lựa để tiến lên, để làm suốt đời, đây là một việc rất khó, khó hơn tất cả. Nếu không quyết tâm, làm sao thành công được? Vì vậy, chúng ta quyết chọn con đường này rồi phải nỗ lực sống chết, sẽ có kết quả chắc chắn không nghi ngờ.
Ngày 13-9 Ất Hợi (5-11-1995)
Hôm nay tôi có ít lời nhắc nhở toàn chúng. Những lời này là tôi chứng kiến sự thật trong lúc đi về Thường Chiếu.
Kỳ này về, đầu tiên là gặp T.L. ra đảnh lễ, xin tôi giới thiệu cho được ở lại Thường Chiếu tu. Tôi nói rõ rằng T.L. là người đã lớn chớ không còn nhỏ, mấy lần rồi tôi sắp đặt mà không được. Bởi vì T.L. đã hai ba phen bỏ đi, đi rồi trở lại, tứ tung như vậy tôi làm sao giới thiệu được. Năn nỉ quá chừng tôi cũng cương quyết không nhận lời. Đó là một sự kiện cụ thể cho toàn chúng thấy, mình tu mà không có lập trường, nay vầy mai khác, nay muốn ở đây, mai thích ở chỗ khác, rốt cuộc không có chỗ dung thân. Đó là một cái phiền do mình không có lập trường.
Kế đó tôi thăm các vị nhập thất bên Ni. Có một cô tôi miễn kể tên, khi thưa trình sự nhập thất lạy tôi khóc quá chừng, trình với tôi rằng:
- Hồi sắp vô thất, con cứ đinh ninh là con nhập thất trong vòng một tuần lễ rồi sẽ chết, bởi vì con ở ngoài vừa bệnh tim, vừa huyết áp cao, lại bị đau bao tử. Ba bốn bệnh, cứ nay mệt, mai mệt hoài. Tới phiên nhập thất, con nói thôi kệ, cứ vô chừng tuần lễ rồi cho nó chết. Bởi vậy khi nhập thất con nghĩ mình chết chớ không sống. Một, hai ngày đầu cũng bình thường. Đến ngày thứ ba, thứ tư gì đó, tim nó quạt lên mạnh quá, ngộp thở. Con nghĩ rằng thôi chấp nhận chết. Mọi lần ngồi thiền con ngồi hai tiếng, bữa đó tính cho nó chết luôn nên ráng ngồi hơn hai tiếng rồi tới ba tiếng, bỗng nhiên cả người mồ hôi ra ướt áo hết. Lúc đó tâm được yên, nghe bệnh mệt mất tiêu. Đến chừng xả thiền ra thì tất cả bệnh không còn.
Thường chúng ta vừa nghe có bệnh là sợ, không có ý chí để vượt lên. Còn cô ấy là Ni mà gan dạ liều chết, chấp nhận chết cho nên sống được. Nghĩa là qua được cơn chết thì sống, đó là một bằng chứng hết sức cụ thể. Khi nỗ lực, liều chết tu, người ta sẽ vượt qua hết bệnh hoạn, cũng có thể dễ thấy đạo. Trong chúng, ai cũng có ý chí liều chết mà tu, tôi nghĩ rằng sẽ có những bước tiến vượt bậc. Bởi vì có khi bệnh không nhiều mà mình cứ quan trọng, tưởng đâu nặng lắm, rồi bị ám ảnh, do đó không dám tu vì sợ tu nhiều bệnh thêm. Cứ như vậy thành lui sụt hồi nào không hay.
Vì vậy, khi gặp những cơn bệnh ngặt nghèo mình phải tu quyết tử, nếu tâm vững mạnh liền thắng, còn tâm yếu tự nhiên bị thua. Khi đã vượt qua được, chẳng những hết bệnh mà còn sáng được đạo lý nữa. Vậy nên tất cả phải có lập trường cho vững, ý chí kiên quyết thì trên đường tu bảo đảm sẽ vượt qua các khó khăn, còn yếu yếu khó mà qua được. Chúng ta phải thấy thân này không ra gì, sẵn sàng xả bỏ bất cứ lúc nào. Hễ mình chấp nhận chết nó lại không chết, còn sợ chết thì sẽ chết. Cho nên cứ gan dạ can đảm coi thường, chúng ta sẽ vượt qua các bệnh, lại thêm trí tuệ sáng suốt.
