
GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
KINH ÐẠI BẢO TÍCH
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999
XIV
PHÁP HỘI
PHẬT THUYẾT NHẬP THAI TẠNG
THỨ MƯỜI BỐN
Hán Dịch: Pháp Sư Nghĩa Tịnh
Việt Dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh Như vậy tôi nghe, một lúc đức Phật ở thành Ca Tỳ La vườn Đa Căn Thọ chúng Tỳ Kheo vô lượng người câu hội.
Bấy giờ đức Thế Tôn có em trai tên Nan Đà, thân như màu hoàng kim đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu thấp hơn Phật bốn ngón tay. Vợ tên Tôn Đà La nghi dung đoan chánh thế gian ít có, đẹp sáng siêu tuyệt người đều thích thấy. Nan Đà cưng vợ triền miên lưu luyến không tạm xa rời, tình ái nhiễm rất nặng quyết chung sống trọn đời.
Đức Thế Tôn xét biết đến thời kỳ thọ hóa độ, bèn vào lúc sáng sớm đắp y cầm bát đem Trưởng lão A Nan làm thị giả vào thành khất thực, kế đến cổng nhà Nan Đà mà đứng. Đức Thế Tôn dùng sức đại bi phóng ánh sáng màu hoàng kim chiếu khắp trong nhà Nan Đà đều thành màu hoàng kim cả.
Nan Đà nghĩ rằng ánh sáng bỗng chiếu đến chắc là đức Như lai. Liền sai người hầu ra cổng xem, vội trở vào báo rằng đức Thế Tôn đứng tại cổng nhà. Nan Đà nghe báo liền muốn ra mau nghinh lễ đức Thế Tôn.
Tôn Đà La tự nghĩ nếu ta để y đi, đức Thế Tôn tất định cho y xuất gia. Nàng bèn níu áo chồng lại.
Nan Đà bảo vợ nay nên tạm cho ta đi ra lễ đức Thế Tôn rồi ta liền trở vào.
Tôn Đà La nói cùng nhau ước kỳ hẹn tôi mới cho đi. Nàng lấy phấn ướt đắp lên trán rồi nói với chồng rằng : Điểm này chưa khô phải trở vào, nếu trễ hẹn phải phạt năm trăm tiền vàng. Nan Đà ưng chịu rồi liền ra ngoài cổng lễ chưn đức Phật, tiếp lấy bát của Như Lai mang vào nhà đựng đầy cơm ngon bưng ra ngoài cổng.
Đức Thế Tôn liền bước đi đồng thời ra dấu cho A Nan chớ có lấy bát ấy.
Đức Như Lai Đại Sư oai nghiêm tôn trọng, Nan Đà chẳng dám kêu đứng lại, bèn trao bát đầy cơm cho A Nan.
Ngài A Nan hỏi : "Vừa rồi anh tiếp lấy bát ở nơi ai ?".
Nan Đà nói : "Ở nơi đức Phật".
Ngài A Nan nói : "Như vậy nên trao cho đức Phật".
Nan Đà chẳng dám gọi đức Phật chỉ lặng lẽ đi theo sau.
Về đến tinh xá ở vườn Đa Căn Thọ, đức Thế Tôn rửa tay chưn rồi đến ghế mà ngồi. Nan Đà dâng bát cơm. Đức Thế Tôn ăn xong bảo Nan Đà rằng : "Em xuất gia được chăng ?". Vì đức Thế Tôn thuở xưa lúc tu Bồ Tát đạo, đối với cha mẹ sư trưởng và chư tôn túc chưa hề trái lời dạy bảo, nên lời dạy của Phật không ai trái lại. Do đó mà Nan Đà nghe đức Phật bảo xuất gia liền đáp rằng : "Xuất gia được".
Đức Thế Tôn liền sai Ngài A Nan cạo râu tóc Nan Đà.
Ngài A Nan vâng lịnh đức Phật tìm người đến cạo.
Nan Đà nói với người ấy rằng : "Ngươi biết chăng, không bao lâu ta sẽ làm Chuyển Luân Vương, nếu ngươi cạo tóc ta, ta sẽ chặt cánh tay ngươi".
