Chân không là mục đích tôi đã nhắm từ buổi ban đầu...
Cùng tất cả Tăng Ni và Phật tử,
Hôm nay là ngày đầu năm Canh Thìn, tôi về đây tức là Thiền viện Chân Không để dự ngày đầu Xuân, được chư Tăng chư Ni và tất cả quí Phật tử đến làm lễ chúc Tết. Qua lời chúc nguyện của Tăng Ni và Phật tử rồi, tôi sẽ có ít lời.
Trước nhất là thành tâm cầu nguyện Tam Bảo gia hộ cho chư Tăng chư Ni và tất cả quí Phật tử sang năm mới này được một năm hòa vui mạnh khỏe, luôn luôn tinh tấn trên bước đường tu hành. Đó là lời cầu nguyện của chúng tôi.
Sau đây, chúng tôi sẽ có những lời giải thích về mục đích của tôi khi thành lập Thiền viện Chân Không. Tất cả Tăng Ni và Phật tử, những người đã có mặt lúc trước, chắc không còn lạ gì với Thiền viện Chân Không. Nhưng những người mới đến hoặc là mới học thì chưa biết rõ. Giờ đây tôi nói lên mục đích của tôi khi thành lập Thiền viện này như thế nào.
Bởi vì trong thời gian tu, tôi cố gắng tu hành tìm cho ra manh mối giải thoát sanh tử mà đức Phật từng dạy người xuất gia. Chính vì nỗ lực chuyên tu trong thời gian nhập thất tại đây, tôi thấy được mục tiêu cứu kính của sự giải thoát. Cho nên tôi mở cửa thất ra và bắt đầu xây dựng Thiền viện Chân Không để hướng dẫn chỉ dạy cho Tăng Ni và Phật tử biết được con đường tu, đạt được mục đích đức Phật đã dạy.
Tại sao tôi đặt tên Thiền viện này là Chân Không? Có lắm vị cợt tôi, họ nói rằng ai muốn lên Thiền viện Chân Không thì phải đi chân trần. Chân Không là chân trần không có giày dép gì hết.
Thâm lý của Chân Không rất là sâu kín, siêu thoát. Người thường không thể hiểu được. Hôm nay tôi sẽ giải thích nghĩa Chân Không cho Tăng Ni, Phật tử biết. Hiểu được nghĩa Chân Không tức là biết được mục đích của tôi nhắm.
Tất cả chúng ta khi đặt vấn đề gầy dựng đường lối tu thì phải có mục đích. Mục đích chánh của người tu Phật là giải thoát sanh tử. Cho nên nói tu để giải thoát sanh tử. Nhưng cái gì đưa chúng ta đến giải thoát sanh tử? Đó là vấn đề hết sức quan trọng.
Khi đặt tên Chân Không thì những người có cái nhìn cạn cợt không hiểu, không thấu triệt được. Chớ những người có nghiên cứu kinh điển sâu thì chắc không có ngại gì. Bởi vì từ chuyên môn trong nhà Phật nói rằng “Chân không diệu hữu”. Đứng về thể thì nó là Chân không, đứng về dụng nó là Diệu hữu. Nhưng cái diệu hữu không thể có nếu thiếu chân không. Vì vậy chân không là Thể tánh của diệu hữu. Đó là tôi nói về danh từ. Tôi dụ chân không cũng như nước biển, diệu hữu cũng như sóng biển. Sóng có là từ nước, nhưng nước không phải sóng. Nước không có sóng nhưng vì duyên gió thổi mạnh, mặt nước dậy sóng. Như vậy dậy sóng là cái dụng ở bề ngoài, ở bên trên. Nhưng thể của nước không phải sóng và nó trùm khắp.
Đối với Thể chân không là thể không sanh không diệt. Bởi không sanh không diệt cho nên khi chúng ta tu thể nhập được Bản thể đó thì không còn bị sanh tử luân hồi nữa. Cho nên nói là giải thoát sanh tử. Ai tu muốn đạt được mục đích giải thoát thì đều phải đi sâu, nhận chân được lý chân không, sống được với cái Thể chân không. Đó là giải thoát sanh tử.