Tôi nghĩ rằng mọi người đều có khả năng giác ngộ chớ không riêng ai, nhưng khả năng đó chỉ dành cho những người có ý chí quyết tâm, còn những người yếu đuối khó mà đạt kết quả. Vì vậy, chúng ta ai ai cũng nên nhìn cho thật kỹ, thấy cho thật rõ đường lối tu, đồng thời mình phải quyết tâm liều chết mà tu thì trên đường tu sẽ có kết quả tốt, không nghi ngờ chút nào. Người nữ còn có thể làm được những việc tốt đó, huống nữa mình là nam nhi, ý chí quả quyết mà lại thua kém hay sao? Đó là lời nhắc nhở của tôi.
Ngày 28-9 Ất Hợi (20-11-1995)
Hôm nay thỉnh nguyện, trong chúng những vị có lỗi lớn hoặc nhỏ đều biết để ra sám hối. Đó là tinh thần tự giác tốt. Giờ đây tôi có ít lời nhắc nhở trong chúng.
Thuở xưa Tổ Bá Trượng có nói: “Thấy bằng với thầy còn kém thầy nửa đức. Thấy vượt hơn thầy mới kham truyền trao.” Quí vị nghe câu đó mới thấy tinh thần nhà đạo lúc nào cũng mong mỏi những người đệ tử bằng hoặc giỏi hơn mình, để gìn giữ sự nghiệp, đường lối, hướng dẫn chỉ dạy cho người sau được đầy đủ, trọn vẹn hơn. Đó là cái mong mỏi của người lớn.
Ở đây, tôi lúc nào cũng nghĩ rằng trong mấy mươi người hiện có mặt, mỗi vị có mỗi tài riêng, đức riêng và chỗ hiểu đạo lý riêng. Những cái riêng đó đều quí. Người có tài giúp cho Thiền viện được nhiều việc tốt, người có đức giúp cho Thiền viện được nhiều người quí kính, người tỏ sáng hiểu được đạo lý thì làm cho Thiền viện mình được mọi người tin tưởng noi theo. Cho nên lúc nào tôi cũng mong mỏi trong chúng có những người tu đạt đến chỗ tỉnh giác đáng mừng, đáng quí, nói cách khác là “À” được, để mình đủ điều kiện hướng dẫn người sau.
Tuy nhiên, tôi cũng nói lại, trong chúng người tài phần nhiều có một hai bệnh lớn. Luôn luôn người giỏi có bệnh tự cao khó mà tránh được, vì thấy mình làm được, người khác làm không được cho nên cống cao, ngã mạn, thấy mình hơn người. Ngược lại người khác thấy người đó có tài hơn mình, đôi khi họ sơ ý đụng chạm, mình thấy như khinh khi, lấn lướt mình. Do đó mà không vui, bực bội với nhau. Vì vậy có tài chừng nào càng phải khiêm tốn nhiều chừng nấy mới tránh làm người khác phiền não, bực bội.
Còn có đức là điều quí, không làm tăng trưởng ngã mạn. Mình luôn luôn dùng đức để cảm hóa người khác. Nếu nói có đức mà lại chê người này, trách người kia, là làm cho đức của mình giảm đi. Người có đức lúc nào cũng đem điều hay, tốt, an lạc lại cho mọi người, chớ không bao giờ làm cho người ta phiền não, vì như vậy làm mình bị tổn đức.