Người ấy sợ hãi gói dao lại muốn từ đi về .
Ngài A Nan vội bạch đức Phật. Đức Phật đến hỏi Nan Đà : "Em chẳng xuất gia ư ?".
Do oai của đức Phật, Nan Đà thưa : "Xin xuất gia".
Đức Thế Tôn cầm bình nước rưới lên đầu Nan Đà, tịnh nhơn liền cạo.
Nan Đà nghĩ rằng nay phải kính phụng đức Thế Tôn, ban ngày tạm xuất gia, chờ tối sẽ về nhà. Đến chiều tối, Nan Đà theo đường cũ đi về nhà. Đức Thế Tôn hóa hố lớn ngay giữa đường. Nan Đà thấy hố ấy tự nghĩ rằng : Bây giờ không làm sao đi về nhà được, đành phải xa Tôn Đà La. Đêm nay nhớ tưởng nàng có thể chết được. Nếu còn sống, sáng mai sẽ về. Vì nhớ Tôn Đà La nên Nan Đà sầu khổ suốt đêm.
Biết ý nghĩ của Nan Đà, đức Phật bảo Ngài A Nan đến cho Nan Đà hay là đức Phật sai Nan Đà làm tri sự nhơn.
Ngài A Nan tuân hành lời đức Phật.
Nan Đà hỏi A Nan : "Sao gọi là tri sự nhơn và phải làm gì ?"
Ngài A Nan nói : "Phải kiểm điểm các việc trong chùa".
Nan Đà hỏi : "Phải làm những sự gì ?".
Ngài A Nan nói : "Nầy Cụ thọ ! Phàm người tri sự, lúc chư Tỳ Kheo đi khất thực phải rưới quét trong chùa, lấy phân trâu mới thứ đệ tô cho sạch, phải để ý canh phòng chớ cho thất lạc, có việc phải phán quyết thì đem bạch chư Tăng. Nếu có hương hoa thì đem trao cho chúng. Đêm đến thì đóng cổng đóng cửa đến sáng mới mở. Chỗ đi đại tiểu phải thường rửa lau. Trong chùa nếu có chỗ nào hư thì phải tu bổ".
Nghe xong Nan Đà nói :"Thưa Đại Đức ! Như lời đức Phật sai bảo, tôi xin vâng làm".
Sáng ngày đến giờ tiểu thực, chư Tỳ Kheo chấp trì y bát vào thành Ca Tỳ La khất thực.
Nan Đà thấy chùa vắng người liền nghĩ rằng ta quét chùa xong sẽ trở về nhà. Do thần lực của Phật, chỗ Nan Đà quét sạch hiện ra phân dơ. Thấy vậy Nan Đà bỏ chổi hốt sạch phân, nhưng phân vẫn còn không hốt hết được. Nan Đà nghĩ rằng : Thôi mặc, đóng cửa chùa rồi về. Cũng do thần lực của đức Phật, đóng cửa phòng này xong qua đóng cửa phòng kia thì phòng này cửa lại tự nhiên mở trống.
Nan Đà lo rầu nghĩ rằng nếu có kẻ trộm xâm phạm thì có hại gì.
Ta sẽ làm vua lại xây trăm ngàn ngôi chùa lớn tốt hơn đây. Ta nên về nhà. Sợ đi đường lớn gặp Phật nên Nan Đà theo đường nhỏ mà đi. Đức Phật biết bèn từ đường nhỏ ngược chiều đi lại. Từ xa Nan Đà thấy Phật, chẳng muốn gặp Phật, liền ẩn mình trong tàng cây rậm bên đường. Thần lực của Phật làm cho các nhánh cây đều cất cao lên lộ Nan Đà ra.
Đức Phật hỏi Nan Đà : "Em từ đâu đến đây nên theo ta".
Nan Đà hổ thẹn cúi đầu đi theo Phật.