Cho nên khi làm bài thơ Chân Không, tôi đặt hai câu đầu như thế này: “Chân không thể bất biến, huyễn hữu thường đổi thay.” Thể chân không không đổi dời, nhưng về hình thức huyễn hữu thì luôn luôn sanh diệt, đổi thay. Nói đến chân không là nói đến Thể tánh bất sanh bất diệt sẵn có ở mọi người chúng ta, nhưng tất cả chúng ta quên. Chúng ta chỉ thấy, chỉ biết, chỉ nhận cái huyễn hữu thôi. Huyễn hữu là cái tạm bợ hư giả mà chúng ta cho là thật, nên kẹt mắc ở đó. Vì vậy đi mãi trong luân hồi sanh tử. Đây là tôi chỉ lý giải về chữ chân không. Còn tầm vóc quan trọng của chân không như thế nào thì tôi sẽ dẫn những bài kệ của các vị Tổ để quí vị thấy, các ngài nhận ra Thể chân không như thế nào và bảo nó quan trọng đến đâu.
Như Lục tổ Huệ Năng khi đến chỗ Ngũ Tổ, lúc đó Ngũ Tổ bảo chư Tăng trong chùa Huỳnh Mai phải trình kệ để Ngài thấy được chỗ tu hành của các vị tiến đến đâu, đạt thế nào để Ngài truyền y bát làm Tổ thứ sáu. Khi ấy trong đại chúng có ngài Thần Tú là Giáo thọ sư cho năm trăm chúng. Về văn thì Ngài rất tài, nhưng về đạo thì chưa sâu. Song vì trong chúng, Ngài là người lớn là Giáo thọ sư nên phải đứng ra trình kệ với Ngũ Tổ. Bài kệ của Ngài khi đem lên trình mà vẫn còn ngờ chưa đến nơi nên Ngài lén viết bài kệ dán ở bên vách, chớ không dám trình thẳng với Ngũ Tổ. Bài kệ là:
Thân thị bồ-đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài,
Thời thời cần phất thức,
Vật sử nhạ trần ai.
Tạm dịch:
Thân như cây bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng,
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi nhơ.
Quí vị nghe bài kệ hay chưa? Thân như cây bồ-đề, tâm là đài gương sáng, luôn luôn phải lau chùi, chớ để dính bụi nhơ. Ngài dụ thân mình giống như cây bồ-đề, tâm mình như đài gương sáng. Đài gương sáng nhưng nếu để bụi phủ thì nó sẽ tối, sẽ mờ nên phải luôn luôn lau chùi thì nó mới được sạch mãi, sáng mãi. Bài kệ này với người thường như chúng ta thấy rất là hay, gần gũi để chúng ta tu hành. Bởi vì nơi tâm chúng ta hiện giờ mù mịt u tối là tại cái gì? Tại vì những bụi nhơ phiền não xấu xa hay là vọng tưởng cứ che phủ? Vì vậy mà ta phải lau phải chùi luôn, nó mới sáng. Như vậy với bài kệ này chúng ta thấy hay rồi. Nhưng với Lục tổ Huệ Năng, khi ấy là một ông cư sĩ giã gạo dưới nhà bếp, nghe ông Điệu nói có bài kệ trình ở trên thì ông xin lên để xem và nhờ đọc giùm. Khi nghe đọc xong, ông liền làm một bài kệ đối lại với bài kệ đó. Bài kệ của Lục tổ Huệ Năng như sau:
Bồ-đề bổn vô thọ,
Minh cảnh diệc phi đài,
Bản lai vô nhất vật,
Hà xứ nhạ trần ai.
Tạm dịch:
Bồ-đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ.
Qua bốn câu kệ đó, chúng ta thấy Ngài phủi hết, phủi sạch tất cả cái gì của ngài Thần Tú. Ngài Thần Tú nói thân là cây bồ-đề thì Ngài nói Bồ-đề không có cây. Thân như cây bồ-đề là cả một hình thức. Thân là một hình thức, cây bồ-đề là một hình thức. Tâm là đài gương sáng, thì tâm giống như cái gương để trên đài. Cái gương và cái đài là hình thức. Với Lục Tổ thì Ngài nói gương sáng không cần đài. Tại sao vậy? - Bởi vì gương sáng là tự nó sáng, chớ đâu phải để trên đài cao nó mới sáng. Chúng ta thấy lối diễn đạt của Lục Tổ, Ngài không chấp nhận những hình thức mà chỉ thẳng Tâm thể. Tâm thể tự trong sáng, chớ không phải có cái đài nó mới sáng. Qua hai câu trên, Ngài chỉ rõ Bồ-đề là Tánh giác. Tánh giác không có hình thức là cây. Gương sáng là chỉ cho tâm. Tâm trong sạch cũng không phải là đài. Như vậy Tánh giác và Tâm thanh tịnh của mình không có hình không có tướng. Với ngài Thần Tú, Ngài vẽ thành hình tướng. Bởi hình tướng cho nên Ngài mắc kẹt.