Người có trí sớm tỉnh, sớm giác là một điều quí báu. Mình tỉnh mà thấy người khác chưa tỉnh thì phải thương. Nhưng thương cũng có hai cách, một là tạo duyên để người khác tiến, đó là cách thương tốt. Hai là thương rồi muốn họ có cái nhìn, cái thấy giống như mình, nhưng căn cơ trình độ họ chưa tới, bắt họ giống như mình không thể được. Người tỉnh ngôn ngữ nói khác, người mê ngôn ngữ nói khác, bây giờ người tỉnh muốn người mê ăn nói giống mình, hành động giống mình thì đó là họa. Vì người kia chưa tỉnh không thể nào làm giống mình được.
Cho nên, ở khía cạnh nào cũng có cái hay và cái dở, mình biết rồi thì phải nhìn đủ mặt. Khi mình có tài, có đức, có sự tỉnh giác thì phải có cái nhìn tường tận hơn, đừng để gây ra sự vui buồn cho người chung quanh không tốt. Một vườn hoa, nếu chỉ có một đóa hoa sẽ không bao giờ thành vườn hoa được. Muốn thành vườn hoa đẹp phải có nhiều hoa, tuy có những đóa kém phần rực rỡ nhưng nó cũng góp phần tô điểm vườn hoa.
Cũng vậy, chúng ta đừng nghĩ chỉ có mình ta là được việc, còn người khác làm không được, hay chỉ mình ta có đức hạnh còn mọi người không ra gì. Phải nhìn cho thật kỹ, thấy những người ở đây đều là những đóa hoa, dù to hay nhỏ, dù đẹp hay xấu cũng đều tô điểm cho Thiền viện mình trở nên phong phú, quí báu. Đừng nên khinh thường một người nào, trái lại tất cả phải có tinh thần đoàn kết, kẻ giỏi hướng dẫn người dở, ai có đức thì dìu dắt người kém đức, kẻ tỉnh nhắc nhở người mê. Làm sao cho mọi người ở trong Thiền viện này đều phát triển được những điều hay, đẹp, tăng trưởng đạo đức chân chánh, đó là điều mong mỏi của tôi.
Tôi đã từng nói với quí vị, cuộc sống này không phải bao giờ cũng như ý mình hết. Có khi gặp những cảnh tốt thuận hợp. Có khi gặp cảnh xấu trái ý. Cảnh tốt là thuận, mà thuận thì tiến chậm; cảnh xấu là nghịch, tuy nghịch lại giúp tiến nhanh. Nếu chúng ta biết tu, nhờ nghịch cảnh chúng ta mới thấy được mình còn tham, sân hay không. Cái gì cũng thuận hết thì những thứ tham sân đó chìm ẩn trong tàng thức mình đâu thấy.
Bởi vậy ở trong chúng rất có lợi, khi mình có chỗ dở, gặp những phản ứng của người chung quanh, mình mới biết để sửa. Còn ở riêng muốn làm gì cứ làm, nói gì cứ nói, không có ai chống trái nên không biết chỗ yếu của mình. Ở trong chúng, có những cái rất hay để mình học, lại có những cái rất dở để mình ngừa tránh. Như vậy, mọi thứ nếu biết học đều là bài học hay cho chúng ta.
Đừng nghĩ rằng tại sao trong chúng còn có kẻ dở này, người dở kia; cũng đừng đặt câu hỏi tại sao lại có người không ưa hay chống đối mình. Cứ nghĩ là trong chúng các duyên thuận hoặc nghịch đều là cơ hội tốt để đưa mình tiến lên. Cũng đừng nghĩ người này xấu với mình, người kia ác với mình..., nghĩ như vậy là sai lầm. Gần đây tôi thấy trong chúng có cái mầm không được hòa lắm, nên tôi phải nhắc cho quí vị nhớ.