Đức Phật biết Nan Đà quá luyến ái vợ, muốn dẫn tiếp Nan Đà khiến xả ly nên đức Phật ra khỏi thành Ca Tỳ La đến Thất La Phiệt ở tại vườn Lộc Từ Mẫu của bà Tỳ Xá Khư.
Đức Phật thầm nghĩ Nan Đà ngu si nhiễm hoặc mãi nhớ vợ chẳng bỏ tình ái, nên làm phương tiện cho thôi dứt.
Đức Phật bảo Nan Đà rằng : "Từ trước em có thấy núi Hương Túy chưa ?". Nan Đà thưa chưa từng thấy.
Đức Phật nói : "Nếu như vậy em nên nắm chéo y ta".
Nan Đà tuân lời nắm chéo y của đức Phật.
Lúc ấy đức Thế Tôn dường như Nga Vương bay lên hư không đến núi Hương Túy dắt Nan Đà xem ngó hai bên. Dưới cây có trái kia thấy một con khỉ cái mù một mắt đang ngửa mặt nhìn sững đức Như Lai.
Đức Phật bảo Nan Đà rằng con khỉ cái này sánh với Tôn Đà La thi ai đẹp ?
Nan Đà thưa : "Tôn Đà La con giòng Thích Ca đẹp như thiên nữ nghi dung đệ nhứt trong đời không có hai người. Khỉ cái này đem sánh với nàng thì ngàn muôn ức phần chẳng bằng một".
Đức Phật hỏi : "Em có thấy thiên cung chưa ?".
Nan Đà thưa rằng chưa thấy.
Đức Phật lại bảo Nan Đà nắm chéo y rồi như Nga Vương bay lên hư không đến trời Đao Lợi, khiến Nan Đà nhìn ngắm cảnh thù thắng ở cõi trời. Nan Đà tuân lời đến vườn hoan hỉ, vườn thể thân, vườn thô thân, vườn giao hiệp, cây viên sanh, tòa Thiện Pháp Đường, các thắng cảnh cõi trời như vậy, nào cung điện vườn tược, nào hoa quả ao tắm, những chỗ dạo chơi vui vẻ thù thắng đều quan sát hết.
Kế đến Nan Đà vào trong thành Thiện Kiến, lại thấy các thứ âm nhạc âm thanh vi diệu, nhà cửa cao rộng màn che trướng phủ, nơi nào cũng có các thiên nữ cùng nhau vui đùa. Nan Đà xem khắp mọi cung, thấy có một cung điện chỉ có thiên nữ mà không có thiên tử, bèn hỏi thiên nừ rằng : "Tại sao mọi cung đều có thiên tử thiên nữ ở chung cùng nhau vui thú, mà cung này chỉ có toàn thiên nữ ?".
Thiên nữ đáp : "Đức Thế Tôn có người em trai tên Nan Đà theo Phật xuất gia tu phạm hạnh mạng chung sẽ sanh nơi đây, chúng tôi chờ ông ấy".
Nan Đà nghe nói vui mừng hớn hở vội trở lại chỗ đức Phật.
Thấy Nan Đà, đức Phật hỏi em có thấy cảnh thắng diệu ở cõi trời chăng ? Nan Đà thưa đã thấy, rồi thuật lại mọi sự đã được thấy.
Đức Phật hỏi có thấy thiên nữ chăng ?
Nan Đà thưa : "Đã thấy".
Đức Phật hỏi : "Các thiên nữ ấy sánh với Tôn Đà La thì ai đẹp ?".
Nan Đà thưa : "Đem Tôn Đà La so với các tiên nữ ấy thì cũng như đem con khỉ cái chột mắt ở núi Hương Túy sánh với Tôn Đà La, trăm ngàn muôn lần chẳng bằng một".
Đức Phật bảo Nan Đà rằng : "Người tu phạm hạnh có thắng lợi ấy, nay em nên gắng tu phạm hạnh sẽ được sanh cõi trời hưởng khoái lạc này".
Nan Đà nghe đức Phật nói lòng vui mừng đứng yên.