Đến câu thứ ba, “bản lai vô nhất vật” là xưa nay không một vật, “hà xứ nhạ trần ai” chỗ nào dính bụi nhơ. Nếu tâm mình, Bồ-đề của mình là một vật có hình có tướng thì nó mới dính bụi, bị những thứ nhơ nhớp dính vào lấp vào, cho nên mờ tối. Nhưng sự thật Tâm thể của mình xưa nay không một vật. Nếu là vật thì không phải Tâm thể, mà Tâm thể thì không phải vật, cho nên Ngài nói xưa nay không một vật. Không một vật thì chỗ nào dính bụi bặm được.
Sở dĩ chúng ta nói tâm của mình nhơ, tâm của mình nhiễm. Nó nhơ nó nhiễm là cái Tâm thanh tịnh hay cái tâm đang theo cảnh trần. Sở dĩ nhơ nhiễm là tại vì chúng ta dùng cái tâm sanh diệt chạy theo trần cảnh nên mới nhơ, mới nhiễm. Chớ Tâm chân thật không có hình tướng, làm gì có nhơ, làm gì có nhiễm. Hằng ngày chúng ta chỉ sống với tâm sanh diệt, chỉ sống với tâm đối đãi phân biệt. Đó là tâm hư ảo mà chúng ta cho là tâm mình, cho là tâm thật. Vì vậy mà nó bị nhơ bị nhiễm. Hay nói như ngài Thần Tú là nó bị bụi bặm dính. Chúng ta nhận sâu thấy rõ được Tâm chân thật tức là Thể tánh bất sanh bất diệt của mình, thì cái đó không có gì làm nhơ, không có gì làm nhiễm được hết. Vì vậy Lục Tổ nói “bản lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai”, tức là xưa nay không một vật thì chỗ nào dính bụi nhơ được. Có vật thì mới dính, không vật thì làm sao dính.
Như vậy Lục Tổ nhìn tận tường cái Tâm thể thanh tịnh không sanh diệt, cho nên Ngài nói rõ nó không một vật, không dính bụi bặm. Còn ngài Thần Tú chỉ trên phương diện tu hành, còn mắc kẹt trong tâm đối đãi có hình có tướng nên bị bụi dính, cần phải lau chùi.
Lục Tổ trình bày ý của Ngài tận tường như vậy nên Ngũ Tổ nhìn thấy bài kệ, Ngài biết người này đã đạt đạo. Cho nên Ngài thầm truyền y bát cho Lục Tổ. Vì vậy nói tới Lục Tổ là nói tới con người nhận chân được cái Thể bất sanh bất diệt của chính mình. Nên có lần dạy chúng, Ngài nói: “Phật dạy tất cả pháp để trị tất cả tâm. Ta không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp.” Nghĩa là Phật dạy mỗi pháp môn tu là để trị tâm bệnh cho chúng sanh. Chúng sanh có tâm bệnh mới cần pháp Phật để trị. Với Ngài, tâm bệnh đã hết sạch thì đâu cần pháp của Phật nữa. Như vậy để thấy cái tâm sanh diệt nơi Ngài đã lặng, chỉ còn Tâm thể bất sanh bất diệt. Lúc đó pháp của Phật đối với Ngài không cần thiết. Bởi vì pháp Phật là phương thuốc trị tâm bệnh. Cũng như thế gian có những thứ thuốc trị thân bệnh. Thân chúng ta bệnh cần thuốc trị. Nếu thân không bệnh có cần thuốc không? Thuốc cũng thừa. Cho nên chỗ đó là chỗ hết sức thiết yếu.