Kế nữa, tôi chỉ cho quí vị thấy rõ ý nghĩa đời tu của mình. Chính con người có đạo đức, có trí tuệ thì mới làm lợi ích cho Phật pháp mai sau. Cái chùa hay Thiền viện không thể làm lợi ích cho người được. Có lợi ích hay không là do khả năng của người lãnh đạo. Giá trị Phật pháp nằm ở nơi con người, còn chùa hay Thiền viện đẹp thì du khách tới viếng chơi, chớ không có làm lợi ích gì. Vì vậy người nào hay, tốt là người sẽ làm lợi ích cho đạo mai kia, chớ đừng nghĩ lãnh chùa lớn là lợi ích cho nhiều người.
Tôi lấy tôi làm bằng cớ. Hồi ở Huệ Nghiêm, qua hai năm tôi dạy trường Vạn Hạnh, tiền lương mỗi giờ dạy năm trăm đồng, tôi dạy hai năm, góp nhóp được hai chục ngàn đồng. Khi rời Huệ Nghiêm lên núi tu, hai chục ngàn đồng đủ cất một cái thất bằng lá dừa và xây được một hồ nước đủ cho tôi xài. Bao nhiêu đó đối với tôi là hạnh phúc lắm rồi. Một cái thất lá, một hồ nước nhỏ, mình tự sống tu. Vậy là khi tôi ra khỏi Phật học viện, gia tài chỉ bấy nhiêu thôi. Từ đó tôi cố gắng tạo duyên tốt để tiến tu, và nhờ tôi tu được nên sau này mới làm Phật sự, xây dựng Thiền viện...
Những cái đó không ai ban cho tôi, cũng không ai chia cho tôi. Thầy tôi không có chùa nào hết, cả đời Người chỉ lo hoằng pháp lợi sanh. Chùa Phước Hậu, Hòa thượng Hoằng Phú làm Trụ trì. Chùa Phật Quang là của Hòa thượng Hoằng Tâm. Còn Hòa thượng Viện trưởng chỉ ở nhờ để làm Phật sự, cả lúc làm việc ở Ấn Quang cũng vậy. Nên khi Hòa thượng tịch rồi, không có cái gì để trao cho đệ tử hết, chỉ dạy cho đệ tử hiểu đạo tu, ngày nay tôi kế thừa được cái đó. Kế thừa đạo lý nơi thầy để học tu, nhờ học tu nên bây giờ làm được các Phật sự.
Như vậy, tất cả quí vị đừng nghĩ mai kia mình sẽ có những gì bằng hoặc hơn thiên hạ, mà nên nghĩ mình phải làm sao có đạo đức thâm hậu, phải làm sao tỉnh giác trọn vẹn. Hai cái đó có đủ rồi thì quí vị không muốn chùa cũng có chùa, không muốn làm Phật sự lớn cũng được làm. Còn nếu hai cái đó chưa có thì dầu muốn bao nhiêu cũng không được. Nếu ai đó cho ngôi chùa thật to mà đạo đức mình không đủ, trí tuệ không sáng thì chùa to đó rồi cũng để váng nhện đóng, chớ không có lợi gì.
Vì vậy trên đường tu tất cả đều phải nỗ lực, cố gắng làm sao cho mình có đạo đức, có trí tuệ, để mai kia cầm ngọn đuốc sáng soi đường cho người mê ra khỏi đau khổ tăm tối, đó là trọng tâm, là mục đích của mình. Như vậy, ở đây chúng ta bắt đầu tổ chức thành một ngôi Thiền viện với tư cách là khôi phục Thiền tông Việt Nam, một việc làm vừa mới, vừa lớn lao. Khôi phục Thiền tông của đất nước không phải là chuyện một cá nhân làm được, mà phải có sự đóng góp của nhiều bàn tay, nhiều công sức mới thực hiện được.
Chúng ta có cơ hội tốt, đủ duyên lành tụ hội lại một nơi thì chúng ta phải ráng, kẻ góp công, người góp sức để tô điểm, xây dựng cho ngôi Thiền viện được bền lâu. Đây là của chung tất cả chớ không của cá nhân ai, chúng ta phải làm sao cho ngôi Thiền viện này luôn sáng sủa, vững bền, đó là mình gầy dựng được cái nền Phật giáo Việt Nam lâu dài. Đừng nghĩ mai kia tôi chết rồi, cái này của người này hoặc của người kia, đừng bao giờ nghĩ như vậy.