Bấy giờ đức Thế Tôn cùng Nan Đà rời cõi trời Đao Lợi trở lại rừng Thệ Đa. Từ ngày ấy vì ái mộ thiên cung mà Nan Đà chuyên tu phạm hạnh.
Đức Phật biết tâm niệm của Nan Đà nên sai Ngài A Nan đi truyền lịnh đức Phật cho các Tỳ Kheo không người nào cùng Nan Đà ngồi chung chỗ, kinh hành đồng chỗ, để y một sào, để bát một chỗ, để bình một chỗ, chẳng được đồng một chỗ với Nan Đà mà đọc tụng kinh điển.
A Nan truyền lịnh đức Phật, các Tỳ Kheo đều tuân hành.
Nan Đà thấy mọi người xa lánh mình thì rất hổ thẹn. Lúc sau, Ngài A Nan cùng các Tỳ Kheo ở trong nhà thị giả vá y phục. Nan Đà nghĩ rằng các Tỳ Kheo đều rời bỏ tôi chẳng ở đồng một chỗ. Còn A Nan nầy là em trai tôi há lại lánh tôi.
Nghĩ vậy Nan Đà liền đi vào nhà ngồi bên A Nan.
Lúc ấy A Nan vội đứng dậy tránh ra. Nan Đà nói : "Nầy A Nan ! Các Tỳ Kheo khác bỏ tôi đã đành. Còn A Nan là em trai tôi sao nỡ ghét lánh tôi".
Ngài A Nan đáp : "Thiệt có lý ấy, nhưng anh tu đạo riêng, còn tôi theo đường khác, vì vậy mà phải tránh nhau".
Ngài Nan Đà hỏi : "Thế nào là đạo anh đường em ?".
Ngài A Nan đáp : "Anh thích sanh cõi trời mà tu phạm hạnh, tôi cầu Niết Bàn mà trừ dục nhiễm vậy".
Ngài Nan Đà nghe lời ấy càng thêm lo buồn.
Đức Thế Tôn biết tâm niệm của Nan Đà nên đến hỏi :"Em đã thấy địa ngục chưa ?".
Ngài Nan Đà thưa : "Chưa thấy".
Đức Phật bảo Ngài Nan Đà nắm chéo áo y của Phật rồi đem Nan Đà vào trong địa ngục. Đức Phật đứng qua một bên bảo Ngài Nan Đà đi xem các nơi trong địa ngục. Ngài Nan Đà liền đi, trước hết thấy sông tro, kế đến rừng gươm, sông phẩn. Vào trong quan sát thấy các chúng sanh thọ nhiều sự khổ : hoặc bị kềm rút lưỡi, bẻ răng, móc mắt, hoặc bị cưa sẻ đôi thân thể, hoặc bị búa chặt rời tay chưn, hoặc bị mâu xuyên qua thân, hoặc roi đánh, xóc đâm, hoặc bị chùy sắt đập nát, hoặc bị rót nước đồng vào miệng, hoặc bị ném lên cây gươm núi dao, hoặc bị chày giã đá xay, hoặc ôm cột đồng nằm giường sắt cháy đỏ, lại thấy vạc sắt đốt lửa lớn dầu nước sôi trào nấu các hữu tình, lại thấy một vạc dầu nước sôi sục mà không có ai bị nấu trong ấy.
Ngài Nan Đà hỏi duyên cớ. Ngục tốt giải đáp rằng : "Em trai đức Phật là Nan Đà chỉ nguyện muốn sanh thiên mà tu phạm hạnh, rồi đây ông sẽ được sanh cõi trời tạm hưởng khoái lạc, khi thân trời mạng chung sẽ phải vào vạc dầu sôi này, nên tôi chụm lửa chờ ông ấy".
Nghe ngục tốt nói, Ngài Nan Đà rất kinh sợ rởn ốc dựng lông mồ hôi lạnh tuôn ra, tự nghĩ rằng nếu nó biết mình là Nan Đà có thể nó sẽ lấy chĩa xom mình bỏ vào vạc để nấu. Ngài Nan Đà vội vã chạy gấp về chỗ đức Phật.
Ý kiến bạn đọc