Cái “Bản lai vô nhất vật” này là cái gì? Đó là một lối nói khác của cái Thể chân không. Thể chân không là Bản lai vô nhất vật của Lục Tổ thấy ngày xưa. Chính vì Lục Tổ nhận ra Bản lai vô nhất vật mà Ngài tu giải thoát sanh tử. Bây giờ chúng ta nhận, chúng ta biết nơi mình có cái Thể chân không, Bản lai vô nhất vật. Đó là chỗ để chúng ta giải thoát sanh tử, không còn bị trói buộc, không còn bị sanh diệt nữa. Tôi dẫn bài kệ của Lục Tổ để cho quí vị thấy ý nghĩa chân không.
Bây giờ đi xa hơn là một Thiền sư Việt Nam, Thiền sư Chân Nguyên ở đầu thế kỷ mười tám, Ngài có làm bài kệ:
Pháp tánh Như Lai vô nhất vật,
Ứng độ quần sanh hữu bách ban,
Nhược ngộ chân không hằng địch diện,
Như Lai thường trụ tại Linh San.
Tạm dịch:
Pháp tánh Như Lai không một vật,
Ứng độ quần sanh việc cả trăm,
Nếu ngộ chân không luôn đối mặt,
Như Lai thường trụ ở Linh San.
Chính Thiền sư Chân Nguyên ở đời Lê, ngộ được lý Thiền rồi, Ngài mới viết ra quyển Kiến Tánh Thành Phật, tôi dịch và đã cho in. Ngài nói Pháp tánh là không có một vật. Không một vật mà khéo nhận được, khi nhận được Pháp tánh tức là Phật tánh. “Ứng độ quần sanh hữu bách ban” nghĩa là ứng theo trình độ của chúng sanh để độ họ thì hiện ra trăm thứ ngàn thứ. Như vậy thì “Pháp tánh Như Lai vô nhất vật” đó là Chân không. “Ứng độ quần sanh hữu bách ban” là Diệu hữu. Chân không chúng ta đạt được rồi thì mới có diệu dụng là diệu hữu. “Nhược ngộ chân không hằng địch diện” tức là nếu ngộ chân không luôn ở trước mặt. “Như Lai thường trụ tại Linh San” thì đức Phật thường còn ở trên hội Linh Sơn chớ Ngài không có tịch. Ở trên hội Linh Sơn là đức Phật Thích-ca. Còn đức Phật của mỗi người chúng ta ở đâu? Ở hội nào? Đức Phật Thích-ca không sanh không diệt có mặt mãi trên hội Linh Sơn. Nếu chúng ta nhận được Thể chân không thì đức Như Lai chân thật của mình thường ở tại hội nào? Hội Chân Không hay hội Thường Chiếu?
Như vậy quí vị mới thấy lẽ thật của nó, giá trị của nó đối với chư Tổ khi nhận thấy rồi thì biết rõ ràng. Tất cả chúng ta khi nhận được cái chân không không sanh không diệt thì nó hằng hữu ở trước mắt chớ không đâu xa. Mà không bao giờ cái đó bị sanh bị diệt. Như vậy quí vị đã thấy Tổ Huệ Năng, Ngài nói Bản lai vô nhất vật thì ở đây Tổ Chân Nguyên ở Việt Nam cũng lặp lại Bản lai vô nhất vật và chỉ thẳng cho chúng ta thấy nếu chúng ta nhận được rồi thì Phật ở thường trực nơi chúng ta, trước mắt chúng ta chớ không đâu xa hết.
Ở trên tôi dẫn hai vị Tổ.
Bây giờ đến vị Tổ thứ ba là Thiền sư Minh Chánh đầu thế kỷ mười chín, tức là sau ngài Chân Nguyên một thế kỷ. Ngài xuất hiện vào triều Nguyễn. Ngài là một Thiền sư thuộc tông Tào Động ở Việt Nam. Đọc sử, Ngài thấy sự việc xảy ra cuối đời đức Phật, tức là khi Phật sắp niết-bàn, Ngài thọ trai ở nhà ông Thuần-đà. Thuần-đà là một người thợ săn, nói theo Bắc tông thì ông nhổ được một số nấm chiên-đàn, quí lắm. Nghe đức Phật đi đến, ông bèn nấu cơm và làm nấm này cúng dường Phật. Khi cúng dường, Phật thọ trai dùng nấm đó nhưng Phật cấm không cho chư Tăng dùng. Điều này khiến người ta ngạc nhiên, Phật dùng mà không cho chư Tăng dùng.