Ngày nay chúng ta ở đây là cơ hội tốt để cùng gầy dựng lại nền tảng Phật pháp đã suy lụn, làm cho nó được vững bền, tốt đẹp. Đây là một sự đóng góp chung, quí vị cứ nhớ như vậy mà cố gắng tu, cố gắng làm sao để mình là một người góp phần lớn lao cho sự nghiệp Phật pháp mai sau. Nhớ như vậy là tốt, chớ còn nhớ cái gì riêng tư là không hợp đạo lý.
Vậy mong tất cả trong chúng, ai cũng có cái nhìn như vậy. Thấy chung, lo chung để làm được Phật sự chung, đừng nên riêng rẽ. Phật giáo đã chia rẽ lắm rồi, nếu ngày nay chúng ta cũng còn tâm niệm chia rẽ nữa thì quá tệ. Cho nên tôi mới đề ra lục hòa là muốn cho toàn chúng sống trong tình đoàn kết, hòa hợp, trên dưới như một, để chung lo Phật sự lớn. Vậy trong toàn chúng ai cũng phải nhớ mình là một viên gạch, một hòn đá để xây dựng ngôi nhà Phật pháp mai sau. Đừng nên thấy mình là một ngọn núi riêng, không tốt, không có lợi ích cho nhiều người.
Một điều nữa cần nhắc thêm, ở Thiền viện nếu tu ít, lâu ngày dễ sanh phiền não, tôi thấy rõ như vậy. Cho nên mỗi người phải nỗ lực tu, để từ trên xuống dưới sự tu hành đều được đầy đủ, không bê trễ. Bởi vì trọng tâm của mình ở đây là tu, còn việc bên ngoài là hình thức phương tiện thôi. Thật ra, sự lo lắng của tôi, không phải là chuyện đói no, ấm lạnh, vì tôi thấy Phật tử rất thương mình, không bỏ mình đói, nên tôi chỉ lo làm sao cho chúng ở đây tu được. Vì tôi đã tuyên bố đây là lý tưởng tối hậu của tôi, nếu toàn chúng tu không ra gì thì lý tưởng đó mất, không còn giá trị.
Hơn nữa, bây giờ nhu cầu Phật sự của mình ngày càng lớn, chớ không giới hạn như lúc trước. Khi nhu cầu đòi hỏi, Phật sự càng lớn thì người tu chúng ta phải làm sao có đạo đức, trí tuệ đáng tin, để mai kia mình đưa vai gánh vác. Còn nếu mình tu không ra gì mà nhu cầu đòi hỏi nhiều quá, phải cho ra làm thì thế nào cũng hỏng việc.
Ngày xưa trong nước mình chỉ có mấy Thiền viện thôi, nhưng bây giờ chỗ này chỗ kia mời, nhất là ngoài Bắc, Phật tử cũng muốn mình ra dạy họ. Như vậy nhu cầu Phật sự rất lớn, nếu trong chúng tu không được thì mai kia làm sao đáp ứng nổi. Bởi vậy tôi mong tất cả trong chúng từ trên xuống dưới ai cũng phải tu thật cẩn mật. Nhờ tu cẩn mật quí vị mới có những bước tiến mạnh và vững, để khi tôi nhắm mắt, có thể thay thế làm được những việc gần xa.
Số chúng hiện nay khoảng bốn mươi. Trong số đó phải có mười hoặc trên mười người đáng tin cậy. Nếu trong bốn mươi mà chỉ được một, hai người thì không làm nổi việc gì. Vậy ai cũng phải hạn chế đi lại để có thời giờ tu, không nên thả lỏng quá, chính cái thả lỏng làm mình thiệt thòi. Ngày nay còn sức khỏe, còn tu được mà thả trôi, tới mai kia già yếu rồi muốn tu, tu cũng không được. Vậy nên, mỗi người phải tiết kiệm thời giờ để tu hành. Đó là lời tôi khuyên nhắc, tất cả nên lưu ý cố gắng.