Đây là nói theo Bắc tông. Còn theo Nam tông thì nói thế này, ông săn được con heo rừng. Ông làm thịt cúng dường Phật, Phật nhận thức ăn này nên bị bệnh kiết. Hai thuyết đó, tôi không biết ai đúng, chỉ nghe sao nói vậy. Nhưng biết rằng đây là bữa cơm cuối cùng của đức Phật Thích-ca. Sau bữa cơm đó Ngài bị bệnh kiết, rồi Ngài đi tới Sa-la Song Thọ nằm dưới hai cội cây thị tịch. Trước khi tịch, Phật bảo chúng Tăng: - Người cúng dường cho ta được phước đức lớn, một là trước khi ta thành đạo có mục nữ (chăn bò) cúng cho một chén sữa. Đó là người có công đức rất lớn. Hai là Thuần-đà. Khi Phật sắp niết-bàn, cúng bữa cơm chót. Hai người đó có công đức rất lớn. Thế mà chư Tăng không chịu. Chư Tăng cứ nguyền rủa tại ông Thuần-đà cúng bữa cơm đó có những thứ độc để Phật ăn, Phật bị bệnh kiết rồi tịch. Như vậy ông giết Phật.
Chúng ta thấy Phật thì khen, mà chúng Tăng lại chê. Vì vậy Thiền sư Minh Chánh đọc chuyện này rồi, Ngài cảm hứng làm một bài tụng để nêu ra theo nhận xét của Ngài. Tụng rằng:
Hay lắm Thuần-đà, hay lắm Thuần-đà!
Không nói ngắn, chẳng nói dài,
Ngắn dài, tốt xấu thảy đều sai.
Tìm hay lại hóa người chê vụng,
Bắn sẻ ai dè sói chực ngay.
Công danh cái thế màn sương sớm,
Phú quí kinh nhân giấc mộng dài.
Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật,
Công lao uổng phí một đời ai!
Bài tụng này, Ngài viết bằng chữ Nôm cho nên khỏi dịch. Tại sao Ngài nói “hay lắm Thuần-đà, hay lắm Thuần-đà”? Bởi vì câu chuyện Thuần-đà là cái manh mối tranh cãi giữa đại chúng. Nhưng thật tình việc tranh cãi đó không có gì là lẽ thật hết. Cho nên Ngài tán thán ông Thuần-đà. Bây giờ Ngài mới giải thích việc tranh cãi là vô nghĩa.
“Không nói ngắn, chẳng nói dài. Ngắn dài, tốt xấu thảy đều sai.” Nói ông cúng là có tội hay ông cúng là có phước v.v… đó là một lối tranh luận. Cũng như thế gian nói cái này dài, nói cái kia ngắn. Thì chữ ngắn chữ dài có giá trị cố định hay không? Nếu cây dài một thước rưỡi để dưới đất, chúng ta nhìn thấy cây này dài. Nếu đem cây ba thước để cạnh nó thì nó thành ngắn. Như vậy dài đó là cái giả danh. Khi có một cái dài hơn nữa thì cái dài đó trở thành ngắn mất. Cây ba thước nếu để gần cây sáu thước thì cây sáu thước dài, cây ba thước ngắn. Cứ vậy mà chồng lên chồng lên hoài, cái dài cái ngắn đổi thay, không có cái gì cố định hết. Cái dài cái ngắn đã không cố định thì cái tốt cái xấu có cố định không? Thí dụ như không có bình hoa nào thì người ta thấy bình hoa trang là đẹp. Nhưng nếu có bình hoa nào đặc biệt hơn thì hoa trang còn đẹp không? - Nó hết đẹp rồi. Như vậy cứ tăng lên, cái đẹp này nếu gần cái đẹp hơn thì nó trở thành xấu. Đem cái khác đẹp hơn để gần thì cái đẹp thứ hai trở thành xấu. Cứ vậy chồng lên hoài, cái đẹp không có gì cố định hết. Thế mà chúng ta cãi với nhau. Cái gì mình nói đẹp mà ai nói xấu thì mình giận, không chịu. Cái gì mình nói dài, ai nói ngắn mình không chịu. Như vậy thì cái chấp dài, cái chấp ngắn không thật. Nên ý nghĩa dài ngắn tốt xấu không có cố định. Nó chỉ là đối đãi, tạm có, tạm nói chớ không thật. Từ nghĩa dài ngắn tốt xấu đã không thật rồi, thì tất cả các đối đãi khác có thật không, có cố định được không? Hẳn là không.
Cho nên Ngài nói thêm: “Tìm hay lại hóa người chê vụng, bắn sẻ ai dè sói chực ngay.” Mình muốn cố làm cho hay, làm cho đẹp. Vì cố làm nên vô tình biến thành vụng. Muốn làm khéo mà lại trở thành vụng, chớ không được khéo. Bởi vì cái khéo cái vụng cũng là tương đối, làm sao cố định được.
“Bắn sẻ ai dè sói chực ngay”, mình thấy con chim đậu trên cành bắn nó rơi xuống để có mồi ăn. Thì vừa rơi xuống, chó sói nó chụp, tha mất. Chính cái được là bắn chim rớt. Nhưng rớt xuống rồi bị chó tha mất, vậy có được không? Mới thấy được rồi liền mất. Như vậy mới thấy hay liền dở, thấy được liền mất. Ở đời không có cái gì là cố định, không có cái gì bảo đảm là chân thật hết.
Trên phương diện đối đãi của các pháp thế gian, thì không có cái gì gọi là thật. Là đối đãi thì tạm bợ, giả dối, không có thật. Cho nên: “Công danh cái thế màn sương sớm, phú quí kinh nhân giấc mộng dài.” Hai câu này nghe xót xa làm sao!
“Công danh cái thế” tức là công danh vượt hơn tất cả người đời, chẳng qua là màn sương sớm thôi. Nghĩa là một lúc nào đó chúng ta được nó, rồi một thời gian nó cũng tan biến hết, không còn. “Phú quí kinh nhân giấc mộng dài”, giàu sang nghe tới người ta phải giật mình, phải hoảng hốt, nhưng cũng là một giấc mộng dài thôi. Hai câu này là hai câu Ngài cảnh tỉnh người đời. Tất cả cái dài ngắn, tốt xấu, được mất, hay dở đều là đối đãi, đều là tạm bợ thì công danh phú quí cũng là tạm bợ thôi. Công danh tột cùng cũng chỉ là màn sương sớm. Phú quí người nghe phải giật mình cũng là một giấc mộng dài. Như vậy còn cái gì để tham, còn cái gì để theo đuổi? Đó, để cảnh tỉnh những ai đang cặm cụi, đang dính mắc trong đám công danh, trên mồi phú quí hãy sớm thức tỉnh. Nó chỉ là giấc mộng, là màn sương thôi, không có gì thật để chúng ta phải dính, không có gì thật để chúng ta dồn hết sức trong đời mình rồi phải bị mất, chớ không được gì.
Đến phần người tu: “Chẳng hiểu bản lai vô nhất vật, công lao uổng phí một đời ai.” Quí vị thấy đời ai? Nếu tu cầu giải thoát sanh tử mà không nhận ra cái Bản lai vô nhất vật, nghĩa là không nhận ra được cái Thể chân không thì dụng công cách này, dụng công cách nọ, rốt cuộc rồi chỉ là uổng phí một đời, không tới đâu hết. Bởi vì tu là để giải thoát sanh tử, mà không nhận được cái Thể bất sanh bất diệt thì làm sao giải thoát sanh tử. Mà không giải thoát sanh tử thì mục đích của người tu đạt được cái gì? Như vậy thì bao nhiêu công lao, bao nhiêu sức lực, dụng công tu hành mà không đạt được Chân không hay là Bản lai vô nhất vật thì uổng phí đi một cuộc đời. Đáng tiếc! Đọc câu này tôi rất xót xa cho người tu. Tu một đời mà không nhận được cái Thể chân thật thì uổng phí, đáng tiếc biết bao!