Ngày 13-10 Ất Hợi (4-12-1995)
Hôm nay thỉnh nguyện thấy toàn chúng không có lỗi lầm, đó là điều đáng mừng. Chúng ta tu mỗi ngày mỗi tiến, cho nên những sai sót, lỗi lầm mỗi ngày mỗi giảm bớt, đó là lẽ thật. Vậy nên tất cả đều cố gắng tu hành, đừng để lỗi lầm sống trở lại nữa. Đó là điều tôi mong mỏi.
Kế đến, tôi xin nhắc nhở toàn chúng.
Trong chúng gần đây tôi thấy nhiều người còn nóng lắm. Nóng giận là một bệnh rất nguy hiểm. Trong ba món tham, sân, si thì si là số một, tham là số hai, sân là số ba. Cái si rất thâm trầm, nó chìm lặng ở trong thâm tâm ít ai thấy. Cái tham hiện rõ hơn, còn sân rất là bồng bột, cháy bỏng, nó dấy khởi thì nguy hiểm sẽ kèm theo, không thể lường trước được. Bởi vậy, cái sân tuy không sâu, nhưng lại nguy hiểm.
Sở dĩ tôi nói không sâu, vì như trong kinh Phật dạy, người sanh cõi trời Sắc giới thì không còn sân nữa, chỉ còn tham và si. Sân chỉ có ở cõi Dục giới của chúng ta. Tại sao nó có ở Dục giới? Vì trong cõi Dục này có hai lý do làm mình dễ sân. Một là do tham, mình muốn cái gì mà bị ai ngăn trở không đạt được ý muốn thì nổi sân lên. Hai là do bản ngã, chúng ta thấy mình cao, mình lớn, cho nên ai động tới là nổi sân.
Có nhiều vị than “tánh tôi nóng quá”. Than như vậy thấy cũng đáng thương, nhưng sự thật đừng nói
tánh nóng, phải nói có
thói quen nóng, vì thói quen là do mình tập. Thường người lớn ở trong gia đình lúc nào cũng dễ nổi nóng hơn người nhỏ. Như con có làm gì sai thì cha mẹ la rầy, chớ cha mẹ làm sai con đâu dám la. Như vậy mình chỉ nóng với người dưới chớ không nóng ngược lên người trên. Cũng thế, đối với người không có địa vị hoặc địa vị ngang mình hay thấp hơn mình, họ làm trái, mình dễ nổi nóng. Còn với người địa vị cao, có quyền thế hơn mình, họ làm trái mình đâu dám nóng.
Như vậy cái nóng đó tôi gọi là nóng coi mặt chớ không phải nóng thật, đã không thật thì không gọi là
tánh. Nói
tánh không chánh xác. Vì tánh là cái sẵn có không đổi dời được, như nói lửa có tánh nóng thì tất cả lửa đều nóng, nước có tánh mát thì tất cả nước đều mát, cái đó không hề thay đổi.
Vọng tâm chúng ta không như vậy, với người thấp hơn nó dễ sân, với người cao hơn thì ít sân. Như vậy, sân có kèm theo chấp ngã. Khi nào thấy ngã mình cao, ngã mình quan trọng thì dễ nổi sân, ai chạm tới, mình tóe lửa liền. Vậy tất cả nên xét kỹ cái ngã này không thật, chỉ là tướng duyên hợp hư dối. Chúng ta thấy rõ rồi, không còn nghi ngờ gì nữa, cho nên giả sử có ai nói hay làm điều gì xúc chạm đến bản ngã của mình, mình chỉ cười thôi, “cái thứ không quan trọng, có gì đâu mà bảo vệ”. Nghĩ vậy tự nhiên bớt sân.
Ở đây chúng ta không tham cầu gì, cho nên lý do thứ nhất ít xảy ra, nhưng lý do thứ hai vì bản ngã còn nhiều. Đó là tôi nói nguyên nhân của sân. Bây giờ tôi nói đến tai họa của sân.