Kết luận bốn câu cuối của bài thơ, Ngài cảnh tỉnh hai hạng người: Hạng người thế tục đang đắm đuối, đang mê man trên bả công danh, trên mồi phú quí phải tỉnh phải thấy nó chỉ là màn sương, nó chỉ là một giấc mộng, không có gì thật đáng để cho chúng ta phải đem hết cuộc đời chôn vùi trong đó. Hai câu sau cảnh tỉnh những người tu xuất gia mà không nhận được cái Thể chân không, mãi đuổi theo tất cả tướng sanh diệt, rốt cuộc rồi dù dùng bao nhiêu công, bao nhiêu sức chỉ là uổng phí một đời, không ra gì. Đó là lời nhắc nhở hết sức chân thật, hết sức nhiệt tình.
Chúng ta là người tu từ cư sĩ đến xuất gia đọc bài này, chắc rằng ai ai cũng phải tỉnh, cũng phải giác, đừng đắm mê những đối đãi, dù nó đẹp, dù nó được người ta tán tụng ngợi khen, cũng chỉ là cái tạm bợ, hư dối thôi không có gì chân thật.
Để kết thúc hai chữ Chân không, tôi đặt tên Thiền viện này, là hiện thân của câu Bản lai vô nhất vật của Lục Tổ, chớ không có gì lạ. Mà Bản lai vô nhất vật tức là Thể tánh chân không. Vì vậy khi thấy được chỗ này rồi, tôi liền đặt nó một cái tên để chúng ta nhìn, chúng ta nghe đều nhớ đều nhắc lại cái mục đích tối hậu của mình. Chớ không thì chúng ta tu hoặc là để cầu phước hoặc là để cầu tuệ, mà phước tuệ đơn giản chưa tới chỗ cuối cùng. Phải thấy được Thể chân không bất sanh bất diệt này thì mới xứng đáng một đời tu của mình.
Thiền viện Chân Không ra đời, đó là mục đích mà tôi đã nhắm từ khi thành lập nó. Nó là mục đích của chúng tôi nhắm, cho nên qua Thường Chiếu qua Trúc Lâm thì nó là cái gì? Ở đây là cái thể mà Thường Chiếu, Trúc Lâm là cái dụng. Từ cái thể này được rồi thì những dụng kia mới thành. Nếu không có thể này thì những dụng kia cũng khó mà đạt được. Như vậy tất cả các tên tôi đặt cho Thiền viện là một ý thức cụ thể trên đường tu trong chỗ thấy của tôi, chớ không phải tùy hứng cũng không phải bắt chước. Tôi thấy cái cần, cái cuối cùng trên đời tu thế nào, tôi phải đặt thế ấy để cho tất cả Tăng Ni ở tại đây ai cũng phải ôm ấp trong lòng mình. Tu thế nào cho được giải thoát sanh tử, tu thế nào cho thấy được Bản lai diện mục hay Bản lai vô nhất vật. Như vậy mới xứng đáng công phu tu của mình. Còn mọi việc được mất khen chê hay dở tốt xấu, chỉ là trò chơi, chỉ là cái bóng, không có gì đáng quan trọng. Cái quan trọng tối thượng của mình là đến chỗ Chân không.
Vậy thì Chân không là mục đích tôi đã nhắm từ buổi ban đầu. Đến nay, tất cả người tu trong các Thiền viện cũng như những Phật tử đã cùng đi một đường theo chúng tôi, chúng ta phải nhớ mục đích này, đừng bao giờ để sai chạy, đừng bao giờ để lạc lối. Như vậy mới đúng ý nghĩa là người tu theo Phật giải thoát sanh tử luân hồi. Vì đó là gốc, chúng ta phải đạt cho được. Chớ đừng tìm, đừng kiếm cái gì khác lạ ở bên ngoài. Như thế thì không xứng đáng, không đúng với ý nghĩa chân thật của chúng ta hi sinh tu hành và mục tiêu chúng ta đã nhắm đến.
Đó là lời giải thích của chúng tôi bằng hai chữ Chân Không. Mong tất cả Tăng Ni và Phật tử biết rõ để ứng dụng tu cho đạt được mục đích đó mới xứng công mình, mới đáng con nhà họ Thích. Đây là chỗ mong mỏi, trông đợi của tôi.
Ý kiến bạn đọc