Khi chúng ta nổi sân lên, lời nói và hành động của mình không thể kềm chế được, mình nói mà không lường được tai họa của nó, không nghĩ thốt ra sẽ làm người ta buồn bực như thế nào. Vì vậy mới sanh ra nhiều chuyện, người này buồn trách người kia, hoặc phản đối rồi nổi nóng với nhau. Lúc nóng giận thì lời nói không thể kiểm soát được.
Kế đó là hành động, ở thế gian khi nổi sân hành động phát ra thô tháo rõ rệt, còn ở trong đạo, biết tu nên hành động nhẹ nhàng hơn. Thí dụ ở ngoài nổi giận là xăn tay áo muốn thoi đánh nhau, còn chúng ta trong chùa nổi giận thì mặt đỏ, miệng nói lời thô, tay chân múa may, không được bình tĩnh. Như vậy cũng là những hiện tượng xấu, người khác thấy dễ bất mãn.
Người tu chúng ta dù chưa được quả Thánh, nhưng ít ra cũng phải dằn nóng giận, tham lam và si mê. Nóng giận là cái nổi, mình cần kiểm tra nó thường xuyên, vừa có liền buông bỏ. Ở thế gian có ai dùng ngôn ngữ, hành động lấn hiếp, mình chống cự, phản đối lại để được thắng họ thì thiên hạ khen. Còn trong đạo đối với người tu, dầu mình phải trăm phần trăm mà bị người ta chửi hoặc đánh, nếu mình chửi lại, đánh lại chưa chắc được ai khen, trái lại người ta còn đánh giá mình ngang với kẻ thế gian kia.
Chỗ hơn của người tu là nhẫn được, nhịn được. Người ta chửi mình, mình im lặng. Người ta đánh mình, mình không la lối, tức giận, đó là thắng. Như vậy mọi người mới thấy mình tu đàng hoàng đứng đắn, không còn nóng giận, không có hơn thua. Với cái nhìn thế gian, không chống trả là thiệt thòi, nhưng thật là mình có sức an nhẫn mãnh liệt, chịu đựng nổi cơn nóng giận và chiến thắng được điều trái tai gai mắt. Không có gì làm cho mình phải bực tức, đó chính là sức mạnh phi thường của người tu.
Từ xưa đến nay người ta hay nói nhẫn là nhục, nhưng thật ra trong đạo không phải vậy. Nhẫn là chiến thắng, đó là chiến thắng mình. Trong kinh Pháp Cú có câu: “Thắng vạn quân không bằng thắng mình, thắng mình mới là chiến công oanh liệt nhất.” Khi cơn phẫn nộ vừa dấy lên, mình thắng được nó, đó là một chiến thắng lớn lao chớ không phải thua thiệt, nhưng người đời không biết điều này. Đối với người tu, mỗi khi gặp trường hợp trái nghịch, cơn phẫn nộ nổi lên, lúc đó mình dìm nó xuống và bình tĩnh được, đó là mình đã thắng, trên đường tu đã bước một bước khá dài. Nếu để một trận lôi đình nổi lên thì tất cả công phu tu đều tiêu tan.
Bình thường chúng ta ăn ở hiền lành, nói năng đạo đức, tới khi nổi sân la hét lên thì những người chung quanh không còn thấy mình là người đạo đức nữa mà là người nóng giận, hung dữ. Bởi vậy tu khác người thế gian, người thế gian nổi giận la hét người ta còn bỏ qua, tha thứ được, chớ người tu mà nóng giận la hét ít ai tha thứ. Nổi nóng chứng tỏ mình còn nông nổi, cạn cợt, đạo đức chưa thâm hậu.
Vậy nên đã tu, tất cả quí vị phải ráng kềm chế, chiến thắng cơn phẫn nộ nơi mình. Những điều trái tai gai mắt chúng ta xem thường, bỏ qua, đừng nổi cơn giận tức la hét, sanh ra những chuyện lôi thôi, người khác nghe thấy, đánh giá tập thể của mình không có giá trị gì. Đó là điều tôi thường hay nhắc, tất cả phải ráng thực hiện cho được.
Tôi rất thông cảm với người có trách nhiệm nhiều, vì lo lắng nhiều nên dễ nổi sân. Mình muốn bảo vệ công tác hay tập thể của mình mà có ai làm trái ngược lại dễ nổi tức lắm. Tôi nhớ hồi ở Huệ Nghiêm, mấy chú gọi tôi là ông ác. Vì tôi cố tình giữ làm sao cho Phật học đường - lúc đó có hơn ba trăm Tăng - luôn luôn tốt đẹp, học hành tiến tới và cuộc sống được đầy đủ đạo đức. Cho nên việc gì họ làm trái nghịch lại thì tôi dễ nổi giận.
Có một lần tôi giận run. Hôm đó có hai chú đi học trường Bồ-đề về, ngồi ăn cơm với nhau. Trong bàn có bốn năm người, không biết cãi nhau cái gì đó, một chú cầm chén cơm quăng ngay vô đầu chú kia xối máu ra. Nghe vậy, chiều tôi họp chúng, giận phát run lên. Bực mình vì ở thế gian còn chưa có hành động như thế, mà trong đạo lại cư xử thô lỗ đến vậy, làm sao chịu nổi. Tôi tuyên bố: “Tội này không dung được, trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải rời khỏi Phật học viện.”
Tôi tuyên bố xong, chiều lại có một số chú lên cầu xin tha thứ. Tôi nói không thể tha thứ được, nhất định phải phạt như vậy, phải ra khỏi chúng. Một số khác nói: “Bây giờ thời buổi hỗn loạn, Thầy đuổi nó đi, rồi nó theo phe này nhóm kia, sau trở lại đánh Thầy thì sao?” Tôi nói: “Tôi chấp nhận hết! Việc làm của tôi là vì đạo, ai xử cách nào cũng vui. Nhất định trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ phải ra khỏi chúng!” Nên người ta nói tôi là Ông Ác. Tôi không thể chịu nổi trong một tập thể tu hành mà quá tệ như vậy.
Hồi xưa gặp việc như vậy thì nổi nóng, đến lúc lên Chân Không tu rồi, tôi nói đó là cái ngu của tôi, một trong ba cái ngu tôi thường kể. Bởi vì khi gặp việc xấu, dở mà mình nổi giận run lên thì đó là ngu. Bình tĩnh cũng nói được, đợi gì phải nổi giận! Nếu xử phạt, không cho người đó ở thì mình cứ tỉnh táo bình thường mà nói. Bình tĩnh là tốt, còn nổi giận run lên, người ta đánh giá sự tu hành của mình yếu đuối. Dù việc làm phải mà nổi sân cũng thành quấy, nên tôi nói là ngu. Chuyện rất phải mà mình nổi nóng thì cũng chưa phải.
Cho nên trong chúng, dù ở hoàn cảnh nào, người có trách nhiệm nặng hoặc nhẹ, hay chỉ là một chúng thường, tất cả đều phải luôn luôn dè dặt, đừng để cơn sân nổi lên. Nhất là ở Thiền viện này, nơi người ta cho là đầy đủ điều kiện lý tưởng để trở thành một vị Tăng đáng quí đáng mến.
Vì vậy tất cả phải cẩn trọng tối đa, đừng nóng giận, làm mất tư cách của người tu, đó là điều tôi nhắc toàn chúng. Ai có bệnh nóng nảy phải ráng hạn chế đừng để nó phát triển, cũng đừng cho nó dấy động. Giữ gìn như vậy lần lần tập thể mình sẽ càng ngày càng tốt. Vậy mong tất cả cố gắng tự kềm chế mình, những điều không hay ráng giữ đừng để xảy ra.
Ý kiến bạn đọc